I. DẪN NHẬP:
Là thiền sinh Phật tử, chúng ta rất quen thuộc bài kinh “Bát Nhã Tâm Kinh”. Mở đầu là câu: “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba-la-mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách”. Câu kinh này được giải thích là đức Tự Tại Bồ Tát đã qua thời gian hành trì thâm sâu và mở được con mắt tuệ, tức trí tuệ tâm linh, còn gọi là trí tuệ Bát nhã. Đây là trí tuệ của bậc giác ngộ đến bờ giải thoát. Với trí tuệ tâm linh siêu vượt này, Bồ-tát soi chiếu thấy thân tâm “đều không”, nên vượt qua tất cả mọi khổ ách!
II. NGŨ UẨN LÀ GÌ?
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố. Trong bài này chúng ta có thể hiểu nhiều yếu tố họp lại nên gọi là uẩn.
Kinh “Vô Ngã Tướng”, Phật dạy rằng: Con người kết hợp bởi hai phần: Vật chất là Sắc, và tinh thần là Danh. Danh và Sắc do nhiều yếu tố hợp lại mà thành. Sắc do đất, nước, gió, lửa hợp lại gọi là Sắc uẩn. Trên thân người có móng tay, móng chân, tóc, tai, mắt, mũi, lưỡi, da v. v… Bên trong có óc, thịt, xương, tim, phổi, gan, ruột, máu v. v…
Trong Kinh dạy con người có 6 căn: Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân và Ý thức gọi là 6 nội xứ. Sáu nội xứ nằm trên thân mình. Đối tượng của 6 nội xứ là: Sắc (Hình dáng), thanh, hương, vị, xúc, pháp gọi là 6 ngoại xứ.
Sáu nội xứ của mình lại là 6 ngoại xứ của người đối diện. Để ý thêm một chút thì nội xứ này trở thành ngoại xứ của nội xứ kia.
Thí dụ: Con mắt là nội xứ của mình. Khi con mắt nhìn xuống bàn tay. Bàn tay tức nội xứ thân trở thành ngoại xứ của nội xứ mắt.
Khi 6 nội xứ tiếp xúc 6 ngoại xứ hình thành 6 nhận thức, phân biệt. Đó là Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức. Gọi chung là 18 giới.
Về phần Tâm thì có: Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Mỗi yếu tố này cũng do nhiều thành phần hợp lại nên gọi là Thọ Uẩn, Tưởng Uẩn, Hành Uẩn và Thức Uẩn.
- Thọ uẩn: Là những cảm giác của thân hay, cảm thọ của tâm có ba loại:
(1) Thọ Lạc: Thích thú hay hạnh phúc.
(2) Thọ khổ: Không thích hay phiền não.
(3) Thọ vô ký: Cảm thọ không thương cũng không ghét, an nhiên hay thọ xả.
- Tưởng uẩn: Có nhiều mạng lưới tưởng như: mạng lưới ý nghĩ, mạng lưới biết có lời hay không lời, mạng lưới liên tưởng và ấn tượng ghi sâu vào tâm thức v. v… Tưởng ở đây có công dụng ghi nhận hình ảnh đối tượng hiện tại hoặc nhớ nghĩ chuyện quá khứ hay tưởng tượng chuyện tương lai.
- Hành uẩn: Là uẩn thứ hai trong Thập Nhị Nhân Duyên. Hành uẩn cũng là uẩn thứ tư trong ngũ uẩn. Hành uẩn trong ngũ uẩn là phản ứng (tâm sở) của Tâm. Trong kinh ghi rằng Hành có 50 tâm sở, còn hai tâm sở nữa là Thọ và Tưởng. Trong 50 tâm sở, quan trọng nhất tác ý (cetanã). Tác ý chủ động điều hành tập hợp các tâm sở tương ứng tạo nên Ý nghiệp. Ý nghiệp dẫn đầu, Thân và Khẩu nghiệp theo sau.
- Thức uẩn: Thức được xem là sự hiểu biết của con người. Là cái biết so sánh, phân biệt tốt xấu, phải quấy hai bên, gọi là tâm nhị nguyên. Thông thường Thức có tính quyết định nói ra lời và hành động tùy theo tâm Hành, tạo nên Khẩu và Thân nghiệp.
Thân người hay Sắc, thì ta có thể trông thấy sờ mó được. Còn Danh hay Tâm thì trừu tượng không hình tướng, nhưng Tâm là một tiến trình được hình thành dựa trên cơ chế ngũ uẩn trong thân xác con người. Tâm “biết” suy nghĩ, vui, buồn, giận hờn, yêu thích. Tâm trạng của Tâm được biểu lộ qua ánh mắt, đôi môi, âm thanh và tứ chi giúp người đối diện nhận ra sự có mặt của Tâm.
Sự thành lập ngũ uẩn bắt đầu từ các giác quan của thân như: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý trong kinh gọi là sáu nội xứ hay sáu căn. Khi giác quan tiếp xúc đối tượng ngoại trần là hình dáng, thanh, hương, vị, xúc, pháp, sẽ sinh một loạt tín hiệu tác động vào Thọ, Tưởng, Hành và Thức. Tín hiệu đó, như một làn điện xẹt rất nhanh vào tâm con người và ngay sau đó thức phản ứng, nói ra lời hay hành động, hoặc đè nén giữ lại trong tâm sự thích thú hay sự bất mãn. Dù phản ứng như thế nào đi nữa thì ngũ uẩn cũng đã được thành lập và ngũ uẩn này được xem như là ngũ uẩn sinh diệt. Từ khác gọi là “Ngũ uẩn luân hồi sinh tử”.
Dưới đây là một thí dụ về tiến trình thành lập ngũ uẩn. Thí dụ:
Vào một buổi sáng sớm, mình nhìn thấy ly cà phê bốc khói, hương thơm ngào ngạt, trong đầu tác ý muốn uống. Khi các căn: mắt, mũi, lưỡi, tay (tiếp) xúc với đối tượng là ly cà phê, thì lần lượt Thọ, Tưởng, Hành, Thức, tức ngũ uẩn có mặt.
Tay nâng ly cà phê thấy nặng hay nóng, cảm thấy khó chịu là Thọ đã có mặt. Khi uống vài ngụm cà phê, lưỡi cảm thấy mùi vị đặc trưng của cà phê (ngọt-béo-đắng). Mũi ngửi mùi thơm, mình cảm thấy vừa ý, thích thú, khoan khoái, đó là cảm giác “vui thích” tức “tham vi tế ”đã có mặt.
Tín hiệu thích mùi vị của cà phê từ Thọ tác động qua mạng lưới Tưởng. Tưởng thành lập hình ảnh ly cà phê trong đầu, tiếp theo là mạng lưới liên tưởng đến một loạt hình ảnh về những ly cà phê đã có lần thưởng thức trong quá khứ và mong muốn tiếp tục uống cà phê ngon trong tương lai….
Tín hiệu từ Tưởng chuyền sang Hành. Tại đây Hành hoạt động, do thích hay không thích mà phản ứng thành “Tâm tham” hay “Tâm sân”. Sau cùng tín hiệu tác động qua Thức. Thức là cơ chế nhận thức (biết), phân biệt. Rất nhanh chóng tùy theo phản ứng của Hành, mà Thức quyết định nói ra lời hay có hành vi thích hợp.
Tiến trình này khởi ra khi các căn (mắt, tay, mũi, lưỡi) thuộc Sắc, tiếp xúc với trần cảnh (ly cà phê). Ngay khi đó Thọ, Tưởng, Hành, Thức có mặt. Như vậy, toàn bộ Ngũ uẩn có mặt.
Kể ra thì dài, nhưng thực sự tiến trình này xảy ra chỉ trong tích tắc. Một ngày, không biết bao nhiêu lần các căn tiếp xúc cảnh trần tác động vào tâm khiến Thọ, Tưởng, Hành, Thức luôn dao động, sinh khởi, rồi lập tức diệt mất. Do vậy mà chúng cũng có ba đặc tính chung là vô thường, khổ, vô ngã.
Trên đây là tiến trình thành lập ngũ uẩn sinh diệt của người phàm phu chưa biết tu tập. Tâm của người này luôn dao động bởi tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến. Do sống trong Vọng Tâm, có khi tạo nghiệp lành cũng có khi tạo nghiệp dữ, nên khi thân hoại mạng chung không thể thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh tử!
Đời sống của mỗi con người hay mỗi ngũ uẩn kéo dài bao lâu, không ai xác định được. Có người sống 70, 80 năm, có người sống trường thọ 100 tuổi hoặc hơn, nhưng cũng có lắm người qua đời khi tuổi còn thanh xuân. Tuy không biết được bao giờ con người chết đi, nhưng chắc chắn không có người nào sống mãi trên thế gian này!
Đọc kinh, chúng ta nhớ lời Phật dạy: “Các hành đều vô thường” hay “tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, vô ngã”. Ngũ uẩn hay con người cũng là pháp hữu vi do nhiều điều kiện hợp lại mà thành, nên Ngũ uẩn cũng vô ngã.
Vậy Vô ngã là gì? Vô ngã đồng nghĩa với vô chủ, là những pháp không vững chắc, không trường tồn, vĩnh cửu, bất biến. Khác với Vô ngã, Ngã là chủ tể, là vững bền mãi với thời gian, là thường hằng. Rất tiếc Ngũ uẩn không thường hằng nên Ngũ uẩn vô ngã!
Tư duy lời Phật dạy, chúng ta thấy những điều Ngài thuyết giảng vô cùng chính xác. Tất cả mọi vật trên đời đều do nhiều nhân nhiều duyên hợp lại mà thành. Khi duyên tan rả thì vạn vật cũng từ duyên mà biến mất. Ngũ uẩn do Sắc và Tâm hợp lại mà thành. Sắc không tự nhiên có, mà nó kết hợp bởi Tứ Đại.
Quan sát thân con người, chúng ta thấy rằng thịt, da, xương cốt có tính rắn chắc là Địa Đại. Máu, nước tiểu, mồ hôi, nước mắt, nước bọt, có tính lỏng ướt là Thủy Đại. Nhiệt độ ấm nóng của cơ thể là Hỏa Đại. Hơi thở hô hấp là Phong Đại. Con người được sinh tồn là do Tứ Đại hợp thành. Khi Tứ Đại trong thân phân tán, sinh mệnh con người liền chấm dứt. Do đó vạn vật thế gian hay thân thể chúng sinh hữu tình đều là giả tướng của Tứ Đại hòa hợp mà thành chứ không có một thực thể nhất định nào khác. Tâm thì do Thọ, Tưởng, Hành, Thức hợp lại mà thành. Tất cả các yếu tố thành lập nên Ngũ uẩn không có yếu tố nào bền vững, không yếu tố nào thực sự là chủ, nên tất cả đều vô ngã.
Trở lại câu kinh : “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba-la-mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”. Khi Bồ Tát thực hành trí tuệ cao siêu tới bờ bên kia (bờ giác ngộ), soi thấy ngũ uẩn đều không, nên vượt qua tất cả mọi khổ ách.
Ở đây chúng ta hiểu rằng với trí huệ Bát nhã, Bồ tát đã nhận ra Tánh Không của Ngũ uẩn, tức không có một thực thể cố định nào hết từ Ngũ uẩn. Không có thực thể cố định thì “Ngũ uẩn có” chỉ là “giả có” chứ không phải “thật có”.
“Giả có” mà mình cho là “thật có” thì đó là mình mê lầm. Nhưng “giả có” mà nói “Không có”, thì không đúng với sự thật trước mắt.
Vì vậy không thể khẳng định là Không, cũng không thể khẳng định là Có. Thuyết pháp về “Chữ KHÔNG trong bài kinh Bát Nhã”, Đại lão Thiền Sư Trúc Lâm dạy rằng: “Muôn sự, muôn vật trước mắt chúng ta đều là cái tướng duyên hợp”. Nói “Giả Có”, vì Có mà tạm bợ, chứ không phải là thiệt. Kể cả tấm thân của ta là ngũ uẩn đây cũng thế!”
Tất cả mọi thứ trên đời này trong đó có Ngũ uẩn đều Vô ngã, đều Không, nên Bồ tát chẳng dính mắc với bất cứ những gì xảy ra trên Ngũ uẩn. Cho nên, có ai đó nặng lời xúc phạm đến mình, mình xem như chẳng có gì. Tại sao? Tại vì mình đã ngộ ra rằng thân ngũ uẩn không thật và lời nói khen chê của ai đó cũng không thật. Chẳng qua chỉ tạm bợ hư dối! Bản thân hư giả, người đối diện hư giả, lời nói hư giả, cái khổ sở hay hạnh phúc nếu có cũng là hư giả.
Mọi thứ đều không thật, thì còn cái gì làm cho mình phiền não khổ đau? Chính vì nhận ra “ngũ uẩn giai không” mà Bồ tát vượt qua tất cả mọi khổ ách là như thế!
Trong kinh có kể lại câu chuyện tôn giả Bàhiya Dãruciriya thỉnh cầu đức Phật dạy cho pháp được hạnh phúc lâu dài (pháp thoát khổ). Và đã được đức Phật thuyết ngắn gọn như sau:
“Này ông Bãhiya! Ông cần phải học tập như sau: Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy. Trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe. Trong cái thọ tưởng, sẽ chỉ là cái thọ tưởng. Trong cái thức tri, sẽ chỉ là thức tri.
“Như vậy, này Bãhiya! Nếu trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy, trong cái nghe sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ tưởng sẽ chỉ là cái thọ tưởng; trong cái thức tri sẽ chỉ là thức tri! ”- thì không có ông ở trong ấy, ông không là chỗ ấy. Do vậy, này Bãhiya! Ông không là đời này, ông không là đời sau, ông không là đời chặng giữa. Như vậy là đoạn tận khổ đau”.
Đoạn kinh trên, chúng ta có thể hiểu đức Phật dạy Bãhiya pháp tu định Tâm. Khi giác quan tiếp xúc ngoại cảnh, trong cái thấy, chỉ là cái thấy. Đây là cái thấy đầu tiên, trong sáng của mắt, tức thấy như thực. Trong cái nghe, chỉ là cái nghe, tức nghe như thực. Thọ, Tưởng và Thức cũng thế! Cái thấy biết đầu tiên khi giác quan tiếp xúc đối tượng là cái thấy biết hoàn toàn khách quan, trong sáng, không có sự can thiệp của Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn nghĩa là ngũ uẩn yên lặng tức năm uẩn đều không (ngũ uẩn giai không), nên không có tôn giả Bàhiya ở trong ấy, nghĩa tôn giả không còn chấp thủ ngũ uẩn là ta, của ta, tự ngã của ta nên thoát khỏi lậu hoặc.
Tóm lại “Ngũ uẩn giai không” trong lời dạy này của đức Phật, là khi giác quan tiếp xúc với đối tượng, tâm hành giả biết nhưng không phản ứng thích thú hay chán ghét, tâm không nói thầm về đối tượng, thì Tánh biết có mặt. Tánh biết là cái biết rõ ràng lặng lẽ, trong sáng, khách quan, là cái lóe sáng đầu tiên của Tánh giác. Lúc bấy giờ toàn bộ ngũ uẩn yên lặng, không có cái Ta, cái của Ta hay Tự ngã của Ta trong đó, hành giả thoát khỏi mọi lậu hoặc, khổ đau. Ngũ uẩn yên lặng là “ngũ uẩn giai không” còn như tâm dao động là có mặt “ngũ uẩn sanh diệt”.
Trong phạm vi bài viết hôm nay, những ai muốn khai mở trí tuệ tâm linh, nhận ra “Ngũ uẩn giai không” và “vạn pháp giai không” để thoát khỏi mọi khổ ách, thì phải tu tập theo đường lối Phật dạy. Pháp Phật dạy có hai phần đó là Pháp Học và Pháp Hành.
(1) PHÁP HỌC: Là những lời khai thị của Phật qua các bài Pháp: Tứ thánh đế, Lý duyên khởi, Pháp duyên sinh, Biến dịch (Sinh-Trụ-Hoại-Diệt-Không), Nhân quả, Vô thường, Khổ, Vô ngã v. v… Nhờ lời khai thị về cuộc đời vốn Vô thường-khổ-vô ngã nên người tu giữ được ngọn lửa Bồ đề trong tâm, không chao đảo chán nản khi bị ác duyên tấn công, mà bỏ tu nửa chừng.
Tuy nhiên, nếu thấu rõ lời khai thị của đức Phật mà không học cách thực hành, thì kiến thức Phật học cũng chỉ giống như kiến thức ngoài đời, làm lớn thêm bản ngã, biến người học Phật trở thành một người kiêu mạn, tự phụ, không ích lợi gì cho việc giác ngộ giải thoát.
(2) PHÁP HÀNH: Cho nên trong vấn đề tu tập mở mang trí huệ, Pháp Học và Pháp Hành phải đi đôi. Tu thiền có hai pháp Chỉ và Quán. Chỉ là bước đầu đi đến Định. Quán là nền tảng để đi đến Tuệ. Về Pháp Hành cũng phải học lý thuyết. Đó là học phương thức hay kỹ thuật thực hành. Về phương thức thực hành thì các thiền sinh thuộc dòng Thiền Tánh Không được Cố Thiền Sư Thông Triệt hướng dẫn từ đơn giản đến sâu sắc.
- Đơn giản là các chiêu thức kích thích Tánh Thấy bằng mắt: Nhìn gần, nhìn xa, nhìn lưng chừng, nhìn qua nhìn lại… Phương pháp này giúp tâm không kịp suy nghĩ gì trong đầu. Kích thích tánh Nghe: Tai nghe tiếng chuông, tiếng sóng biển, tiếng mưa rơi… Kích thích tánh Xúc chạm: Đi thiền hành .v. v… Những bước đầu này là Thiền Chỉ, chủ yếu là tập “không nói thầm trong não” tức “biết không lời” lúc thấy, nghe hay xúc chạm. Kết quả tâm thiền sinh tạm yên lặng nhưng chưa vững chắc.
- Để đạt được “Định Không Tầm Không Tứ” thiền sinh thực tập pháp Thầm Nhận Biết không lời, tầm tứ yên lặng. Tiến thêm bước nữa là “Chánh Niệm Tỉnh Giác”. Trong lúc tham thiền ở mức độ này, tâm hành giả hoàn toàn tỉnh thức, hành giả biết tất cả những gì xảy ra trên thân tâm nhưng không dính mắc. Chỗ này Định-Huệ đồng thời rõ ràng nhất. Cao và thâm sâu hơn nữa là “Định Bất Động”, bấy giờ các Tánh Thấy, Nghe, Xúc chạm đóng cửa, không còn nghe thấy cảm nhận những gì xảy ra xung quanh, tâm hành giả hoàn toàn yên lặng chỉ có một dòng Nhận thức biết không lời, tự nhận thức rằng mình đang ở trong định.
- Về mặt thiền Quán thì thực tập pháp Như Thật (Yathàbhùta), pháp Không Gọi Tên Đối Tượng… trong bốn oai nghi. Tâm biết rõ khi thiện pháp hay ác pháp đang khởi lên trong tâm nhưng không phản ứng, tức không phản kháng cũng không cố gắng giữ lại. Biết cái đang là của đối tượng là cái biết của Tánh giác. Tánh giác như tấm gương bình thản tự nhiên thu nhận hình ảnh khách trần đến, tồn tại và biến đi, không mời gọi cũng không xua đuổi. Cứ thế, lâu ngày, hành giả nhận ra ba tướng “vô thường, khổ, vô ngã” của khách trần, của ngũ uẩn. Tuệ giác này phá tan mọi dục ái, tham, sân, không còn chấp trước ngũ uẩn là Ta, của Ta hay Tự ngã của Ta, hành giả vượt thoát mọi khổ ách.
Với pháp tu thiền Chỉ (nền tảng đưa đến Định) giúp thân tâm yên lặng, tức “ngũ uẩn yên lặng” (ngũ uẩn giai không), thiền Quán giúp tâm mở mang trí tuệ. Dùng trí huệ soi thấu được muôn vật hay chính bản thân mình đều là “duyên hợp”, “hư giả” vì “không thực chất tính” nên “Ngũ uẩn giai không”. Thấu hiểu được như vậy thì khổ ách nào cũng qua hết!
Trong nhiều năm qua, chúng ta thường tụng “Bát Nhã Tâm Kinh”. Tụng hoài mà nhiều người vẫn còn than khổ! Đó là do mình học kinh mà không chịu ứng dụng kinh vào đời sống của mình. Lúc nào cũng thấy mình là thật, thấy người xung quanh mình là thật, thấy lời nói, hành động của người ta là thật, thấy sự được, mất của mình đều là thật v. v… Thấy cái gì cũng thật và dính mắc với nó nên mình mới khổ. Nếu nhận ra Tánh Không của vạn pháp, thấy mọi thứ đều tạm bợ, giả dối, nay còn mai mất, nay có mai không, thì mình có nên bám víu để chịu khổ hay không?
THÍCH NỮ HẰNG NHƯ