Huỳnh Công Ân
8 năm kể từ lần sang Cali năm 2014, nay tôi mới trở lại thủ đô của người tị nạn Việt Nam. Sau 4 lần đến đây, lần thứ năm này tôi không còn bỡ ngỡ với thành phố này vì đã từng thuê xe chạy ngang dọc ở đây.
Những con đường mang tên Brookhurst, Westminster, Bushard, Magnolia, Beach, Moran…và nhứt là đại lộ Bolsa quá quen thuộc với tôi. Các ngôi chợ ABC, Thuận Phát, Á Đông, Hoà Bình, Sài Gòn… đã từng ghi dấu chân vợ tôi. Lần nào đến Bolsa vợ chồng tôi đều “check-in” ở đó bằng ít nhứt một pô hình chụp trước tượng ba ông Phước, Lộc, Thọ.
Chuyến đi này có một ý nghĩa đặc biệt: tôi gặp lại chị Hương (người chị họ, con bác Ba tôi) sau 51 năm mất liên lạc. Câu chuyện na ná như chuyện sum họp người thân giữa hai miền nam và bắc Triều Tiên nhiều thập niên sau chiến tranh Cao Ly 1950-1953.
Năm 1971, chị Hương “theo chồng về xứ lạ”, một anh chồng người Mỹ trẻ tuổi, đẹp trai vừa mản hợp đồng công tác ở Việt Nam. Vài năm trước đó, anh ta là quản lý một câu lạc bộ của người Mỹ trong phi trường Biên Hoà. Anh tư Chữ, anh của chị Hương, một thượng sĩ quân cảnh ở phi trường này giới thiệu chị vào làm ở câu lạc bộ đó. Mối tình dị chủng xảy ra bất chấp sự ngăn cấm, phản đối của anh tư Chữ. Kết quả là hai đứa bé lai một trai, một gái ra đời chấm dứt biện pháp “phong toả”, “cách ly”, “ai ở đâu ở đó” của gia đình.
Ngày tiễn chị Hương lên đường có mặt bác Ba (ba của chị Hương), ba tôi và tôi. Chị Hương lúc đó chỉ biết lỏm bỏm một ít tiếng Anh (giờ thì nói tiếng Anh như gió) nên tôi phải làm thông dịch nói với anh chàng Mỹ phải chăm sóc chị tôi nơi xứ người.
Sau hơn nửa thế kỷ mới gặp lại, chị không thay đổi nhiều chỉ có giọng nói tiếng Việt âm hưởng miền quê Bến Đồng. Sổ vẫn như xưa và giọng cười dòn đặc biệt của gia đình chị Hương không thể quên được.
Biết bao nhiêu kỷ niệm xưa được nhắc lại. Tôi hỏi thăm các anh chị em của chị Hương như chị ba Cúc, anh tư Chữ, anh sáu Lạc, chị Hồng, anh Tâm, chị Giàu…Chị hỏi tôi về các anh em của tôi.
Chúng tôi hội tụ tại nhà Huệ Lan, con cô Bảy tôi đang ở thành phố Garden Grove. Bác Ba, ba tôi và cô Bảy là 3 anh em ruột. Tất cả đều đã khuất, chị Hương, tôi và Huệ Lan là sự tiếp nối của mối thân tình gia tộc đó sau bao thăng trầm của thế cuộc. Ngoài ra, gần nhà Huệ Lan còn có hai người anh của Huệ Lan, Phương và Bảy. Đi theo tôi từ Canada qua đây còn có Phụng, em gái tôi nên lần này là dịp sum họp của gia tộc họ Huỳnh gốc gác ở một nơi có tên ấp Bến Đồng Sổ, xã Lai Uyên, quận Bến Cát, tỉnh Thủ Dầu Một, một địa danh nghe quê mùa, hoang dã nhưng chứa đựng bao thâm tình.
Ngoài ra trong chuyến đi này, vợ tôi có dịp thăm gặp đứa cháu gái: Loan sang Mỹ được 4 năm và có con trai được hơn hai tuổi với người từ Mỹ về Việt Nam cưới nó cách nay 5 năm. Voẹ chồng Loan và cháu bé đi ăn uống, đi chợ đêm ở khu Phước Lộc Thọ và đi bắt cá ở New Port Beach với chúng tôi.
Và còn nữa: thân tình lối xóm. Chúng tôi gặp lại vợ chồng Thạch, vợ chồng Xinh lúc còn ở Việt Nam nhà sát cạnh nhà gia đình bên vợ tôi; vợ chồng Hà (Hà là em gái của Chi, bạn của Phụng). Thạch đưa chúng tôi đi viếng thăm chùa Ấn Độ ở Chino Hills và dẫn chúng tôi đi ăn ở những nhà hàng ngon.
Sau những thân tình gia tộc, hàng xóm là thân tình thầy trò.
Cũng như năm 2014, một số cựu học sinh Ngô Quyền, Biên Hoà : Lữ Công Tâm, Nguyễn Hữu Hạnh, Ma Thị Ngọc Huệ, Nguyễn Thị Tất Ứng khoản đãi vợ chồng tôi một bữa ăn ngon miệng ở nhà hàng Ngọc Sương với sự có mặt của đồng nghiệp tôi: anh Lê Quý Thể. Nhờ Lữ Công Tâm tôi liên lạc được với Nguyễn Văn Tôm, một học trò cũ ở Trà Vinh, hiện ở Úc. Tâm, Tôm và em trai tôi ở cùng một phi đoàn trực thăng ở sư đoàn 3 không quân Biên Hoà. Em tôi không may bị bắn rớt máy bay và mất tích trong trận An Lộc năm 1972.
Sang đây tôi gặp ba cựu học sinh Nguyễn Trãi: Hiệp và Quang ở Orange county, Thuỷ ở Las Vegas.
Khi lên bắc Cali tôi gặp lại các học trò cũ của tôi như vợ chồng Đức+Viên, ở Sacramento, vợ chồng Sơn+Định ở Oakland, vợ chồng Khanh+Lan ở San José và các em khác nhỏ hơn không học với tôi những cũng là cựu học sinh Vĩnh Bình như vợ chồng Khương (em của Nguyệt Viên), Lộc, Tịnh và vợ là Từ Hạnh, Lan và chồng là Khương.
Các em đã đưa vợ chồng tôi đi xem cầu Golden Gate, Palace Of Art và lên đỉnh đồi cao nhứt của San Francisco để ngắm nhìn thành phố này. Các em cũng dẫn chúng tôi đi ăn dimsum ở một nhà hàng Hồng Kông rất ngon miệng.
Giã từ các em cựu học sinh Trà Vinh sau mấy ngày bên nhau tránh sao không thấy bồi hồi, quyến luyến. Kể từ khi tôi lên đường nhập ngũ năm 1967, Đức và Viên là hai người học trò cũ tôi gặp sớm nhứt (40 năm) năm 2007 tại Little Sài Gòn, Võ Phụng Sơn (47 năm) năm 2014 tại Okland và Trần Công Khanh (55 năm) năm 2022 tại San José.
Xin tạm biệt những thân tình đang ở đất Mỹ, hẹn gặp lại khi có dịp.
San José, ngày 7/8/2022