Tằm nhả tơ, nhà thơ nhả chữ
Tô Đăng Khoa
Trong dân gian “kiếp tằm trả nợ dâu xanh” là một thành ngữ để nói về thân phận của người nghệ sĩ trong xã hội. “Dâu xanh” hay “biển dâu” còn được hiểu là “cuộc đời này” trong một số điển thi.
Ví như con tằm, hấp thụ chất dinh dưỡng từ lá dâu và nhả ra những sợi tơ óng ả cho đời, cũng vậy, người nghệ sĩ trả ơn đời bằng chính những tác phẩm của họ. Từ những cảm xúc rất mong manh và bất chợt như những sợi tơ, nghệ sĩ “đan” chúng lại với nhau thành một thi phẩm hoàn tất. Khi đọc một bài thơ hay tuyệt, người đọc chỉ “cảm” được cái “mát lạnh” của bài-thơ-tơ-lụa, nhưng ít khi thâm cảm tới tiến trình gian khổ của sự “nhả tơ” và “đan lụa” của Thi Sĩ.
Nhìn từ khía cạnh này, thi sĩ cũng giống như người thợ đan tơ: họ luôn làm việc ở “phía bên kia” của sản phẩm của mình, tức là những cảm xúc. Trong khi đó, độc giả như là người tiêu thụ của sản phẩm tơ lụa đã hoàn tất.
Nỗi lòng của “người đan tơ” và của “con tằm nhả tơ” được Thi Sĩ Hoàng Xuân Sơn giãi bày cùng quý độc giả để tạo ra nhịp cầu thâm giao giữa tác giả và độc giả qua bài thơ “Nhã Chữ”
N H
Ả
C H Ữ
):-(
nhả chữ từng câu từng ý đồ
nâng hàng phẩm vật tới phi lô
mà sao bóng nhạn bay trầm quá
nước ở trên không chảy lồ ồ
/
nhả chữ tâm thần lúc kê bệnh
khục khặc ho hen nín tượng đài
bùn đen đã trát vào tinh ý
sắc diện bơ phờ mấy tóc tai
/
nhả chữ nhả chữ buồn chấu cắn
nhả tới u hoài khúc lấn cấn
con chim tự tử ngoài bìa rừng
nhả chữ. chiều tàn buông rất đậm
)))
h o à n g x u â n s ơ n
13, 16 dec. 2016
Khổ 1: Nâng hàng phẩm vật tới phi lô? Phải chăng phi lô chính là “philosophy”-love of wisdom? Thi Ca là đỉnh cao của tư tưởng như Everest là đỉnh cao của Hy Mã Lạp Sơn. Tư tưởng bay và khó nắm bắt như bóng nhạn. Nhưng hôm nay bóng nhạn bay trầm vì “nước ở trên không chảy lồ ồ”.
Khổ 2: Thân tằm dẫu mang bệnh, dẫu sắc diện bơ phờ vẩn không ngừng nhả tơ. Là vì chỉ mong được “bùn đen đã trát vào tinh ý”. Tinh ý gì? Phải chăng là sự nhắc nhở lẩn nhau rằng: Tất của chúng ta: con tằm, người thợ dệt, người tiêu thụ tơ lụa, thi sĩ, đọc giả đều mang thân phận “bùn đen” khi từ giả cõi đời này. Trảy qua một cuộc bể dâu, tất cả chúng ta sẽ đều quy tụ về một nơi, trở thành một thứ: “bùn đen”. Cơn bịnh khiến ta “khục khặc ho hen”, “sắc diện bơ phờ” chỉ là một lời cảnh tỉnh về số phận “bùn đen”. Và Thi Sĩ đã đem cái “bùn đen” trát vào cái “tinh ý” trong khổ thơ này cho chúng ta cảnh tỉnh.
Khổ 3:
Còn gì buồn hơn? Ôi nổi buồn chấu cắn: một kiếp tầm dâu, một phân phận bùn đen, những khục khạc ho hen, sắc diện bơ phờ khi đi qua kiếp nhân sinh... và một con chim tự tử ngoài bìa rừng!
Trong khi đó nhịp thời gian vẩn gõ đều, chậm, và chắc trong một buổi chiều tàn.... và con tằm vẫn nhã tơ, và nhà thơ vẩn nhả chữ nguyện đem thân phận bùn đen này trát vào tinh ý của Thi Ca.
Cảm ơn Thi Sĩ Hoàng Xuân Sơn về một bài thơ hay và thiết lập nhịp cầu thâm giao giữa độc giả và tác giả.