Cuộc sống người dân miền Nam thời kỳ trước và sau thuộc địa Pháp (Kết)
Cuộc yết kiến Tổng trấn Lê Văn Duyệt, 2 tháng 9
Ngài Lê Văn Duyệt ngồi trên một cái bục cao có trải chiếu hoa. Chúng tôi tiến gần tới đằng trước ngài và cúi đầu chào. Sau đó chúng tôi được chỉ định ngồi ở phía tay phải của ngài. Phía tay trái có một vị khác ngồi trông dáng uy nghiêm khoảng chừng 70. Phần những người khác thì ngồi ở phía sau lưng chúng tôi. Trong số đó có Ong-kw beng, vị võ quan đã trao đổi về thương mại với chúng tôi. Các quan khác thường ăn mặc sang trọng với các hàng lụa. Ngài Tổng trấn xem ra lơ là với việc ăn mặc. Ông ăn mặc giản dị với chiếc áo choàng bằng lụa mầu đen và một chiếc khăn quấn cùng màu.Ông là một thái giám, nhưng nếu không dược cho biết trước, có lẽ chúng tôi không nhận ra. Ông không có râu như các vị quan khác dù râu của họ không rậm. Giọng ngài yếu và nhỏ, nhưng vẫn đủ nghe.
Nhân vật này đã có những đóng góp đáng kể trong cuộc chiến của xứ Đàng Trong đã qua. Gương mặt của ông sáng sủa và thông minh. Thân hình tuy thấp, nhưng mảnh mai, trông linh hoạt và không có gì là bất thường. Nhưng chứng đau răng đã làm ông mất một số răng.
Ông bắt đầu hỏi thăm chúng tôi và cuộc hành trình của chúng tôi kéo dài trong bao lâu. Sau đó, ông đi ngay vào vấn đề chính. Ông nói nước chúng tôi hoan nghênh việc buôn bán với nước Anh, phù hợp với luật lệ của xứ tôi; việc nhập cảng không gặp khó khăn gì, nó cũng được áp dụng như các quốc gia khác.
Tôi đã trả lời đó cũng là những mong muốn không gì khác hơn của ngài Toàn quyền chúng tôi ở Ấn Độ. Và nói thêm ràng nếu xứ Đàng Trong buôn bán với nước Anh thì cũng sẽ chịu tuân theo luật lệ của chúng tôi và nếu chúng tôi đến xứ Đàng Trong, chúng tôi cũng sẽ thi hành tương tự.
Ngài nói thêm, vua chỉ viết thư cho vua nên vua nước Anh phải viết thư cho vua xứ Đàng Trong.
Sau đó, phái đoàn Anh đã dâng một số lễ vật của Toàn quyền Ấn Độ. Sau đó một thư ký đã đọc danh sách các món lễ vật bẳng tiếng Trung Hoa. Ngài tổng trấn nói việc thương thuyết đang trong vòng thương lượng nên không tiện nhận các lễ vật, nhưng hy vọng nhiều thương thuyền Anh còn cập bến Saigun sau này, lúc ấy nhận lễ vật cũng không muộn.
Phần phái đoàn Anh không phản đối việc ấy, nhưng cũng gây một cú sốc vì nó khác với thái độ của xứ Xiêm La cũng trong một hoàn cảnh tương tự.
Phần lá thư thì vị Tổng trấn đã không mở lá thư của ngài Toàn quyền Ấn Độ và lễ phép trao trả lại cho phái đoàn Anh.
Cuộc đàm phán coi như đã xong, phái đoàn được mời dùng trà và sau đó tham dự buổi đấu giữa voi và hổ mà dưới mắt các người ngoại quốc là mọi rợ. Con hổ đã bị rút móng và mồm nó bị khâu lại, lưng bị buộc vào cột bằng một sợi dây thừng dài khoảng gần 30 mét. Có khoảng 46 con voi đực to lớn đối diện con hổ. Dù bị con voi ném xa đế 25 bộ, con hổ vẫn phóng lên đầu voi tấn công thẳng vào quản tượng. Con voi hoảng sợ, kêu rống trong lúc quay đầu bỏ chạy không ai có thể kéo nó lại đâu trường; con hổ đuổi theo đên khi hết dây. Một lát sau hai viên quan dẫn một người đàn ông bị trói tay vào đấu trường đến trình quan Tổng trấn. Đó chính là người quản tượng bất lực để voi thua chạy. Người chăn voi bị một người ngồi đè lên cổ và vai, người khác đè trên chân, một toán lính thay phiên nhau đánh phạm nhân 100 trượng tre ngay tại chỗ, rồi khiên ra ngoài. Trong lúc đó quan Tổng trấn vẫn bình thản tiếp tục thưởng ngoạn trận đấu giữa hổ và voi.
Cái cảnh kinh hoàng khi con hổ bị 10, 12 con voi quật chết cũng đã được mô tả đầy đủ trong chuyến hành trình trước đây của Pierre Poivre tại Huế nên xin khỏi nhắc lại. Ngài Tổng Trấn còn có thói quen chơi đá gà, mỗi tháng hai lần.
Trong thời gian ngắn còn lưu lại Sài gun, phái đoàn Anh đã có dịp nhận xét về Saigun. Saigun cách bờ biển chừng 50 dặm và chia ra hai khu vực, cách nhau khoảng ba dặm. Pingeh.
[Bến Nghé. Theo Đại Nam Quốc Âm tự vị của Huỳnh tịnh Của, Saigon, 1895, trang 47, Bến Nghe là bến ở Vàm sông Kinh vào Chợ Lớn, cũng hiểu chung là đất Bến Thành; có kẻ nói là Bến tắm trâu, có kẻ nói là vùng sấu ở, không lấy đâu làm chắc.]
Chỗ ở của dinh Tổng Trấn nằm ở phía Tây bờ con sông lớn. Saigun nằm cạnh một con sông nhỏ là một trung tâm buôn bán và là nơi trú ngụ của người Tàu cũng như của một số con buôn. Chỉ có tàu nhỏ mới qua lại được thôi. Chiều rộng của cả hai khu vực gần bằng nhau, nhưng về dân số bao nhiêu thì không biết được. So với Bang kok mà chúng tôi đã có dịp viếng thăm thì Bang-kok buôn bán nhộn nhịp hơn Saigun. Cuộc sông ở Bang-Kok cũng dễ chịu hơn ở Sàigun. Khu chợ cũng cung cấp đầy đủ các đồ cần thiết cho nhu cầu và giá cả thường rẻ. Có bán đầy đủ các gia súc đủ loại. Cá đủ loại còn tươi được bầy bán tại chợ Saigun.
Sau đó, phái đoàn Anh đã đi ra Tourane.
Saigun, Bến Nghé nhìn từ góc độ của một đại tá Pháp trong cuốn “Annam Et Indo-Chine Française: I. Esquisse De L’histoire Annamite. Ii. Rôle De La France En Indo-Chine – Primary Source Edition”
(Tác giả: Colonel Édouard Jacques Joseph Diguet – De L’Infanterie colonial, nxb Augustin Challamel, Editeur, 1908)
Trong lời mở đầu của cuốn sách, tác giả viết rằng cuốn sách là tập trung những hiểu biết do vốn đọc, nhưng quan trọng hơn chính là sự quan sát tại chỗ cá nhân của tác giả về một sắc dân độc đáo đối với toàn thế giới. Tác giả, ngoài vốn liếng tài liệu phong phú, còn có một sự ưu ái và một sự trân trọng đặc biệt đối với Việt Nam nên không thể nói đến có sự kỳ thị hay thiên lệch.
Trong lời kết tác giả nhận định ngay từ hồi đó, cách đây hơn hai thế kỷ. đã có mối lo ngại về sức mạnh khủng khiếp của người Trung Hoa, một kẻ thù từ bên ngoài đe dọa trên đất liền và vùng biển của Việt Nam và nhắn nhủ người Pháp phải có một thái độ thích hợp đối với Việt Nam. Tác giả viết như sau:
“Ou bien, nous perdrons l’Indo-chine ou bien nous rendrons aux Annamites, don’t nous fait l’amitié à tout prix, le rang social qui leur revient comme individu, l’exercice réel de l’administration et de la justice de leurs concitoyens et la tranquilité que leur a enlevée notre système fiscal. Et telle est ma conclusion. E. Diguet.” (Trích Lời mở đầu)
(Hoặc là chúng ta sẽ mất hết xứ Đông Dương hoặc là chúng ta phải trả cho người An Nam bằng mọi giá dựa trên cái tình bè bạn của chúng ta, chúng ta trả cái quyền làm người của một cá nhân trong xã hội về mặt hành chánh cũng như công bằng xã hội của một người công dân do chính sách tài chánh của chúng ta. Và đó là kết luận của chúng tôi.)
Cuốn sách đã đề cập tới mọi vấn đề như: quân sự, hành chánh, giáo dục, thuế má, sự phát triển kinh tế, sự giao tiếp giữa người Pháp với người Việt Nam bằng những con số, bằng chứng từ.
Trong bài viết, không thể có điều kiện đề cập đến từng vấn đề, từng chi tiết trong cuốn sách. Nhưng chỉ xin rút ra những nét chính cho thấy sự sáng suốt và sự hiểu biết của tác giả mà một số người Pháp thực dân đã không nhận ra được. Đó là những nét đặc trưng của tác phẩm.
Theo tác giả, muốn bảo vệ Đông Dương trên đất và trên biển thì bằng mọi giá phải giữ cho bằng được con đương huyết mạch Saigon-Cap St Jacques như là một điểm tựa chính cho vùng Viễn Đông. Để mất tuyến phòng thủ Saigon-Vũng Tàu, người Pháp mất khả năng tự vệ và tấn công và sẽ đưa đến tình trạng cả xứ Nam Kỳ bị chiếm đóng. Con đường thủy từ Cấp về Saigon là con sông Saigon và sông Soirap. Khi các con sông này có những thủy lôi định vị hay lưu động. Đồng thời đóng cừ ở những vị trí chiến lược sẽ bảo đảm không cho kẻ thù xâm phạm. Kẻ xâm lược còn có thể xử dụng con đường sông Cửu Long hay Vàm Co để tiến về Sài gòn. Nhưng việc đổ bộ thực sự không dễ dàng gì. Chưa kể còn có một lực luojng phong thủ lưu động do thủy lôi và tàu ngầm. (E.Diguet, ibid., trang 167)
Phần kế tiếp, ông nói về việc bảo vệ xứ Bắc Kỳ do tiếp giáp với nước Tàu. Phần này không nằm trong chủ đề của bài viết. Nhưng ông kết luận đây là hai tuyến phòng thủ bảo vệ nền an ninh cho Đông Dương chống lại sự dòm ngó của nước Tàu và Nhật. (E. Diguet, trang 172).
Chính sách Liên Hiệp(La politique d’Association). Hơn ai hết Diguet cho rằng:
“Il faut faire la conquête morale du peuple annamite. Il faut combler le fossé que nous avons creusé de nos propres mains entre les deux races. Il faut descendre du haut de notre orgeuil de conquérants et voir chez nos protégés des hommes libres et non des esclaves.” (E. Diguet, ibid., trang 173).
(Phải có một cuộc chinh phục tinh thần người dân Annam. Phải lấp cái hố do chính bàn tay chúng ta đào lên giữa hai chủng tộc. Phải hạ mình xuống không co cái hống hách của kẻ đi chinh phục và nhìn những người được chúng ta bảo hộ là những con người tự do, không phải những kẻ nô lệ).
Muốn làm được điều trên thì phải thay đổi cách thu thuế và chế độ hành chánh. Thay vì thu thuế gián thâu gây bực tức và phẫn nộ trên người dân thì thu thuế trực thâu. Để người Việt tự quản trị, và phán xử, chúng ta thực thi chủ quyền bằng cách kiểm soát chặt chẽ.
“Dans l’ordre fiscal remplacons la plupart des impots indirects, vexatoires et impopulaires, par des impôts directs produisant le même revenu pour le fisc. Dans l’ordre administratif, revenons à l’observation des traités; laissons les Annamites s’administrer et se juger librement eux-mêmes et n’exercons notre souveraineté qu’à l’aide d’un haut contrôle.” (E. Diguet, ibid., trang 176).
(Về chính sách thuế khóa, chúng ta cần thay thế phần lớn chính sách thuế khóa gián thâu thường gây phiền nhiễu và không được lòng dân bằng thứ thuế trực thâu mà cũng sẽ thu được kết quả tương tự về tiền bạc. Về chính sách hành chánh, cần xem xét lại các bản thỏa ước và hãy để cho người Annam tự quản trị và tự họ thẩm định chính họ và chúng ta chỉ can thiệp đến thẩm quyền của chúng ta ở cấp cao.)
Giáo sư Nguyễn Thế Anh cũng đề cập đến chính sách Liên Hiệp này. Ông nhắc đến các công trình cũng được những người như Bonard và và Bộ trưởng Hải quân Pháp Chasseloup-Laubat tán thành. Có nghĩa là xứ này phải được các công chức bản xứ điều hành, dưới sự kiểm soát của Thanh tra người Pháp. Vì thế từ 1862, có chế độ quan huyện người Việt được thay thế các quan chức Pháp. Vào năm 1863, La Grandière đã cho thiết lập chính thức chế độ Thanh tra bản xứ vụ. (Inspecteurs des affaires Indigènes). (Nguyễn Thế Anh, “Việt Nam thời Pháp đô hộ”, Tủ sách Sử Địa Đại Học, Lửa Thiêng xuất bản, 1970, trang 133)
Về sự phát triển canh nông
Người ta thường cho rằng, xứ Nam Kỳ là vựa lúa của miền Viễn Đông. Nhưng thật ra đó chỉ là một vùng đất rộng bỏ hoang với những cánh đồng sình lầy mà theo Diguet là nơi cư trú duy nhất của những thú dữ: “Les animaux féroces sont les seuls habitants”. (E. Diguet, ibid., trang 140)
Tính từ Mỹ Tho thì đấy chỉ là những cánh đồng ngập nước và không trồng trọt được suốt dọc các tỉnh Cần Thơ, Bạc Liêu, Tân An, Vĩnh Long, Rạch Giá. Đâu đâu cũng là những mảnh đất bỏ hoang với các cây mây. Dần dần, người ta bắt đầu đào các con kênh để làm khô cạn đất. Nhờ đó dân chúng bắt đầu tụ tập về làm ăn. Nhưng phải cần rất nhiều thời gian và công sức khẩn hoang các mảnh đất vốn không trồng trọt được để trở thành đất trồng trọt được. Phải 50 năm, dân số mới tăng lên gấp đôi và lượng lúa gạo cũng tăng gấp đôi. Người pháp không mấy chú trọng vào việc trồng lúa mà chú trọng trồng các cây khác như mía, cây thuốc lá và đậu lạc, cây hồ tiêu. Hồ tiêu rất có giá ở bên Pháp. (E. Diguet, ibid., trang 141)
Theo Jean- Pierre Alem trong L’Union Indochinoise thì trước khi người Pháp đến xứ Nam Kỳ, ở đấy chỉ có sự bất an và nghèo túng. Ông viết:
“Elles vivaient dans la terreur constante de la famine et des pirates. Le dur climat, le manque d’hygiène, la sous-alimentation provoquaient de terribes épidémies. La peste, le paludisme, la variole, le choléra, la lèpre, le béri-béri ravagaient le pays. La mortalité infantile était effrayante.” (Jean-Pierre Alem, L’Union Indochinoise, trích lại trong tập Annam et Indochinoise, chương L’oeuvre de la France.)
(Người dân đã sống trong nỗi sợ hãi thường trực giữa nạn đói kém và bọn cướp. Khí hậu khắc nghiệt, thiếu vệ sinh, thiếu dinh dưỡng đã tạo ra nhiều bệnh dịch. Bệnh dịch hạch, bệnh sốt rét, bệnh đậu mùa, bệnh dịch tả, bệnh cùi, bệnh phù thũng đã tàn phá xứ sở. Tỉ lệ tử vong nơi trẻ con thật đáng sợ.)
Miền đồng bằng sông Cửu Long nay với 3 triệu mẫu đất trồng trọt. Những kế hoạch xây dựng đê điền, đào kinh ngòi làm khô đất hoặc rửa phèn, rửa mặn trên những cánh đồng lầy là những công trình lớn lao còn hơn cả việc đào kinh Suez. Đây là một trong những kế hoạch quan trọng bậc nhất là mở các đường thủy lộ.
Như việc mở rộng thêm kinh Vĩnh Tế nối liền sông Cửu Long ra vịnh Xiêm La, Kinh Rạch Giá, kinh Chợ Gạo.
Từ năm 1898, các hãng nạo vét kinh rạch đã đào sâu các con kinh hoặc làm các con kinh mới. Khi có những con kinh thì dọc theo bờ kinh sẽ có các cánh đồng ruộng mọc lên ở các tỉnh như Cần Thơ, Rạch Giá, Mỹ Tho, Tân An, Bạc Liêu, v.v.
Tất cả công việc nạo vét và đào kinh này do công ty Société Francaise industrielle d’Extrême Orient thực hiện trong nhiều năm trời.
Việc nuôi gia cầm cũng phát triển mạnh và đem lại lợi nhuận nhiều. Nhưng nghề này bị đe dọa về các dịch gia súc như xuất huyết bò. Cần nhiều cán bộ thú y Việt Nam ra trường để chỉ dạy cách chăn nuôi và phương pháp khoa học để ngăn chặn các loại dịch gia cầm này. (E. Diguet, ibid., trang 126).
Về việc đào kinh, Sơn Nam mặc dù cho đó là chính sách của thực dân Pháp nhằm chuyên chở hàng hóa cho chế độ thức dân. Ông cũng dành hẳn một chương trong Đất Gia Định xưa để trình bày một cách rất chi tiết công việc đào kinh này. Ông viết:
“Mỗi tháng dân đinh làm 4 ngày sâu, tức mỗi năm 48 ngày. Cuối năm 1864, ở ba tỉnh miền Đông, con số dân đinh đã kiểm tra là 35.992, tính ra 1.700.000 ngày, trị giá mỗi ngày nửa quan, làm sâu đem lại lợi ích như thâu được 863. 808 quan tiền thuế. Thực dân tha hồ đắp lộ, lấp những con rạch nhỏ ở Saigon. Ở tỉnh đào và vét kinh để tuần tiễu dễ dàng, đồng thời chở lúa gạo, thực phẩm. […] Nhưng công trình chiến lược là kinh Chợ Gạo. (Canal Duperré) nối sông Cửa Tiểu qua Vàm Cỏ để đưa nhanh chóng lúa gạo từ vựa lúa lớn nhất vùng đồng bằng thời bấy giờ về Sài gòn- Chợ Lớn thay vì đi vòng qua Kinh Bảo Định. Kinh dài 12km, đào 900.000 mét khối đất, với 676.000 ngày làm xâu trong hai tháng, bờ kinh đắp cao để làm lộ xe. Đây là công trình lớn đầu tiên, khánh thành ngày 10-7- 1877, do chính Thống đốc Nam Kỳ tham dự, để trực tiếp thách thức những người từng hưởng úng cuộc khởi nghĩa Thủ Khoa Huân hồi hai năm trước. […] Năm 1878, đào kinh Chẹt Sậy và Phú Túc nối kinh Chợ Gạo về phía Bến Tre. Phía Hậu Giang, đào kinh nối bờ sông Hậu về lưu vực sông Mỹ Thanh (Gọi là kinh Saintard), khoảng 1878-1879 tạm ngừng rồi tiếp tục năm 1882.”
(Sơn Nam, Đất Gia Định xưa, nxb Trẻ, TP HCM, 22-4-1997, trang 111-112)
Nhưng việc đào kinh sau này thay vì dùng sức người thì dùng sức máy.
“Nhà nước Pháp đã thuê công ty khai thác kỹ nghệ ở Viễn Đông. Công ty: Société francaise industrielle d’Extrême- Orient. Công ty này giá rẻ hơn 20 xu một mét khối vuông, đào thật nhiều kinh phía Hậu Giang. […] Nhờ công ty này mà các kinh sau đây đã được đào từ năm 1895-1898:
– Đào kinh tắt Thanh Đa. Nạo vét kinh Núi Sập, (Thoại Hà), kinh này được đào dưới thời Gia Long, nối Long Xuyên qua Rạch Giá. Đào kinh Chợ Lách, đào kinh cầu An Hạ, đào kinh ông Hiền, nạo vét và điều chỉnh một số kinh khác.”
(Sơn Nam, ibid., trang 116)
“Ở thành phố Sài gòn, có 8 nhà máy xay lúa sau này phần lớn rơi vào tay người Tàu. (6 nhà máy). Mỗi năm xay cả triệu tấn thóc. Còn rất nhiều những kỹ nghệ nhỏ như làm đồ gốm, làm gạch như nhà máy ở Vĩnh Long, Biên Hòa và rất nhiều hãng cưa ở rải rác khắp nơi. Làm chiếu ở Châu Đốc, máy tàu ở Rạch Giá, nước mắm ở Phú Quốc và Bà Rịa. Kỹ nghệ làm nước mắm sau này như thứ độc quyền của người Việt Nam từ Hà Tiên đến bà Rịa. Kỹ nghệ tơ tằm ở Cù Lao Giêng thuộc tỉnh long Xuyên và Châu Đốc.”
(Sơn Nam, ibid., trang 137)
Kết luận
Tôi thiết nghĩ rằng trong cái chiều hướng lịch sử thời vua nhà Nguyễn, sự có mặt của người Pháp là chuyện chẳng đặng đừng. Không có người Pháp thì cũng có người Anh, người Hòa Lan, Người Tây Ban Nha lúc nào cũng sẵn sàng can thiệp. Đó là xu hướng mang tính toàn cầu không mấy nước chậm tiến thoát khỏi. Toàn quyền Đông Dương trong một thư gửi cho Trương Vĩnh Ký vào 29-6-1886 viết huỵch tẹt như sau:
“Yes, no matter what happens, a European nation will enter Annam in order to take on a controlling influence there..It will not last, I am sure of that, but it is necessary to go through it: Annam cannot escape this fate.”
(Paul Bert, résident général of France in Annam and Tonkin, letter to the Catholic scholar Truong Vinh Ky (Petrus Ky), june 29,1886. Trích lại trong Indochina, Pierre Brocheux, trang 15)
Nhưng đấy là câu chuyện xưa có tính lịch sử mà ở nhiều góc cạnh, người ta vẫn có thể bàn cãi hơn thiệt, đúng sai về mặt chính trị, mặt chủ quyền dân tộc.
Nhưng về các mặt khác như y tế, y khoa phòng ngừa, giáo dục, phát triển hạ tầng cơ sở, chuyện kinh doanh thương mại không lẽ không thấy được cái mặt tích cực của người Pháp trên mảnh đất này? Vì thế, những nhận xét của đại tá E. Diguet trên nhiều mặt là tích cực và không phải là vô ích. Không có người Pháp thì Nam Việt Nam không có được như ngày nay.
Một mặt, việc mở mang bờ cõi về phương Nam, sức mạnh chính là do sức mạnh cần cù của con trâu, cái cầy trên những vùng đất của lau sậy, sình lầy với cọp trên rừng, cá sấu dưới nước. Cuộc tranh đấu để sinh tồn lo đối phó với thiên nhiên, lo khẩn hoang thì tốn kém nhiều công sức nhiều hơn là lo tranh chấp với vương quốc láng giềng. Lưỡi gươm đeo trên vai trong việc mở mang bờ cõi chỉ là một cách nói chứ thật sự mấy khi phải đụng đến binh đao.
Cam Bốt là hình ảnh một vương triều đã chậm lụt của một nền văn minh đang suy tàn. Nhà vua, chủ thể tuyệt đối trên con người trong một triều đình xa hoa tráng lệ trên con dân khốn khổ, lại có những tranh chấp nồi da xáo thịt trong khi biên giới luôn luôn có những đe dọa của những kẻ đi chinh phục lúc nào cũng sẵn sàng.
Nếu không mất vào tay vua quan nhà Nguyễn thì liệu có đương cự nổi với một kẻ thù từ xa tới là Xiêm La? Và liệu không có người Pháp tại Đông Dương thì cuộc Nam tiến đâu có dừng tại Mũi Cà Mau
Cùng một cách suy nghĩ ấy thì nếu không có sự hiện diện của người Pháp, liệu ngai vàng nhà Nguyễn sẽ tồn tại được bao lâu với một kẻ thù phương Bắc?
Người Pháp khi sang khai thác thuộc địa phần lớn là nhằm mối lợi kinh tế mà không cần nhắc lại. Tuy nhiên, trong đó cũng có chính sách hợp tác và muốn biến Việt Nam thành một thuộc địa phát triển và giáu mạnh.
Riêng Sài Gòn, người Pháp đã mong muốn ngay từ những ngày đầu thuộc địa khoảng thời gian 1850 đến 1880 biến Sài gòn thành một Singapore của Pháp qua Phòng Thương Mại ở Marseille gửi thư cho bộ trưởng Bộ Hải quân và thuộc địa vào 9 tháng 5, năm 1865. Mục tiêu ấy được nêu rõ:
“The goal was “to make Saigon a French Singapore” as the Marseille Chamber of Commerce put it in 1865.”
(Pierre Brocheux, Daniel Hémry, IndoChina, An ambiguous Colonization, 1858-1954, trang 14.)
Đường Hai Bà Trưng, thời Pháp thuộc là rue Paul Blanchy (vua Tiêu). Cổng vào nhà máy làm thuốc phiện trong khoảng 1881-1954.
Mục tiêu ấy để ra để cạnh tranh và cân bằng với sức mạnh của Anh Quốc trên bình diện Quốc tế và cũng nhằm để củng cố nền đệ tam cộng hòa Pháp Quốc trên đà suy yếu.
Ấy là chưa kể đến áp lực tôn giáo trong việc truyền bá đức tin, chuyện bành trướng thuộc địa ngay cả việc đề cao vai trò vĩ đại của nước Pháp.
Cho nên, chúng ta sẽ không lấy làm lạ gì, Sài gòn lại phát triển đến như thế. Cảng Sài gòn được coi là một trong những bến cảng hoạt động nhộn nhịp nhất. Năm 1937, hoạt động của cảng Sài Gòn là 2.140.000 tấn hàng, đứng hàng thứ sáu trong các cảng biển của Pháp và thuộc địa.
Và nếu mức độ đầu tư vẫn gia tăng thì xứ Đông Dương chẳng mấy chốc trở thành một trong những nước kỹ nghệ hàng đầu của Á Châu.
Trong vấn đề đầu tư của Pháp, dứng về mặt lợi ích kinh tế thì không phải chỉ một chiều nghĩa là chỉ mình người Pháp khai thác và hưởng lợi, mà cả phía đối tác như Việt Nam cũng chia xẻ phần lợi nhuận ấy. Nó cũng không khác gì tình trạng hiện nay, việc đầu từ giữa các nước phát triển và chậm phát triển vậy. Đường dài, tình trạng gia công, chế xuất sẽ có những chuyển đổi đem nhiều thuận lợi cho nước chậm phát triển.
Trong việc đầu tư của pháp vào Việt Nam: có đầu từ công và đầu tư tư nhân.
Trong đầu tư công, nguồn vốn ngân sách tập trung phần lớn vốn vào xây dựng hạ tầng cơ sở như đào sông ngòi, xây dựng cầu đường, đường xe lửa.
“Finally, and most important, public investment served principally to finance the construction of infrastructure and the tools necessary for an export economy. Public works represented the essential arena of this investment and absorbed 18% to 20% of the entire budget from 1900 to 1939, more than 6 billion 1937 fr. (P. Brocheux, ibid., trang 157.)
Điển Hình là Chương trình của Doumer đã xây dựng 2700 km đường sắt. Riêng đoạn đường Hải Phòng-Lào Cai dài 384 cây số, mỗi cây số tốn 200.000 fr. (200.000 fr thay vì kế hoạch đề ra có 130.000 fr một cây số, một đồng Việt Nam hồi đó ăn 10 fr). Thay vì tổn phí 50 triệu fr cuối cùng tính ra tốn 75 triệu fr. ( P. Brocheux, Indochina, ibid., trang 129).
Trong đầu tư tư, có rất nhiều đại công ty ở Pháp như tại Bordeaux và Marseille, nhiều đại công ty sang Việt Nam bỏ vốn làm ăn. Chính sách đầu tư tư nhân của Pháp tập trung vào sản xuất nguyên liệu và phó sản (production of raw materials, semi-processed materials) có thể dễ dàng tiêu thụ trên thị trường ngoại quốc.
Theo Pierre Brocheux:
“This flow of capital reached ít first plateau between 1890 and 1914. An oficial study valued private investments in 1903-5 at 126,8 million gold francs: 57% in industry, 10% in agriculture, and 33% in commerce, more than 75% of whcich was confirmed to Cochinchina and Tonkin.” (P. Brodeux, Indochina, ibid., trang 161).
Rất tiếc, cuốn sách của gs Nguyễn Thế Anh, “Việt Nam thời Pháp đô hộ”, lại quá chú trọng đến mặt chính tri: đến chính sách cai trị của người Pháp, đến các phong trào nổi dậy chống đối người Pháp, đến các mặt hành chánh, thuế khóa và xã hội dưới thời Pháp đô hộ. Nhưng lại bỏ quên các mặt tích cực của người Pháp về mặt đầu tư phát triển, về sản xuất cũng như lợi tức hay nếp sống của người dân.
Qua bài viết này, hy vọng độc giả có thêm một cách nhìn khác về chế độ thuộc địa Pháp ở Việt Nam. Người viết nhận thấy nhờ mặt tích cực của thực chất chế độ thực dân đời sống con người Việt Nam được nâng cao về nhiều mặt vật chất.
Nguyễn Văn Lục
Nguồn: DCVOnline