Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Cuộc sống người dân miền Nam thời kỳ trước và sau thuộc địa Pháp (P2)

24 Tháng Mười Một 201610:00 CH(Xem: 17517)
GS. Nguyễn Văn Lục - Cuộc sống người dân miền Nam thời kỳ trước và sau thuộc địa Pháp (P2)

Cuộc sống người dân miền Nam thời kỳ trước và sau thuộc địa Pháp (P2)


Tài liệu của các tác giả ngoại quốc viết về xứ Nam Kỳ trước thuộc địa

Đã có nhiều sách, phải nói khá nhiều các tài liệu viết về giai đoạn trước thời kỳ thuộc địa Pháp. Có hàng trăm tác giả, tài liệu đầu nguồn qua các tên tuổi như Henri Cordier, Launay, Alexis Faure, các thừa sai như Baldinotti, Bori, Charles B. Maybon, Koffler, De Rhodes, La Bissachère, v.v.

Chỉ cần đọc Alexis Faure với “Les Francais en Cochinchine au XVIII siècle”, đặc biệt viết về Mgr Pigneau de Behaine, giám mục Adran (1891) đã là một kho tài liệu về giai đoạn Nguyễn Ánh Gia Long khôi phục giang sơn về một mối như thế nào rồi.

Một cuốn khác không kém quan trọng như “Histoire moderne du pays d’Annam (1592- 1820)” của Charles B. Maybon, Docteur ès-lettres, viết khá đầy đủ về giai đoạn mở đầu bang giao giữa Pháp-Việt Nam với Trịnh-Nguyễn, rồi Tây Sơn-Nguyễn Ánh và nhất là giai đoạn Bá Đa Lộc-Nguyễn Ánh cho đến khi Nguyễn Ánh băng hà.

Histoire moderne du pays d’Annam (1592- 1820), Charles B. Maybon, Docteur ès-lettres. Nguồn:

Histoire moderne du pays d’Annam (1592- 1820), Charles B. Maybon, Docteur ès-lettres. Nguồn: Librairie Plon, Paris

Maybon biết cuốn này vì nghĩ rằng người Pháp không mấy quan tâm đến sử Việt Nam, trừ cuốn “Cours d’hístoire d’Annamite” của Trương Vĩnh Ký viết năm 1875, vì thế, Maybon đã viết đầy đủ với nhiều chứng dẫn tài liệu mà Trương Vĩnh Ký đã không có đủ tư liệu để viết được.

Chưa kể đến các cuốn hồi ký lý thú của Barrow, Crawfurd, Hamilton, Dampier, Poivre. Trước đây ít người có cơ hội đọc những tác giả này, trong đó có người viết bài này, nhiều người Việt Nam vẫn lầm tưởng rằng họ biết rõ về đất nước mình mà thực sự chẳng biết gì cả.

Cả một quá khứ được mở toang ra cho thấy cha ông chúng ta thực sự đã sống như thế nào? Nếu căn cứ vào những tài liệu vừa kể trên, phải nói thật với nhau, xã hội của cha ông chúng ta chỉ vừa ra khỏi xã hội bầy đoàn, chưa có khái niệm chính xác về đất nước, quốc gia dân tộc. Một xã hội còn bán khai, cùng lắm vượt qua thời kỳ hái luợm, du mục, săn bắn.

Tính chất nổi bật nhất là cha ông chúng ta vẫn chưa thực sự được khai hóa.

Cái văn hóa Trung Hoa truyền vào Việt Nam, từ nhiều đời, trải qua nhiều giai đoạn cuối cùng trước những thử thách phải đương đầu với thế giới Tây Phương, nó cho thấy sự yếu kém trước sức mạnh của tàu đồng, của súng thần công và kim địa bàn!

Đây là giai đoạn cho thấy thực chất chế độ vua quan là gì? Và nó cũng cảnh báo một sự suy tàn do sự ngu dốt, bảo thủ của họ.

Ở đây, xin chỉ giới hạn vào một vài cuốn tiêu biểu.

Tôi xin chọn các cuốn Hồi ký nhờ đó biết được đời sống thực, con người Việt Nam thực, nếp sinh hoạt thực của dân mình trước thời kỳ thuộc địa. Nó cho thấy sự thật là người Việt Nam trong giai đoạn các Chúa Nguyễn được gọi chung là La Cochinhchine, Đàng trong so với xứ Tonkin, Đàng ngoài còn ở một tình trạng bán khai ở nhiều mặt. Nếp sống văn minh chưa được khai hóa. Nói chung, nó cho thấy con người Việt Nam vóc người nhỏ bé, dị hình còn đi chân đất, đóng khố. Đời sống dân chúng cực nghèo khổ, bữa đói bữa no cộng thêm sự ngu dốt về mọi mặt cũng như mê tín dị đoan trước nếp sống văn minh của người Tây Phương.

Xin tóm tắt một vài đoạn trong cuốn hồi ký sau đây, bạn đọc sẽ thấy rõ điều đó.

Đó là cuốn “Voyage de Pierre Poivre en Cochinchine”. Transcrit et présenté par Henri Cordier. Cordier đã sao chép lại và đăng trong Revue de l’Extrême-Orient, năm 1887,t3, pp 81-121, 364-510.

Pierre Poivre  (1719-1786). Nguồn: La Galerie Napoleon

Pierre Poivre (1719-1786). Nguồn: La Galerie Napoleon

Những hồi ký của ông đã đưa ra rất nhiều nhận xét khá trung thực những gì ông đã quan sát, đã tiếp xúc với triều đình nhà Nguyễn với cái nhìn xa trông rộng. Nhưng qua cuốn hồi ký, tôi có cảm tưởng có nhiều điều cần xem xét lại. Riêng Bộ trưởng hải quân Pháp đã giao hai sứ mạng cho ông khi sang xứ Đàng Trong: một là làm sao tạo được mối quan hệ buôn bán với các Chúa Nguyễn. Hai là về mặt thương mại, cần thu thập những loại cây gia vị.

Về điểm này, Poivre được coi là người đi mở đường sớm nhất cho việc liên lạc buôn bán giữa Pháp và Việt Nam bên cạnh người Bồ Đào Nha và người Anh.

Tài liệu của Pierre Poivre đã được sao chép thành hai tập; Tập thứ nhất nhan đề “Voyage de Pierre Poivre en Cochinchine (Suite): Journal d’une voyage a la Cochinchine depuis le 29 aoust 1749, jour de notre arrivee, jusqu’au 11 fevrier 1750”. Tập thứ nhất từ trang 1-78, Tập tài liệu thứ hai từ trang 79-99 với nhan đề “Description de la Cochinchine (1749-1750)- Voyage du vaisseau de la compagnie le “Machault”, à la Cochinchine en 1749 et 1750”.

Cuốn sách tuy đề tên tác giả là Poivre, nhưng thật sự người viết là một sĩ quan tùy tùng của Poivre viết. Vì thế, có những đoạn nhắc đến Poivre ở ngôi thứ ba.

Nếu tính thời điểm của chuyến đi của Pierre Poivre vào năm 1749-1750 đến xứ Cochinchina thì đó là dưới triều chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765). Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, cho đúc ấn Quốc Vương và được gọi là Võ Vương. Trong tài liệu của Poivre, ông cũng đích danh đề cập đến con người của Võ Vương, (Viou Gouvon), vị vua thứ 10 triều Chúa Nguyễn. Theo Poivre, hình dáng bề ngoài của Võ Vương là bình thường, có cái mũi quặp, đôi mắt đẹp, nước da tương đối không đen như phần đông dân chúng. Giọng nói dễ nghe, vui vẻ, nhưng có vẻ hơi tầm thường. Nói nhưng chuyện tầm phào. ( Xin xem tiếp ở phần sau)

Sau đây là tóm lược một số đoạn của cuốn sách, giúp hiểu rõ thực trạng dân xứ Đàng Trong thời đó như thế nào.

“Ngày 29 tháng 8 năm 1749 thì tầu cập bến Tourane và ở lại cho đến ngày 11 tháng 2 năm 1750. (Poivre rời nước Pháp ngày 23 tháng 10, năm 1748, mất gần một năm mới đến Việt Nam.) Tại đây, đã có một ông đội, một ông xếp về quan thuế, tiếp đón. Poivre đã nhờ viên đội chuyển thư cho vua và một vài lá thư cho các thừa sai Pháp cũng như một hai người thông ngôn. Viên đội đã cho phái đoàn của Poivre một số tiền Việt Nam, một con bò, một số gà và hoa quả. Hôm sau thì phái đoàn của Poivre phải đi Faifo (Hội An) để gặp một vị quan lớn trông coi các thuyền bè ngoại quốc. Poivre đã khai báo số quà dùng để biếu tặng lên vua và khai số hàng hóa trên tàu. Sau đó, họ có dựng một căn nhà bằng tranh ở Tourane cho thủy thủ đoàn trú ngụ.”

(Pierre Poivre, “Journal d’un voyage à la Cochinchine”, 29-8-1749, trang 2-3. Những trích dẫn Poivre về sau sẽ chỉ ghi số trang.)

Giải thích thêm. Các tàu biển ngoại quốc đến Đàng Trong bắt buộc phả bỏ neo ở Tourane mà không thể ra thẳng Huế được. Đây cũng là một trong những lý do Pháp chiếm Sài Gòn sau này.Theo một tài liệu của tác giả Robert Kirsop, một người đã đến Đàng Trong và đã sống khoảng hai năm ở đấy cùng một thời với Poivre đã đưa ra một số chi tiết quan trọng giúp hiểu rõ công việc làm của phái đoàn Pháp hơn. Nhan đề tài liệu là “Oriental Repertory”, vựng tập Phương Đông, do Ngô Bắc dịch, Gio-o.com. Chúng tôi sẽ trích dẫn đầy đủ phần tài liệu này trong phần cuối viết về Poivre.

Theo sự tường trình của Robert Kirsop, các tàu đều bỏ neo ở vịnh Đà Nẵng. Sau đó phải mất hai ngày đường đến Hội An để đóng cước phí tùy theo tầu lớn nhỏ. Tàu của Poivre chính ra phải đóng 3000 quan, nhưng đã được miễn phí. Có ba người thông dịch mà họ gọi là nhà ngôn ngữ là: Miguel, dịch tiếng Pháp. Người khác dịch tiếng Bồ Đao Nha. Và một mùa phải trả cho họ chừng 200-300 quan tiền công.

Ngoại giao quà tặng

Việc buôn bán thuở xưa trước hết khởi đầu bằng quà tặng, chưa kể thuế bến đậu tùy theo trọng lượng của tàu, nhất là nguồn gốc của tầu. Không có lễ vật, coi như việc buôn bán không thành. Lễ vật đút lót từ trên xuống dưới không trừ một người nào. Phải chăng nó trở thành một thứ triết lý sống, một thứ văn hóa trong một xã hội còn kém cỏi mọi mặt. Các chúa được đút lót theo thứ bậc, ngay cả họ hàng, quan lại, tùy chức vụ và ai cũng có phần của mình. Việc “đánh thuế” rất tùy tiện, tùy theo tàu nước nào. Tàu ở Hải Nam, ở Ma Cao, ở Siam, ở Java chịu thuế khác tàu từ Tây Phương đến.

Theo nhận xét của Chaigneau viết vào ngày 3 tháng sáu 1819 như sau:

“Dans ce pays-ci, il n’est plus possible qu’aucun navire y vienne: ce sont tous les jours de nouveaux moyens de vexations poussés à l’excès”.

(Ở xứ sở này, không một tàu bè nào có thể đến đây được. Mỗi ngày lại có những sự sách nhiễu mới đến chỗ quá mức).

(Charles B. Maybon, “Histoire moderne du pays d’Annam”, Paris, Librairie Plon, trang 362)

Chưa kể các chúa Nguyễn cấm xuất khẩu các gỗ quý, kim loại quý, gạo và muối.

Đường bộ hầu như chưa có, mọi sự di chuyển đều bằng tàu bè, thuyền đủ loại. Trong đoạn văn dưới đây, phái đoàn Pháp phải mất bốn ngày đường để đi từ Tourane ra Huế, lúc dùng đường bộ, lúc dùng đường biển, rồi đường sông khi vào đến Huế.

“Poivre đã tặng vua một số ngựa và súc vật, cộng thêm 13 thùng lớn tặng vật và thư giới thiệu của vua nước Pháp mong muốn có trao đổi thương mại giữa hai nước. Sau khi mở một vài thùng quà thì viên quan lớn cho chở tất cả những thùng quà đó trên một chiếc tầu lớn bằng đường biển đến nhà vua. Còn các món quà nhỏ có thể chở bằng đường bộ thì giao cho một đội trưởng canh gác trông nom. [13 thùng quà này không biết vì sao không được chở vào Huế, theo như Poivre viết sau này. NVL]

Giờ buổi trưa thì ngưng mọi hoạt động vì trùng vào giờ sinh đẻ của vua.

Ngày 18 tháng 9, phái đoàn bắt đầu chuyến khởi hành đến triều đình nhà vua ở Huế. Chi phí chuyên chở do triều đình trả. Họ cho đánh mõ và dân làng ở đó gửi đến 100 cu li để khuân đồ trèo núi. Đường lên núi đã có lối đi, qua một vài cái vực và có cầu bắc qua. Nhưng những cầu này không vững chãi và rất nguy hiểm. Buổi trưa dừng lại ở một quán ăn trên núi và đến buổi chiều thì xuống núi. Đêm đó chúng tôi đã ngủ tại một làng bên bờ biển.

Dưới chân núi đã có một số gái điếm trực chờ sẵn ở đó để đón khách. Từ đây, đi thêm vài làng nữa trên những cánh đồng có trồng trọt, sau đó tới một làng có tên là “Cho mehe” nhưng dân làng đã bỏ trốn để khỏi phải khuân vác. Và phái đoàn đã phải thuê cu li khác trả tiền hậu hĩ, rồi phải trèo qua hai rặng núi thấp, nhưng dốc núi thẳng đứng mà phía sau nó là một cánh đồng có một con suối chẩy qua. Cuối cánh đồng này là một cửa sông, cửa ngõ vào Huế. Chúng tôi đã nghỉ trưa và ăn cơm sau đó lại thuê 4 thuyền tam bản lớn. Thuê người chèo thuyền và đi cả đêm. Tất cả đoạn đường từ Tourane đến đây, chúng tôi đều đi dọc theo bờ biển.

Mãi tới 10 giờ sáng ngày 22 mới tới Huế, ở “Chottiam”, rồi buổi trưa đến “Chôlé”.

(Trang 5-8)

Con đường từ Đà Nẵng-Huế phải đi mất 4 ngày. Việc di chuyển ở triều đình Huế củng như tại đất Nam Kỳ phần lớn là dựa trên thuyền bè, vì đường bộ hầu như chưa có.

Thế nhưng vào năm 1830, John Crawfurd, trong “Journal of an Embassy”, và đoàn tùy tùng người Anh, 80 năm sau, đã dùng tàu thủy một cách không khó khăn gì.

Khác hẳn thái độ tiêu cực của Pierre Povre, John Crawwfurd khi rời Huế ngày 17-10 để vào Tourane, ông nhìn quang cảnh thiên nhiên hai bên bờ sông một cách thích thú. Nhà cửa, ruộng vườn hai bên bờ sông, đời sống sinh hoạt của dân chúng nhiều chỗ nhộn nhịp. Ông đếm ra có đến 255 lò gạch ở hai bên bờ sông. Vì đây là mùa nước lụt, nhiều thuyền di chuyển ngay trên ruộng lúa để bắt cá trong khi chờ đợi mùa gặt tới trong vài tháng nữa. Trong khi thuyền dừng, ông được cho ở trong những căn nhà đầy đủ tiện nghi dành cho khách vãng lai.

(John Crawfurd, “Journal of An embassy”, From the Governor-general of India to the Courts of Siam and Cochinchina. London, 1830, tóm lược từ trang 427-435).

Tiếp tục đọc hồi ký của Pierre Poivre:

“Ngày 23 đến bái kiến nhà vua lúc 11 giờ. Để thêm trang trọng cho phái đoàn, Poivre đã cho 8 lính đi mở đường, ăn mặc chỉnh tề, súng đeo vai. Tiếp đến là Poivre và các sĩ quan, rồi đến các thủy thủ trên tàu. Cuối cùng là hai đầy tớ gốc Ấn Độ ăn mặc theo kiểu lính cipaye của Ấn Độ, đeo kiếm cạnh sườn cùng với các đầy tớ khác.

Buổi trưa, phái đoàn được dẫn vào cung điện. đến một tòa nhà lớn thường được gọi là nhà voi, vì vua thường có thú tiêu khiển với mấy con voi.

Trên dường vào cung điện là hàng rào lính đứng hai bên, tuốt gươm dơ cao. Còn độ 50 thước thì tới một cửa lớn, trong đó nhà vua ngồi trên một ngai có vương niệm bên trên, vua mặc áo của hoàng gia. Khi chừng còn độ 10 thước thì phái đoàn làm lễ cúi đầu theo lối người Pháp. Riêng viên thông ngôn tên Ruộng thì cúi gập đầu xuống đất ba lần.

Poivre đã trình bày lý do đến đây theo lệnh của vua nước Pháp, một vị vua mạnh nhất của Âu Châu và để dâng lên những lễ vật và mong có một thỏa ước thân hữu giữa nước Pháp và vua nhà Nguyễn. Nhà vua tỏ ra nhã nhặn và khả ái đã tò mò hỏi cả ngàn câu hỏi, đủ thứ chuyện. Nhà vua hỏi đoạn dường từ Âu Châu sang đây là bao xa. Poivre trả lời là 6000 dặm và phải mất 10 tháng trời để đi. Rồi hỏi thăm về tuổi vua nước Pháp, sức khỏe, gia đình, về quân lính, về hải quân. Rồi nhà vua tiến lại gần và ra dấu cho Poivre tiến lại để xem xét quần áo từng cái một và đặc biệt xem các bộ tóc giả và các chất bột rắc trên đầu làm cho tóc khô và dính cứng. Vua có vẻ không mấy ưa bộ tóc giả. Sau đó nhà vua ra lệnh đãi tiệc cho chúng tôi và phần ông cũng rút lui vào bên trong để ăn. Trong khi chờ đợi bữa ăn thì những quan hầu cận xúm lại chung quanh chúng tôi và tò mò một cách thô bạo, vừa nhìn xem, vừa sờ mó từng thứ, cởi cả cúc áo để xem, nhấc bỏ tóc giả, cởi giầy một cách thô bạo không ngượng ngùng gì.” (Trang 8)

Và sau đây là những nhận xét của Poivre về những gì ông quan sát thấy:

“Những người lính thì đều mang gươm dài chừng hơn một thước. Chuôi gươm thường trạm chổ và dược đánh bóng, một số được nạm bạc và khoảng 40 người lính có chuôi gươm nạm vàng. Những người này thuộc lính canh ở trong nội cung. |Họ phần đông đều gầy ốm yếu, quần áo thường bẩn thỉu. Chúng tôi phải chịu đựng trả lời những câu hỏi xấc láo và ngu dốt của họ. Sau đó, bốn người lính bê ra một cái bàn, trên đó bầy các món thịt và thịt hầm theo lối ăn uống của họ. Rồi vua cũng ra lại để xem và nói chuyện với chúng tôi. Họ cũng cho xử dụng dao muỗng bên cạnh các đôi đũa như người Trung Hoa. Rồi vua bắt chúng tôi phải nếm thử tất cả các món ăn đã được bày ra trên bàn và hỏi chúng tôi về mỗi món ăn ấy. Nhiều khi phải cố nhăn mặt nhăn mũi cố nuốt những món thịt hầm mà nhiều phần bị nhiễm độc. Phải nhìn nhận là người miền Đàng Trong là những tên đầu bếp dở. Đôi khi chúng tôi phải nhổ những gì đã ăn vào và vua cho là không vệ sinh vừa ăn vừa nhổ như thế. Nói chung thì bữa ăn vui vẻ và vua thì luôn cười nói.” (Trang 8)

Chúng ta đã quen với lối viết sử của các triều vua thời trước chỉ viết về triều đại các vua chúa. Đó là lối viết một chiều và thường thiếu khách quan và sự trung thực. Sự hiểu biết về sử của chúng ta thực sự là nghèo nàn và giới hạn, thiếu nhiều chi tiết và sự kiện cụ thể. Nhưng từ thế kỷ 17 khi có mặt của người Tây Phương đến Việt Nam thì có một khuynh hướng viết thứ hai do người Tây Phương viết, đặc biệt là do các giáo sĩ đi truyền giáo và các nhà buôn hoặc các nhà thám hiểm.

Poivre là một trong số những người ấy. Mặc dầu cuốn hồi ký của ông viết cách đây cả ba thế kỷ mà nhiều sự việc được nêu ra đọc thấy sống động, linh hoạt mà ngày nay ta vẫn có thể mường tượng được lối suy nghĩ, lối sống của vua Nguyễn. Nhiều khi ông đã không ngần ngại phơi bày trắng trợn nhiều tính nết xấu của các quan và của Võ Vương.

Cái cảm tưởng còn đọng lại nơi người viết là thấy tính cách vô tích sự, vô trách nhiệm của một thể chế vua chúa, quan lại. Họ chỉ lo tích thu hưởng thụ trên cái lưng khốn khổ của người dân thường trước nạn đói, nạn lụt lội, mất mùa. Họ tỏ ra bất cần.

Mình nhà vua đã có đến 300 cung phi, cung nữ để hầu hạ cung phụng. Vua đam mê tửu sắc nên phần đông các thế hệ hoàng tử, công chúa được sinh ra thường yểu mệnh. 30-40 người hầu chỉ lo truyện ăn uống, tắm rửa, đấm bóp, lo áo quần và vệ sinh cho mình nhà Chúa.

Nhà vua chỉ có mỗi công việc ăn và ngủ.

Mọi công việc triều chính giao vào tay hai ba vị quan và những người này mặc tình thao thúng vơ vét thêm một lần nữa.

Xin được trích nguyên văn đoạn này như sau:

“Ce prince est vain, ignorant, paresseux, avare, superstitieux et fort adonné aux femmes. Il a un séral de trois cents concubines d’où il ne sort jamais. Les affaires du royaume ne l’occupent point; il les abandonne à trois ou quatre mandarins qui abusent de l’autorité qui’il leur donne pour tyraniser le peuple.”

(Vị hoàng tử này là thứ vô tích sự, dốt nát, lười biếng, hà tiện, mê tín và mải mê phụ nữ. Ông có cả thẩy 300 nàng hầu nên không bao giờ ông ra ngoài. Công việc triều chính không làm ông bận tâm; ông phó mặc cho ba hoặc bốn vị quan, những vị này lợi dụng quyền thế có được trong tay hà hiếp dân chúng). (Trang 81).

Thú chơi như săn hổ, săn voi của ông thì có hàng trăm người phục dịch. Khi biết có con hổ thì một đám người lo giăng lưới. Đám người khác lo đánh trống, gõ mõ, nổi lửa để con mồi hoảng sợ chạy về phía có chăng lưới, ở đây đã sẵn có đám người túc trực chăng lưới bắt hổ. (Trang 25).

Săn voi đực thì cho vài con voi cái đã được thuần, bắt chúng chạy vào rừng tìm voi đực. Voi đực tìm đến thì voi cái chạy hướng dẫn nó vào một nơi có một vài voi đực được thuần hóa quây chung quanh. Rồi những người thợ săn tìm cách trói voi lại. Con voi đực bị trói sau đó bị bỏ nhịn đói cho đến khi voi yếu mệt. Sau đó họ cho nó tiếp tục ăn trở lại và cho bốn voi đực đã thuần kềm con voi đực đến tận bờ sông và ở nơi này voi được huấn luyện để thuần hóa.

Hổ Quyền là một di tích hết sức đặc biệt trong quần thể di tích cố đô Huế, tọa lạc tại địa phận thôn Trường Đá, xã Thủy Biều, thành phố Huế. Nguồn:  http://www.huefestival.com/

Hổ Quyền là một di tích hết sức đặc biệt trong quần thể di tích cố đô Huế, tọa lạc tại địa phận thôn Trường Đá, xã Thủy Biều, thành phố Huế. Nguồn: http://www.huefestival.com/

Có lần nhà vua còn tổ chức một buổi chiến đấu giữa hổ và đàn voi. Người ta chở những con hổ bị nhốt ở trong cũi đến một nơi gần con sông lớn của Huế. Phía đối diện, người ta cho 40 con voi đứng xếp hàng như thể đang chiến đấu. Nhà chúa cho lệnh chiến đấu bàng cách gõ nhiều lần vào một thanh tre. Nghe hiệu lệnh, một binh lính mở củi cho một con hổ ra khỏi chuồng. Con vật khốn nạn này trước đó đã bị rút hết móng và bị buộc mõm, yếu ớt nửa sống nửa chết, chân bị cột vào một cái cột. Rồi một con voi được ra hiệu lệnh tiến đến gần con hổ, nhấc bổng con hổ lên không đụng đậy, quất lên cao và cứ thế trò chơi, dơ lên quật xuống cho đến khi con hổ hoàn toàn chết. Sau đó lính đến dùng rơm đốt những cái râu con hổ vì sợ dân chúng đến bứt những sợi râu này để tẩm thuốc độc.

Trò chơi nhàm chán cứ thế tiếp tục cho đến con hổ thứ 18. Sở dĩ có trò chơi không công bằng này, vì nhà vua sợ những con voi bị giết, vì giá trị một con voi rất đắt tiền hơn một con hổ. Vả lại, voi vốn là con vật được như sức mạnh chính của triều đình. (Trang 57)

Poivre cho rằng đó là sự đánh giá sai lầm. Những con voi này chẳng có chút giá trị gì cả trước tiếng súng nổ của pháo đội Pháp. Chúng có hại hơn là có lợi. Nó cũng chẳng khác gi dàn súng đại bác được trưng bày trước dinh của chúa. Mà cũng không một ai có khả năng điều khiển khi cần. Cũng chẳng trông thấy bất cứ một viên đạn nào ở đó mỗi khi cần xử dụng. Chỉ khi nào nhà vua cần bắn biểu diễn hay thị uy thì mới ra lệnh chuẩn bị thuốc súng mà thôi.

Ngoài những người phục vụ như thế, còn có khoảng 10 ngàn quân lính đủ loại canh gác khắp nơi. Cộng chung có khoảng 40.000 người sống bám vào ngai vàng của vị chúa.

Sự tham lam của cải vật chất thì vô độ. Có lần có một vị quan lớn trong triều qua đời. Ông quan này thuộc loại giàu có để lại vô số của và gia tài, đất đai, vàng bạc. Nhà vua tự nhận là họ hàng và quyền thừa kế, không một ai dám cãi lại, mặc dầu mọi người đều biết vị quan này có nhiều bà con rất gần gũi mới là những kẻ thừa kế chính thức. Ông vua đã lấy hết số tiền là 200.000 quan, 6000 bánh vàng (pain d’or) của người quá cố để lại.(Trang 24).

Ngoài ra, nhà vua còn có tính tò mò quá thô kệch và quê mùa như khi nhà vua hỏi Poivre các cung điện ở đây có to lớn và đẹp hơn ở cung điện của vua bên Tây không? Dĩ nhiên,, Poivre nói khéo là các cung điện ở đây cũng đẹp, nhưng không thể so sánh với cung điện bên Tây vì hai lối kiến trúc khác nhau. Poivre thừa hiểu các cung điện bên Tây đều rộng bát ngát, xây cất kiên cố bằng đá, trần thiết quá công phu sang trọng làm sao cung điện nhà vua có thể so bì được. Ngoài ra nhà vua cũng như hàng quan lại đều có tính tham lam vô độ, việc tráo trở mua bán không sòng phẳng. Ngoài ra việc ăn ở thường thiếu vệ sinh và dơ bẩn từ quần áo đến nhà cửa cũng như sự ngu dốt về nhiều mặt cũng như việc mê tín. (Trang 7)

Theo Poivre, nhà vua cho xây dựng nhiều đền thờ, cạnh các bờ sông chỉ để thờ đủ các loại thần. Các chùa này do tiền của nhà vua bỏ ra xây cất đôi khi nhằm để vinh danh tổ tiên nhà vua. Bởi vì, các vì vua chúa xứ này sau khi qua đời trở thành thần thánh. Chùa được xây cất ở một nơi đẹp đẽ nhất, có tường xây bao bọc, có vườn rộng rãi. Muốn vào chùa có hai cửa nhỏ, còn cửa lớn dành cho nhà vua. Có đến bảy chùa được xây cất theo hàng như thế. Trong chùa có nhiều tượng những con sư tử cũng như rồng và tượng thần. Dưới mắt Poivre, các tượng này thường xấu xí, hình thù dị hợm, ở giữa có đốt một lò hương khói, cháy suốt ngày đêm cũng như những đèn và những ngọn nến mà mùi hương tỏa ra khắp nơi. Có khoảng 60 nhà sư sống nhờ bổng lộc của nhà vua cung cấp phần gạo, còn rau hoa quả thì có sẵn trong vườn. Công việc của họ là hát kinh kệ suốt đêm với sự hỗ trợ của tiếng trống và chuông. (Trang 17)

Poivre cũng dành nhiều thời gian để đi thăm các quan trong triều, nhất là hàng quan lại có họ hàng với nhà vua. Theo Poivre nhà cửa của các vị quan này thì thường quá nghèo nàn và tầm thường xem ra không xứng đáng với chức vụ của họ. Ông viết:

“Je remarque chez ce mandarin une vanité grossière, beaucoup d’indolence, un grand soin de s’ajuster, mais peu de dignité et de noblesse.” (Trang 9).

(Tôi nhận xét thấy nơi vị quan này một sự khoa trương kệch cỡm, biếng nhác, cố gắng thích nghi nhưng vẫn thiếu sự trang trọng và thanh cao)

Theo tục lệ nhà vua không nuôi dạy một đứa con nào của mình, trừ một đứa con sẽ kế thừa ngôi vua. Những đứa khác đẻ ra là được giao ngay cho các quan cận thần, giàu có. Họ có bổn phận nuôi dạy con của vua và được coi như bố nuôi của đứa trẻ. Vì thế, coi như nhà vua tránh được trách nhiệm nuôi dậy vô số con của các cung phi. Khi đứa trẻ được giao cho vị quan chăm sóc thì vua không còn quan tâm đến đứa trẻ đó nữa. Chính vị quan này phải lo chăm sóc và nuôi dạy đứa trẻ. Khi đã lớn thì đôi lần cho đứa trẻ vào cung để gặp mẹ nó. (Trang 12).

Poivre cũng dành một số cơ hội nói về dân tình. Theo ông, nhiều người dân quá khốn khổ đã bỏ xứ mà đi, nhiều người trốn sang xứ Cam Bốt hay Xiêm la. Có người đi đến tận đảo Pulo-condor. Tuy nhiên, đàn ông lại có quyền lấy nhiều vợ nếu có đủ tiền cấp dưỡng. Đa thê được cho phép. Nếu cần phải ly dị, người đàn ông chỉ cần mời viên quan và họ hàng đến chứng kiên đến dự một bữa tiệc, rồi tuyên bố bỏ vợ là xong. Con thì chia, nếu một con thì người chồng được giữ đứa con, hai con thì chia đôi, nếu ba con thì người chồng giữ hai đứa. Nếu người đàn bà ngoại tình thì bị kết án tử hình. Họ bỏ người đàn bà vào một cái rọ với một con heo và cho trôi sông. Người ta cũng dùng những con voi để trừng phạt người đàn bà phạm tội bằng cách cho voi giầy. (Trang 85)

Thành phố Huế là thủ đô của nhà vua, nằm trên một cánh đồng rộng và đẹp được vây quanh bằng những rặng núi và một con sông cắt ngang thành phố. Đường phố thì hẹp và lầy lội khi vào mùa mưa. Khu phố người Tầu tương đối rộng và sạch sẽ hơn. Dân số trong thành phố tương đối đông đảo, khoảng 60 ngàn người.

Mùa mưa ở xứ Huế kéo dài ngày nọ sang ngày kia, kéo dài vài tháng, gây lụt lội khắp nơi. Mọi sinh hoạt đều đình trệ. Mái nhà ẩm mốc mọc rêu xanh.

Chính John Crawfurd cũng ngao ngán chứng kiến cảnh những trận mưa liên tục và kéo dài trong suốt ba ngày. Bờ sông ngập nước. Nhà cửa chìm trong biển nước. (Crawfurd, ibid, trang 420-421).

Việc ngập lụt như thế kéo dài hàng bao thế kỷ và cho đến nay cảnh đó cũng vẫn diễn ra hàng năm.

Người dân họ có những hủ tục man rợ. Chẳng hạn, con gái làm điếm công khai và những người có tiền cũng như quan lại thường lấy những người này về làm vợ. Hoặc dùng những người đàn bà này làm quà tặng như thể người ta mời uống một tách trà hay ăn một miếng trầu. Trong khi người đàn bà có chồng mà ngoại tình có thể bị tử hình. Trong khi những cô gái điếm có thể công khai ngủ với bất cứ ai. Tuy nhiên, người thụ hưởng có nhiều phần liều lĩnh vì có thể mắc bệnh.

Luật phát cũng lỏng lẻo trong việc ăn trộm, ăn cắp. Việc cho vay lãi nặng nề bằng 100% vốn vay. Chưa kể hàng ngàn hủ tục độc hại khác nữa và được tuân thủ do thành kiến và sự ngu dốt. (Trang 88).

Cổ tục còn cho phép cha mẹ có quyền tuyệt đối trên những đứa con của mình. Con cái chỉ được phép ăn chung với cha mẹ khi đã trưởng thành. Sự tùng phục đi đến chỗ tuân thủ như một sự tôn thờ. Những lời nói cuối cùng của người cha trở thành lời trối trăng linh thiêng. Anh em thường không yêu thương nhau mà kèn cựa nhau, nghi ngờ nhau. Họ chỉ trọng cái bề ngoài. Bề ngoài tỏ ra lễ phép lịch sự với người ngoại quốc, nhưng trong bụng lại khinh bỉ. Họ gian đối chỉ cốt thu lợi những gì họ không lấy cắp được.

Dù cho giàu có, họ ăn uống hà tiện chỉ có cơm và cá mặn. Họ chỉ ăn thịt khi có dịp lễ lạc hoặc chỉ ăn thịt khi con vật già ốm yếu, hoặc chết. Thay vào đó, họ thích ăn thịt chó. Họ ăn uống dơ bẩn và thường ăn những món ăn mùi vị ghê tởm.

(Còn tiếp)


Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline
11 Tháng Mười Một 201611:09 CH(Xem: 29255)
Bước đến Đèo Ngang mắt lệ nhòa, Nhà nhà bao phủ khói Formosa, Quan tham rủng rỉnh vô đầy túi, Mặc kệ muôn nhà khóc tiếng Ta.
11 Tháng Mười Một 201612:49 SA(Xem: 18977)
Xin chào mừng sự trở lại của họa sĩ nhà: Hạnh Phạm với những bức tranh tuyệt vời mới nhất
10 Tháng Mười Một 20161:59 CH(Xem: 23790)
Đêm còn nghe từng nốt nhạc rưng rưng Ngày vẫn nhớ đàn lẻ loi trên vách Gởi chút tình về bên kia quả đất Biết bao giờ ôm lại chiếc đàn xưa!
10 Tháng Mười Một 20161:49 CH(Xem: 23646)
Quê em nước lũ tràn bờ Mưa buồn rã rít dật dờ khói sương Rừng sâu nước từ thượng nguồn Như triều thác đổ tìm đường về xuôi.
06 Tháng Mười Một 20161:03 CH(Xem: 21142)
Bạn bè, trò cũ ủ ê, Xin cùng khấn nguyện hướng về quê hương. Dù đang lưu lạc muôn phương, Hai hàng nến thắp, nén hương nguyện cầu.
05 Tháng Mười Một 20169:57 CH(Xem: 19548)
Thơ thẩn em làm rối cuộn tơ Tơ ông đày xuống cõi xa mờ Mờ phai năm tháng sầu hoa nhạt Nhạt úa vầng trăng tủi mộng hờ
05 Tháng Mười Một 20169:49 CH(Xem: 23545)
Tất cả mọi điều trôi qua biền biệt Chỉ nỗi buồn là đọng mãi trong tim Một mai về cõi bình yên vĩnh viễn Chẳng còn gì chỉ còn lại lặng im.
05 Tháng Mười Một 20165:45 CH(Xem: 18452)
19 nhạc phẩm của Phạm Chinh Đông với tiếng hát Hương Giang. -Hình Như Nắng Vừa Phai -Bầu Trời Trên Kia - Nhánh Mùa Xuân Tôi -Chỉ Là
05 Tháng Mười Một 20165:05 CH(Xem: 18351)
Như cơn mưa tháng Mười Ướt sân sau nhỏ bé Như anh đến với em trong dịu dàng êm nhẹ.
04 Tháng Mười Một 201612:43 CH(Xem: 20317)
Bước nhẹ đường chiều về bến mơ Hàng cây trụi lá đang ngóng chờ Trời Thu hiu quạnh chiều mây tím Về mái tranh nghèo, thăm quê xưa?
03 Tháng Mười Một 20161:38 CH(Xem: 22347)
Gió từ phương Bắc thổi sang Gửi trao giá lạnh nồng nàn thấm mau Mù sương trắng toát phủ màu SaPa theo cái rét sâu đầu mùa.
03 Tháng Mười Một 20161:14 CH(Xem: 39286)
Mưa còn mưa mãi, mùa Đông Tình xa rớt xuống mênh mông cõi buồn Xòe tay đếm giọt mưa tuôn Tưởng như nắng ấm vẫn còn quanh đây
03 Tháng Mười Một 201612:56 CH(Xem: 17836)
Phải nhìn nhận trước 1975, không ai nghe nói xa gần đến một dòng văn học mang dấu Chúa. Người ta chỉ được biết đến một phần nhỏ và hiếm hoi được đăng trên Tập San Sử Địa miền Nam.
29 Tháng Mười 20169:30 SA(Xem: 21473)
..., và xin cảm ơn đại gia đình Ngô Quyền trong và ngoài nước đã thương tiếc và thành kính tiễn biệt Ba con đến nơi an nghỉ cuối cùng. Ba con đã ra đi trong thanh thản và mãn nguyện.
29 Tháng Mười 201612:48 SA(Xem: 14264)
Chúng tôi tin, học trò của Thầy Quyến không những chỉ nhớ "nét dịu dàng" của Thầy, mà còn nhớ tấm lòng của Thầy với học trò.
28 Tháng Mười 201612:25 CH(Xem: 20928)
Halloween năm nay 2016 Ngay mùa bầu cử nên phiền hơn Ma quỷ lộng hành chơi chính trị. Thế giới thừa cơ lại khinh lờn
28 Tháng Mười 20167:09 SA(Xem: 19481)
Lá vàng rơi, mây trôi bàng bạc Một chiều Thu trông ngóng cố Hương Sầu thương qua mấy đoạn trường Tương tư bóng nhạn, Cố Hương ngậm ngùi
27 Tháng Mười 20165:18 CH(Xem: 22554)
Chờ đợi mãi cho đến hôm nay tôi mới cầm được trên tay cuốn Kỷ Yếu Hướng Đạo Biên Hòa với đề tựa Xiết Bàn Tay Trái do nhóm tác giả là cựu Hướng Đạo Sinh Biên Hòa thực hiện.
27 Tháng Mười 20163:42 CH(Xem: 16021)
Mưa! những giọt mưa tháng mười vẫn nhịp đều trên mái nhà như một điệu nhạc. Điệu nhạc mùa thu bao giờ cũng buồn.
27 Tháng Mười 20161:37 CH(Xem: 20434)
Én về, Xuân có về chưa ? Vòng xoay thiên tạo bốn mùa đợi mong Lạnh lùng trở ngọn gió Đông Cỏ hoa cây lá vời trông Xuân thì...
27 Tháng Mười 20161:24 CH(Xem: 23643)
Đã qua rồi, vàng thu bay lá rụng Hoàng Gia ơi! Công Chúa ngủ trên rừng... Ta nhớ mãi, biển hoàng hôn gió lộng Người về đâu? sương khói phủ rưng rưng.
27 Tháng Mười 20161:18 CH(Xem: 26241)
Ta tìm trong vườn biếc, Một nhánh hoa lẻ loi. Xanh xao màu kỷ niệm, Ngập tràn nỗi nhớ nhung.
27 Tháng Mười 20161:11 CH(Xem: 27078)
Không về...! Còn nhớ gì không? Thôi nhé, cho Ta gởi lại lòng Thu nữa, sẽ về trong nắng sớm Quên những lạnh lùng... của tuyết Đông!
27 Tháng Mười 20161:03 CH(Xem: 18016)
Mỗi tôn giáo đều có những mong ước truyền đạt, phổ biến tư tưởng đạo đến quảng đại quần chúng. Việc truyền đạo không phải là một điều xấu như có một số người nghĩ.
22 Tháng Mười 201611:52 CH(Xem: 21696)
Truyền thống muôn đời Uống Nước Nhớ Nguồn. Công ơn Thầy Cô luôn ghi khắc trong tâm hồn những người học trò xứ Bưởi. Chúng ta hôm nay dù có thành danh hay chỉ thành nhân vẫn không quên.
22 Tháng Mười 201611:51 CH(Xem: 14032)
Ngày tiễn đưa thầy Bảo cũng là ngày được tin trễ thầy đã vĩnh viễn an nghĩ. Mong hương linh thầy thông cảm và tha thứ cho chúng em.
22 Tháng Mười 201610:31 CH(Xem: 20565)
Tạm biệt Gấu hăng, anh đi trước nhé! Chỉ là thứ tự kẻ trước người sau thôi – bởi sớm muộn gì anh em hướng đạo nhà mình cũng gặp lại nhau –
21 Tháng Mười 201612:06 CH(Xem: 18978)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới và bấm vào ô vuông ở cuối khung góc phải (Full screen) để mở lớn màn ảnh CHIỀU THU ẤY - Nhạc Lam Phương - Sĩ Phú trình bày THEO LÁ VÀNG BAY - Ngọc Lan trình bày Kiều Oanh thực hiện youtube
20 Tháng Mười 201610:52 CH(Xem: 16212)
Ngày tháng cũng như cơn mưa ngoài kia, cứ trôi đi, chỉ còn lại kỷ niệm. Tôi trộn lẫn mưa hai miền yêu dấu, nhưng nỗi niềm cứ nặng về một phía xa kia...
20 Tháng Mười 20163:46 CH(Xem: 36230)
Phóng sự bằng hình “Cựu hướng đạo sinh Biên Hòa – xưa và nay” lần này xin thay lời kết, khép lại hành trình tìm nhau của gia đình cựu HĐS tỉnh lỵ Biên Hòa tròn 60 năm tuổi.
20 Tháng Mười 201612:58 CH(Xem: 20936)
Chỉ vậy thôi và chỉ có vậy thôi Mà sao mình vẫn chưa làm trọn vẹn Để bây giờ xót xa nhìn ngọn nến Loay hoay hoài lời đáp vẫn chưa xong!
20 Tháng Mười 201612:23 CH(Xem: 18368)
Nếu được phép chọn lựa và đánh giá lịch sử thì tôi xin chọn cuộc Nam tiến là những giai đoạn vẻ vang và đẹp nhất lịch sửcủa dân tộc Việt Nam.
16 Tháng Mười 201611:28 SA(Xem: 14718)
Xin được viết bài này như một nén hương thành kính đưa Thầy về với hư không từ quý Thầy Nguyễn Phi Hùng, Lê Quý Thể (California), Trần Phiên (Texas),Tôn Thất Để (Canada), ,,,
15 Tháng Mười 20163:29 SA(Xem: 17066)
Thầy là bóng mát, là điểm tựa cho tất cả cựu học sinh NQ hướng về như hướng về trường xưa với tất cả yêu thương. Bây giờ thầy đã vĩnh viễn ra đi, chúng con thấy mình mất mát nhiều.
14 Tháng Mười 201611:13 CH(Xem: 16669)
Xin thành kính vĩnh biệt Thầy Hiệu Trưởng Phạm Đức Bảo của trường trung học Ngô Quyền BH xưa.
14 Tháng Mười 201612:52 CH(Xem: 26535)
Sinh, già, bệnh, chết cuộc đời, Kiếp người ai cũng một thời như nhau. Thời gian thấm thoát qua mau, Mưa rơi sẽ tạnh, buồn đau phai dần.
14 Tháng Mười 20162:02 SA(Xem: 21633)
Tôi về lại Biên Hòa mang theo hành trang đầy ắp những kỷ niệm và có cả quà tặng của bạn bè. Món quà trị giá nhất mà tôi nhận được là Tình Đồng Môn thắm thiết.
13 Tháng Mười 20169:59 CH(Xem: 35300)
Chiếc lá rơi, ngoài Trời mùa Thu chớm Vào ngày này Mẹ lặng lẽ ra đi Để cho con những tháng ngày nhung nhớ Nhớ Mẹ hiền. Nhớ lòng Mẹ Từ Bi
13 Tháng Mười 20161:16 CH(Xem: 20101)
Gởi lời chào cơn mưa Sàigòn Qua kẽ tay hạt lên đầy nỗi nhớ Mưa chưa ướt hết chiều dài phố nhỏ Ướt lòng người nầy đứng đợi người kia
13 Tháng Mười 201612:42 CH(Xem: 18891)
Cái lợi thế duy nhất và chắc chắn của tác giả Nguyễn Thế Anh là các tài liệu của ông viết về Nhà Nguyễn Việt Nam phần lớn đều bằng tiếng Pháp.
11 Tháng Mười 20163:37 CH(Xem: 12227)
Chúng em cũng xin cám ơn hai Thầy: Phạm Gia Hưng và Thầy Hoàng Quý Nam đã bỏ chút thì giờ đến chung vui họp mặt với đồng hương Biên Hòa và chúng em.
10 Tháng Mười 201611:09 SA(Xem: 24719)
Gặp nhau chỉ có trong mơ, Tiếc thương xin gởi bài thơ "Nguyện Cầu". Hồn Anh thanh thản vô sầu, Ta làm Mây trắng trên bầu Trời xanh...
08 Tháng Mười 20165:24 CH(Xem: 12277)
Sáng nay vào email. Được tin Thầy vừa mất. Trong lòng buồn chật ngất. Một giọt lệ vừa rơi. Thầy đã buông tay rồi. Bỏ cái thân tầm gửi
08 Tháng Mười 20163:48 CH(Xem: 19864)
Ngày xưa dưới trăng vàng Dệt thật nhiều mơ ước Giữa đường trăng hát vang Bài tình ca tha thiết. Thời gian thản nhiên qua Đem xuân thì đi mất Tình đầu đã phôi pha Trong bộn bề tất bật.
07 Tháng Mười 201611:52 CH(Xem: 16248)
Hy vọng bạn đọc được những lời này của tôi và mỉm cười tha thứ. Hy vọng chúng ta có dịp gặp mặt nhau. Những người bạn già ngồi lại uống với nhau ly trà.
07 Tháng Mười 201610:20 CH(Xem: 20056)
Đẹp ngẩn ngơ mây ngũ sắc mượt mà Đang phơ phất dải lụa mềm óng ả Nhẹ bay bay chiếc lá vàng lả tả Mùa thu về chất ngất chữ yêu thương
07 Tháng Mười 20162:51 CH(Xem: 18907)
Địa chỉ để gia đình cựu hđs.BH nhà mình có thể liên lạc để nhận kỷ yếu: 1) Dung Phùng / Tel: 0918 806006/ Email: dungpt1@yahoo.com; 2) Mai Diệp/ Tel: 0919 118622/ Email: diepmails@yahoo.com
07 Tháng Mười 201612:30 CH(Xem: 21817)
Mọi sự buồn vui cũng sẽ qua, Hận, Thù, Ân, Oán khổ riêng Ta. Mở rộng lòng yêu đời bớt khổ, Nở thắm môi cười vạn đóa hoa.
06 Tháng Mười 201612:48 CH(Xem: 19721)
Đưa tay đón tháng mười về Thu đang bịn rịn vân vê đất trời Còn đây chút nắng thu rơi Lời thương chưa ngỏ gọi mời gió đông.
06 Tháng Mười 201612:37 CH(Xem: 19043)
Thế là mình đã xa nhau Biển dâu thì đã biển dâu cuộc đời Đêm vẫn đêm của ngậm ngùi Ngày không yên cũng bồi hồi không yên
06 Tháng Mười 201612:22 CH(Xem: 17253)
Theo Gs Trần Anh Tuấn, với tư cách Phó Khoa trưởng Học vụ, Gs Nguyễn Thế Anh là người soạn thảo chương trình Tiến sĩ Văn khoa Việt Nam vốn bị xóa sổ từ năm 1919, dưới thời Pháp thuộc.
01 Tháng Mười 20162:22 CH(Xem: 20908)
Có ai cùng Ta, hoà bản đàn vui Trời Thu buồn mấy... chẳng bùi ngùi Nghe lòng réo rắc... tơ tình ấy Nỗi buồn vào Thu, dần dần lui
30 Tháng Chín 20164:54 CH(Xem: 16412)
Trong mỗi tấm hình hướng đạo cũ kỹ, anh chị em tôi đều có những kỷ niệm vui buồn. Với từng nhân vật trong những tấm hình này,
30 Tháng Chín 20161:58 CH(Xem: 19379)
những chiếc lá rơi nhẹ, qua khung cửa. những chiếc lá đỏ, vàng, lá mùa thu. …. biết chăng, em? khi, những chiếc lá thu bắt đầu, rơi… là khi ta nhớ em nhiều nhất…
30 Tháng Chín 201612:35 CH(Xem: 23300)
Những bài thơ bao nhiêu đêm thức trắng Xếp trong ngăn như giấy má vô hồn Ai đọc lại và ai còn nhớ lại Tóc bạc rồi đời bóng xế hoàng hôn
30 Tháng Chín 201612:29 CH(Xem: 20686)
Chuyện của nước tôi không phải chuyện cười Nghe tim quặt thắt muốn kêu trời Bao điều trái ngược đầy bi thống Thương quá Việt Nam quê hương tôi!
30 Tháng Chín 201612:22 CH(Xem: 19380)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới và bấm vào ô vuông ở cuối khung góc phải (Full screen) để mở lớn màn ảnh Áo Tím Mùa Thu (Nguyên Vũ--Thái Châu) Gọi Mùa Thu Mơ (Phạm Anh Dũng--Duy Trác) Kiều Oanh thực hiện
30 Tháng Chín 201611:07 SA(Xem: 13541)
Một chút nắng sẽ soi sáng con đường, nơi đi và chốn đến. Để được sống vui như vui trong ngày gặp mặt với món quà quý giá BẠN BÈ VẪN CÒN ĐÂY.
29 Tháng Chín 20161:37 CH(Xem: 25414)
Nồng nàn cơn gió cuối thu Chớm đông cái lạnh tù mù về đây Thơm mùi Hoa Sữa ngất ngây Thương yêu nở giữa thu gầy xác xao.
29 Tháng Chín 20161:24 CH(Xem: 19876)
Trời đêm mưa bụi lâm râm, Niềm vui rộn rã tràn dâng ngập lòng. Tuổi vàng chỉ có ước mong, An vui, sức khỏe thong dong cuối đời.
29 Tháng Chín 20161:14 CH(Xem: 20322)
Có thể nói đó là một môn học thời thượng. Và có những tên tuổi hàng đầu như Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm và Trần Văn Toàn.
24 Tháng Chín 20161:06 SA(Xem: 16851)
Nhìn lên chánh điện rực sáng dưới ánh đèn. Bà Chín nguyện cầu cho đất nước an bình. Cho những đêm trăng rằm luôn là những đêm vui an bình và hạnh phúc.
24 Tháng Chín 201612:04 SA(Xem: 20726)
Ngày Huỳnh Phước Minh Nhật tốt nghiệp đại học y khoa - và nhận nhiệm sở mới tại bệnh viện đa khoa tỉnh Đồng Nai - cũng là ngày cô giáo Nguyễn Thị Minh Công mãn nguyện rời trần.
23 Tháng Chín 20161:19 CH(Xem: 22944)
Tháng chín qua mùa thu cũng hết Người đi buồn, ở lại sầu hơn Vòm quỳnh anh thương vầng trăng biếc Gió tiễn mây vào chốn xa mờ.
23 Tháng Chín 20161:11 CH(Xem: 21942)
Hạ chưa tàn, Thu đã đến hôm nay Lá vàng bay, theo chân ai xuống phố Gió heo may nhẹ lay hàng lá đổ Nắng Thu vàng làm má đỏ hây hây
23 Tháng Chín 201612:49 SA(Xem: 20585)
Ta tìm em khắp nẻo đường. Cô gái Việt Nam ta nhớ thương. Em giờ bịt mặt, quần áo lạ. Ngậm ngùi vĩnh biệt những vấn vương.
23 Tháng Chín 201612:31 SA(Xem: 20281)
căn nhà ấy như một tu viện cửa thường đóng kín thỉnh thoảng người ta vẫn nghe tiếng chim hót từ một khung cửa sổ
22 Tháng Chín 20162:02 CH(Xem: 19667)
Hôm nay đón tiết thu phân Chính Đông trời mọc lượt lần ngày lên Đưa tay hứng giọt nắng mềm Chia dài năm tháng ngày đêm cân bằng.
22 Tháng Chín 20161:54 CH(Xem: 26709)
Xin đừng nói tới phân ly, Đời như gió thổi mây đi khắp trời. Sao mờ, trăng lặn đổi dời, Trăng vàng gió mát tuyệt vời đêm nay.
22 Tháng Chín 20161:42 CH(Xem: 19378)
Ông Trần Huy Liệu lúc bấy giờ công tác ở Ban Thường vụ quốc hội. Trần Huy Liệu có ý lập ra một tổ chức nghiên cứu lịch sử trước khi về tiếp quản Hà Nội.
19 Tháng Chín 20168:13 CH(Xem: 21494)
Em khẻ "ghẹo": sao thu nào đã "chết" "Mắc cười quá", anh đành thua vậy Biết bao giờ mới thắng nổi được em
17 Tháng Chín 20168:20 CH(Xem: 36237)
Bà gọi cháu là trái tim của tôi Vì nụ cười cháu đẹp nhất trên đời Trong sáng như ánh dương vừa hé Đem lại trần gian những niềm vui.
17 Tháng Chín 20168:12 CH(Xem: 22763)
Lâu nay vắng bác ở trang nhà Chẳng biết hồn thơ vẫn thắm hoa? Xứ biển lẻ loi vầng nguyệt lạnh Trung thu đơn độc cái thân già
16 Tháng Chín 201610:24 CH(Xem: 20105)
Giờ chỉ còn nuối tiếc Mùa thu về chơi vơi Lạc loài màu áo tím Thủy chung câu ước thề Thôi chỉ còn hoài niệm Của một thời đam mê
16 Tháng Chín 201610:14 CH(Xem: 23103)
Vầng trăng lơ lững giữa bầu trời Trăng thu tỏa sáng khắp muôn nơi Ánh sáng lung linh, ôi diễm tuyệt! Chị Hằng, chú Cuội mỉm môi cười
16 Tháng Chín 20161:14 CH(Xem: 20687)
Cho đến hôm nay, Gia phả cựu hđs.BH đã ghi danh được 463 anh chị em, với 344 chân dung cựu hđs và 37 thú rừng quây quần bên tổ ấm.
16 Tháng Chín 20161:04 CH(Xem: 21214)
“Đông tay sẽ vỗ nên kêu. Gia đình mình có gần năm trăm cựu hđs, lẽ nào không “mần” nổi một tập kỷ yếu cho “ra ngô ra khoai” hay sao”?...
16 Tháng Chín 201612:55 CH(Xem: 21994)
Trăng Thu đẹp lắm chị Hằng ơi!! Chị xuống trần gian giây phút thôi Để ngắm trăng vàng in đáy nước Hồ thu lấp lánh ánh trăng soi.
15 Tháng Chín 20165:04 CH(Xem: 16264)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức: HÌNH ẢNH MỘT ĐÊM TRĂNG - Nhạc văn Phụng - Mai Hương hát Kiều Oanh thực hiện youtube
15 Tháng Chín 20161:28 CH(Xem: 23461)
Nếu sớm biết người đi không trở lại Cũng hẹn hò thương nhớ bởi Mưa Ngâu Người ra đi vì chinh chiến thảm sầu Vì Quốc nạn vì thanh bình tất cả...
15 Tháng Chín 20161:06 CH(Xem: 17962)
Sau biến cố chính trị lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhiều sinh hoạt của giới sinh viên bắt đầu xuất hiện. Các sinh hoạt chính trị, xã hội, văn hóa thời ấy như rộ lên.
10 Tháng Chín 20162:01 CH(Xem: 15307)
Nhất định mình sẽ gặp lại nhau ở Houston, ở Anaheim, ở San Jose… để cùng dựng lại trường xưa bên đời lưu lạc .
10 Tháng Chín 20162:21 SA(Xem: 16575)
Phượng buồn... Phải rồi cánh phượng đỏ rực màu máu của những mối tình dở dang. Màu của trái tim vỡ nát. Màu của đau thương và chia cắt. Tuổi học trò ơi! Vĩnh biệt.
09 Tháng Chín 201612:38 CH(Xem: 20668)
Ngày xưa, lúc tuổi còn thơ Quây quần cha mẹ, một mùa yêu thương Giờ đây vắng bóng song đường Mùa Thu tìm Mẹ biết phương trời nào?
09 Tháng Chín 20162:06 SA(Xem: 18700)
. Ngoài những sản vật của vùng đất miền Tây, chất giọng người miền Tây rồi sẽ cùng lan tỏa... . Ai lại không mong sao điều tốt đẹp luôn tiếp tục lan tỏa ra khắp nơi... .
09 Tháng Chín 20161:34 SA(Xem: 20904)
Thu là sản phẩm của đất trời. Em là tiên nữ hiện xuống đời Hóa phép cho nhà thêm ấm cúng. Em là tất cả của đời tôi.
09 Tháng Chín 201612:11 SA(Xem: 19435)
Xin trả lại tôi khung trời xưa huyền diệu Tình quê hương tình bạn mãi trong lòng Dù cuộc đời có dâu bể long đong Vẫn kiêu hãnh vì mình là Ngô Quyền hậu duệ
08 Tháng Chín 20161:02 CH(Xem: 22046)
Ba hồi trống điểm khai tâm Một năm học mới khơi mầm tương lai Tương lai bắt đầu hôm nay Ráng công ăn học sau nầy vinh danh...
08 Tháng Chín 201612:52 CH(Xem: 20096)
Sự ra đời và cạnh tranh của báo điện tử – hầu hết là báo đọc không phải trả tiền – khiến một lúc nào đó nhiều tờ báo giấy bị khai tử.
07 Tháng Chín 201610:54 CH(Xem: 20401)
Vẫn gió mùa thu xưa Mùi tóc cũ tìm hoài Màu mắt nào đã phai Kỷ niệm nào trong tay
07 Tháng Chín 201610:43 CH(Xem: 23463)
Còn một khoảng tím trong tâm thất trái Giữ để còn thấy lại chút êm mơ Mỗi lần nhớ khỏi phải sầu tê tái Màu tím vỗ về ru giấc chiêm bao.
03 Tháng Chín 201610:25 SA(Xem: 15418)
Hãy sống cho chồng, lo cho con và những người yêu thương bên cạnh mình. Hãy dành cho mình một niềm vui nhỏ để bám víu.
03 Tháng Chín 20168:54 SA(Xem: 16344)
Tôi yêu quá đỗi ban mai tĩnh lặng này. Tôi vẫn ngồi đây, nơi chỗ quen thuộc và nghe lòng mình an yên, lắng nghe tiếng thở của lá khi gió vờn qua,
03 Tháng Chín 20168:39 SA(Xem: 18613)
mỗi độ thu về. tôi vẫn đọc tản văn xuôi, ngày đầu đi học cho các cháu nghe. và nhiều lần các cháu cười, thích thú. “this poem” ngộ nghĩnh quá bà ơi…
02 Tháng Chín 201610:42 CH(Xem: 22893)
Hè trôi ba tháng đỏ hồng Thầy Cô mong đợi dõi trông mắt chờ Vui vầy ánh mắt trẻ thơ Cổng trường rộng mở đến giờ khai tâm.
02 Tháng Chín 201610:26 CH(Xem: 18556)
Như một nụ hoa vừa hé Cô bé nhìn tôi, đôi mắt thật xanh Môi hồng tươi, nét đẹp tinh anh Nụ cười với hàm răng đều đặn
02 Tháng Chín 201612:33 CH(Xem: 21378)
Chút bâng khuâng khắc ghi lời ngày trước Mong an lành thương nhớ kẻ đi xa Mưa ngâu giăng mưa tháng bảy nhạt nhòa Xin được khóc dưới trời mưa tháng bảy...!
01 Tháng Chín 20162:49 CH(Xem: 24482)
Bây giờ Bạn đó Ta đây, Mười năm cách biệt chân mây cuối trời. Thu về gợi nhớ tơi bời, Kỷ niệm thơ ấu của thời học sinh.
01 Tháng Chín 20162:40 CH(Xem: 19188)
Trời chuyển sang Thu rồi đó sao? Mây xám giăng ngang, gió rì rào Chiều rơi, ngàn lá vàng thu tím Chợt nhớ mùa Thu của năm nào
01 Tháng Chín 20162:31 CH(Xem: 18664)
Người Pháp có Paris, Người Anh có Luân Đôn, người Tàu có Thượng Hải, người Bắc có thể có Hà Nội! Chỉ có người Sài Gòn là không có Sài Gòn. Hoặc giả vay mượn mà muôn đời vẫn xa lạ!