Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Cuộc sống người dân miền Nam thời kỳ trước và sau thuộc địa Pháp (P3)

01 Tháng Mười Hai 20161:04 CH(Xem: 17254)
GS. Nguyễn Văn Lục - Cuộc sống người dân miền Nam thời kỳ trước và sau thuộc địa Pháp (P3)

Cuộc sống người dân miền Nam thời kỳ trước và sau thuộc địa Pháp (P3)

anamiteHình dạng người Đàng trong thường không to lớn. Mắt nhỏ, mũi tẹt, mặt mũi trông buồn thảm, nước da đen sạm hơn người Tàu. Theo Poivre, ngước da đen chẳng khác gì người đen ở Madagascar, tuy nhiên nói chung ít đen hơn người Cam Bốt, người Chàm và người miền núi.

Đàn bà ăn mặc không khác chi đàn ông, nghĩa là cũng mặc quần. (Thật ra Võ Vương đã bắt phụ nữ Đằng Trong mặc quần để khác với phụ nữ miền Bắc của Chúa Trịnh. Và để cho kín đáo, khoác thêm một chiếc áo như áo dài để che phần phía trước. Chiếc áo dài ấy phải chăng là nguồn gốc chiếc áo dài hiện nay của phụ nữ?)

Nhưng nếu muốn mô tả đầy đủ nhân dạng người Việt hơn cả theo nhân chủng học, có lẽ P. Cultru, giảng nghiệm viên đại học Sorbonne chi tiết hơn cả, xin dịch lược tóm:

Nguồn: http://gallica.bnf.fr/

Nguồn: http://gallica.bnf.fr/

“Đầu thường to, trán thấp, gò má cao, mắt xếch và nhỏ, lông mày phía trên thường sụp xuống, mắt đen và xếch, mũi xẹp xuống, tai vểnh, môi giầy, phía hàm dưới thường nhô ra, tóc đen, dầy và cứng. Người Annam thường chăm sóc kỹ lưỡng mái tóc. (Cái răng cái tóc là góc con người). Họ thường không để râu và nếu có thì kể từ tuổi 30 trở đi. Một đặc tính cá biệt trên khuôn mật người họ là xương gò má cao hẳn lên nên khuôn mặt là hình thoi thay vì hình bầu dục.Nước da mầu vàng sậm và càng trở nên đậm khi tiếp giáp gần với dân Chàm. Chiều cao trung bình không cao lắm, đàn ông là khoảng 1m60, đàn bà 1m50, chân cẳng khẳng khiu, cánh tay dài trung bình, nhưng vai và lồng ngực thường dẹp, bụng phình ra vì ăn nhiều gạo. Bàn tay dài và gầy. Bàn chân thường nhỏ và bẹt. Nhiều người nói đến ngón chân cái thường rẽ tách ra và được gọi là giống Giao Chỉ. Cái ích lợi của ngón chân rẽ là như một thứ kìm vậy. Sức bắp thị họ kém, hai người đàn ông Việt Nam chỉ bằng sức môt người Tây Phương. Nhưng sự dẻo dai thì cao. Những người thợ gặt, thợ đập lúa mà công việc rất vất vả, nhưng họ có thể làm việc mà xem ra không biết mệt nhọc Những người kéo xe với tốc độ 12 km/giờ là chuyện bình thường. Họ đẻ nhiều, trông trẻ, nhưng lại chóng già và chết yểu, thường ở tuổi 60 là cùng.”

(P. Cultru, “Histoire de la Cochinchine Francaise, Des origines à 1883”. Librairie Maritime & Coloniale, 1910, trang 45).

Đàn bà thường chăm chỉ, sinh động hơn đàn ông. Đàn ông thường hèn nhát, lười biếng. Nhưng cả hai đều để ngón tay dài. Một dấu hiệu đặc biệt được coi là sang trọng và giàu có. (Trang 89).

Poivre đã dành nhiều trang để nói về vua nhà Nguyễn. Chẳng hạn mua hàng của Poivre mà kéo dài thời hạn, không chịu trả. Đồng thời đòi thêm những đôi giầy của người Âu Châu, những cúc áo của cổ tay bằng kim cương, bộ tóc giả và vải vóc dệt từ bên Tây Phương hoặc những bông hoa bàng vàng hoặc bạc và nhiều vật dụng khác. Việc hứa trả nhưng với điều kiện để các quan lo việc giám định xem xét và định giá. Poivre chỉ mong muốn có được một giá phải chẳng và lo sợ việc thương lượng với một giá rất thấp so với các hàng hóa mà họ đã mua của các người ngoại quốc khác. Ông chờ đợi cả hai tháng trời, nhờ cậy thông dịch viên và các quan thân cận với nhà Chúa mà kết quả hầu như vô hiệu.

Ông tuyên bố, lần đầu tiên trên đời ông bị lừa. Ông gọi tất cả là một bọn ăn cướp. Chỉ trừ có một vị quan mà ông coi là người lương thiện. Ông viết:

“Je ne sais pas à qui me fier. Je ne trouve partout que voleurs.” (Tôi không còn biết tin tưởng vào ai, tôi chỉ thấy toàn một bọn trộm cắp. (Trang 42).

Ông liệt kê một danh sách những tài sản bị giữ lại. Tổng số tiền là 71381. 18s.9d. (Trang 65). Một danh sách khác là những hàng hóa bị tịch thu bởi nhà đoan ở Tourane và chở về kho của vua. Trị giá 4513 16s và 7d. (Trang 70). Tính ra tiển vốn thu được, sau khi nhà vua đánh thuế trên những món hàng đã bán, ông thu về một số tiền không đủ để mua các hàng hóa đó lúc ở bên Pháp.

Để bù số tiền lỗ lã phải trả lại vốn cho công ty, ông đã giữ lại 11 lô hàng vốn là quà tặng dành cho các quan và nhà vua còn để lại ở Tourane, chưa kịp chuyên chở về Huế.

Poivre cũng đã tiết lộ lối sống rất khác biệt của một vài vị truyền giáo so với phần đông các vị khác. Đó là trường hợp của một vị giáo sĩ gốc người Bồ Đào Nha, một nhà toán học làm cố vấn bên cạnh nhà vua. Vị thứ hai, gốc người Đức là một vị thầy thuốc.

Đặc biệt, vị tu sĩ làm thầy thuốc có một đời sống hết sức xa hoa, lộng lẫy mà phải thấy tận mắt mới tin được. Poivre được mời đến ăn một bữa tiệc tại chỗ ở của tu sĩ này. Ông mặc một cái áo màu đỏ, mũ đội hình vuông, chung quanh có khẩn nhiều mảnh vẩy bằng bạc và đá quý. Chung quanh ông có khoảng từ 30 đến 40 người hầu cả đàn ông lẫn đàn bà. Ông Poivre đã được dẫn đi coi cả khu ở của vị tu sĩ này và được đãi một bữa ăn hậu hĩ dành cho các nhà quyền quý.

Một lối sống như thế quả thực không phải là một lối sống của một nhà truyền giáo. Và những giáo dân tân tòng khi nhìn thấy cuộc sống của vị giáo sĩ này liệu họ có còn giữ được đức tin mong manh của họ không? (Trang 26).

Trong khi đó, Poivre đã có dịp đến thăm vị giám mục người Pháp cai quản địa phận Huế tên là Armand-Francois Lefèvre, de Calais. (Sau này chết ở Cam bốt ngày 27 tháng 3 năm 1760). Vị giám mục này đúng là một vị tu hành, sống xa lánh sự nhộn nhạo của thành phố. Ông sống trong một túp nhà tranh, được trưng bày không dư thừa. Ông đã tiếp Poivre với tất cả tâm tình của một người Pháp với một người đồng hương. Cùng sống trong căn nhà này, còn có ba người khác sống chung. Họ náo nức nghe những tin tức từ tổ quốc của họ và bày tỏ sự nhiệt thành hăng say phụng sự tôn giáo của họ tại nơi đây. Họ đã làm một bữa cơm đãi khách đầy tình nghĩa bạn bè và rộng lượng, một chút gì đó có hương vị quê hương nước Pháp.

Các giáo dân quanh đó nghe tiếng đã đến đông đủ để giúp đỡ giám mục của họ tiếp khách. Họ mang những món quà nhỏ đến để giúp giám mục tiếp đón chúng tôi. Đó là những cử chỉ muôn vàn yêu thương. Tôi chỉ thấy nơi vị giám mục này sự đơn giản và nghèo túng không thể không làm người ta nhắc nhở đến vị giám mục đầu tiên của tôn giáo chúng tôi. Ở nơi đây, người chủ chăn được đàn chiên biết đến không phải vì một tòa giám mục tráng lệ huy hoàng, nhưng ở chỗ nó tách rời ra khỏi mọi của cải vật chất, một đức hạnh vốn là linh hồn của tôn giáo dạy dỗ đàn chiên và rao giảng phúc âm mà không cần đến một lời nói của vị giám mục. (Trang 13)

Poivre kết thúc chuyến du hành trong sự thất vọng và cay đắng

Trước khi Poivre xuống tàu về lại nước Pháp, ông đã nhận được thư của vua xứ Đàng Trong gửi cho vua nước Pháp. Lá thư này của nhà vua đã được Cơ mật viện nhờ giám mục M.Lidur dịch ra tiếng Pháp. Kèm theo lá thư là danh sách quà tặng của vua Đang Trong gửi tặng vua nước Pháp. Vị giám mục đã đưa lá thư đã dịch cho Poivre và nói rằng; Việc dịch thuật đã tôn trọng một cách tỉ mĩ ý nghĩa của bản gốc lá thư. Lời lẽ trong thư là cực kỳ trang trọng và cũng không kém giả dối. Xin trích đoạn:

“Après avoir bien réfléchi sur les grâces et les faveurs semblables aux montagnes élevées et aux eaux profondes dès à présent et l`avenir nous conjurons et demandons que ce royaume-ci avec le royaume de France soient en joye et soient donénravant comme un, afin que les deux Royaumes lient amitié et soient bien unis et que les grands faveurs que nous avons recues soient imprimés longtemps et des milliers d`années dans notre coeur. Nous pensons que l“illustre prince nous a déjà donné un présent comme le fruit qui s`appelle Đao, mais nous ne savons que prendre pour comme le fruit li (ou pêche) nous envoyons avec respect un vil présent afin qu`on se fie bien à notre coeur. Par cette présente, nous respcetons votre Majesté.” (Trang 71)

(Sau khi đã suy nghĩ chín chắn về những ân huệ và sự ưu đãi cao tựa như núi và sâu thẳm tựa như nước mà từ đây về sau chúng tôi thề nguyền và mong đợi vương quốc này và vương quốc Pháp từ rày về sau như thể là một, để hai vương quốc chúng ta nối kết tình bạn bè trở nên như một và những sự ưu đãi lớn lao mà chúng ta đã nhận được thì sẽ in sâu vào lòng chúng ta lâu bền trong vài ngàn năm trong trái tim của chúng ta. Chúng tôi tưởng nghĩ đến vị hoàng tử danh tiếng đã tặng một món quà cho chúng tôi được gọi là những quả đào, nhưng chúng tôi chỉ biết rằng có một thứ quả có tên là li (hay đào), chúng tôi hết lòng quý mến món quà nhỏ bé đó và ghi khắc trong lòng chúng tôi. Và đây là những món quà, xin trân trọng gửi đến Hoàng Thượng).

Lời lẽ thì tốt đẹp như thế. Nhưng sau đó, tại Hội An, Poivre gặp hai vị quan coi về thuế vụ bên cạnh có người thông dịch viên tên Miguel cho hay rằng nhà vua đã miễn mọi khoản thuế có giấy viết tay. Nhưng hai vị quan này cũng đòi 3000 quan tiền thuế. Poivre nghĩ bụng làm gì có hàng nhiều đến nõi thuế 10% bằng 3000 quan. Phần hàng hóa hiện nay đang tồn trữ trong điện mà nhà vua đã mua được 2 vi quan thuế vụ định giá là 1800 quan. Như vậy, theo họ thì Poivre phải trả 1200 quan tiền thuế. Trong khi đó, Poivre biết trị giá số hàng hóa trong cung điện là 6000 quan theo hoá đơn. Thật quá bất lương và bất công. Dù phản đối cuối cùng rồi Poivre cũng trả khoản nợ thuế 1200 đồng để được yên thân. (Trang 73).

Trong chuyến tàu thủy trở về Pháp. Poivre đã mua thử 6 vại mật mía, nặng chừng 50 kilo. Khi khô, chắc mật mía mất đi một phần tư trọng lượng. Ông cũng mua thử một số mây, gồm 6 loại khác nhau mà xứ này sản xuất được rất nhiều. Poivre cũng mua nhiều gỗ tốt như gỗ sồi để làm sườn nhà hoặc để đóng đồ gỗ. Gỗ ở đây vừa chắc, vừa nhẹ, thớ đẹp hơn gỗ của Ấn Độ.

Đồ lụa của Việt Nam thì đẹp và có giá hơn của Tàu rất nhiều. Thường nhập từ Đàng Ngoài vào, khổ thường hẹp lại nhẹ vì trời ở đây nóng, hơn nữa phần đông dân chúng lại nghèo, không có tiền mua.

Trong số những người mà Poivre hận ghét, có viên thông ngôn Miguel nói ở trên. Ông này được người Pháp gửi đi học ở Pondichéry trong hai năm. Sau đó theo đạo, trở thành người công giáo. Khi mới gặp Poivre thì quỳ trước mặt Poivre để bày tỏ lòng biết ơn. Sau đó, ăn cắp 300 quan của Poivre. Rồi lại đủ can đảm đòi thêm vài trăm quan về công khó thông dịch của ông ta. Poivre viết:

“Il se jette à mes pieds, avoue publiquement les larmes aux yeux qu`il me doit tout ce qu`il est et se félicite du nouveau bonheur qu`il a de me revoir dans son pays pour me prouver sa reconnaissance.” (Trang 77).

(Ông ta quỳ gối dưới chân tôi, nước mắt chảy và thú nhận công khai những gì ông có được ngày hôm nay là do tôi và cho là sung sướng khi được gặp lại tôi trên xứ sở của ông và để chứng tỏ lòng biết ơn của ông đối với tôi).

Nhưng sau đó thì lại nịnh bợ các quan và nhà vua và nói xấu, xấc xược đủ điều về các thừa sai cũng như phái đoàn của Poivre. Vai trò của thông dịch viên rất quan trọng, vì họ có thể thiên vị bên này bên kia.

Phần các quan thì sợ rằng Poivre sẽ không mang lá thư của nhà vua của họ về Pháp cũng như các quà tặng chẳng đáng gì.

Cuối cùng thì lá thư và quà tặng của vua nhà Nguyễn cũng được đưa lên tàu. Các quan nhân danh nhà vua đã tặng cho Poivre 20 con gà và hai con heo. Sau đó họ vội vã rời tàu và không đụng đến chút đồ ăn nhẹ mà Poivre đã mời họ.

Phần Poivre đã cho viên thông dịch viên lên tàu và đã nhốt ông lại dưới hầm tầu mà không một ai hay biết. Poivre đã kết thúc cuốn hồi ký bằng vài dòng vắn gọn:

“Buổi chiều, chúng tôi đã quyết định nhổ neo. Nhưng vì gió thổi ngược. Chuyến đi đành phải hoãn tới ngày hôm sau.” (Trang 78).

Trước khi chấm dứt Hồi ký của Poivre, xin trích dẫn một số nhận xét của Robert Kirsop, người Anh, đã nói ở trên xem ra không có một chút thiện cảm gì với phái đoàn của Pháp với một sự miệt thị rõ ràng do sự đố kỵ giữa hai bên:

orientalrepertory241“Khi tới nơi Le Poivre đã vội vã đến Triều đình trong cung cách oai vệ với các cận vệ và đoàn tùy tùng và đã thực hiện ở đó một sự xuất hiện rất huy hoàng. […] Ông đã dâng lên vị Chúa bức hình Quốc Vương nước Pháp trên quốc huy, một cặp ngựa nhỏ đáng thương, một cặp gương soi khổ lớn, một kính thiên văn và nhiều vật tầm thường khác. (…) Thực sự nhờ các tặng phẩm của họ với vị Chúa, và sự ân cần thường xuyên đối với ông, vị Chúa đã miễn cho họ mọi lệ phí hải cảng và luôn luôn đối sử với họ cực kỳ lịch sự. Vì tính dễ dãi này của Chúa Vương, đã dẫn dắt Le poivre đến việc coi nhẹ và bất chấp quan Thượng Thư của vị Chúa đã khơi động sự bực bội của họ. […] Họ cũng thấy ông Le Poivre lúc nào cũng mơn trớn nhà ngữ học, gần như thể làm anh ta trở thành tình nhân của ông. […] Và sau cùng, vị Chúa mệt mỏi và muốn họ ra đi. Và khi đó Le Poivre bị thất vọng một cách lớn lao, tìm cách ép buộc trên một số đề nghị đáng tởm, nhằm giúp người dân nước ông được chiếm ngụ một mảnh đất nhỏ và vị Chúa đã lạnh lùng giáng xuống ông ta một sự từ khước. […] Họ đã không khám phá ra sự đánh lừa của nhà ngữ học cho đến lúc gần ra đi, và khi họ nhận thấy rằng anh đã chơi khăm và lừa dối họ, trong hầu hết mọi việc đã được ủy thác cho anh ta, vào lúc khởi hành, họ mời anh ta lên tàu với một số lý do giả vờ cần giải quyết các bản Kiểm Mục, và bằng vũ lực bắt anh ta mang đi. […]  Và các lực lượng đã được phái đến để chặn con tàu lại, nếu nó có ghé vào bất cứ nơi nào trên bờ các bờ biển của họ. Trước thời điểm này, người Đàng Trong chưa hề biết đến sự khác biệt giữa các người Âu Châu. Trong lá thư của vua nước Pháp, họ được cảnh giác rằng không nên có bất kỳ buôn bán nào với Anh Quốc hay Hòa Lan, điều này đã góp phần vào sự nghi ngờ về sự thành thật của họ. […] Họ nghĩ không làm gì hơn là tống xuất tất cả các giáo sĩ Thiên Chúa giáo ra khỏi xứ sở. […] Ngoại trừ một người Đức, người dậy môn vật lý được giữ để phục vụ gia đình của Chúa. Phần lớn các nhà thờ của họ bị san thành bình địa và các sách vở giấy tờ của họ đều bị tiêu hủy. Các giáo sĩ người Pháp thì nổi bật với sự canh gác của các binh sĩ, đi kèm họ tới Hội An, trong khi số còn lại tự do đi xuống đó cùng với vị thuyền trưởng Bồ Đào Nha”.

(Robert Kirsop, “Kẻ đã cư trú tại Đàng Trong năm 1756, Một số tường trình về Đàng Trong”, bản dịch của Ngô Bắc, Gió-o. com)

Saigon ngày xưa dưới mắt John Crawfurd

Nguoofn: https://archive.org

Nguoofn: https://archive.org

John Crawfurd, Journal of an Embassy, From the Governor-general of India the courts of Siam and Cochin China” , NXB London, H. Colburn and R. Bentley, 1830, từ trang 299-475

Thời gian John Crawfurd đến Việt Nam là dưới đời vua Minh Mạng, lên ngôi vua từ năm 1820. Chính sách của Minh Mạng đối với người ngoại quốc tỏ ra nghi ngờ và khắt khe hơn thời Gia Long.

Thành phần phái đoàn của Crawfurd may mắn có thuyền trưởng Dangerfield, hạm phó Rutherford và ông Finlayson, bác sĩ. Dangerfield được chỉ định làm phụ tá cho John Crawfurd và thay thế ông trong trường hợp có tai nạn. Dangerfield còn là một nhà thiên văn Học, chuyên viên đo đạc bản đồ và chuyên viên địa chất. Ông Finlayson có mặt trong phái đoàn với tư cách một sĩ quan quân y và chuyên viên thảo mộc cũng như động vật học. Chiếc tầu của phái đoàn tên là John Adam trọng tải 380 tấn.

Trong Hồi ký, ông Crawfurd chẳng những ghi ngày tháng mà còn đi đến đâu ghi rõ tọa độ, kinh tuyến, nhận xét từng sự việc với một cái nhìn khách quan và rộng lượng hơn ông Poivre ở trên. Ông cùng với các ông Finlayson, ông Rutherford cùng đoàn tùy tùng đã ghé đảo Pulo Condore (gồm tất cả 12 đảo lớn nhỏ) vào ngày 22 tháng 8.

Đổ bộ lên đảo, ông bất ngờ khám phá ra một cơ xưởng của người Anh đã rơi vào tình trạng hoang phế. Chỉ còn để lại dấu vết nền nhà và gạch đá cũng như mãnh vở của đồ sứ. Theo đó được biết cớ sở này đã bị phá hủy từ 118 năm về trước, vào năm 1702,

Đây là một di tích lịch sử sớm nhất về sự có mặt người Anh tại đảo Phú Quốc.

Đi đến một làng gần đó, phái đoàn Anh còn thấy một thanh niên đang chơi đá banh trên bãi cát. Điều này càng chứng tỏ sự có mặt của người Anh trên đảo đã có từ lâu. Và thanh niên này đã dẫn phái đoàn đến gặp người đứng đầu của đảo này. Người đón tiếp phái đoàn có tên là Cham-Kwan-Luang, một người rất khả ái và hiếu khách. Không nghi ngờ và không tò mò hỏi quanh co như thói quen người bản xứ, ông đã mời tất cả phái đoàn về nơi ông cư ngụ và ông chỉ yêu cầu viết trên giấy chứng tỏ rằng Crawfurd có ghé qua đảo và để sau này, ông có dịp đưa ra cho các phái đoàn Anh khác đến sau biết.

Khi phái đoàn quay lại tàu, ông chúa đảo đã tặng cá tươi, rùa rồi trứng cũng như rau và hoa quả. Khi trả tiền,họ ngần ngại không lấy và cuối cùng chỉ vui vẻ nhận quần áo và đồ dùng của người Tây Phương.

Đảo này thật ra là nơi trú ẩn của các băng đảng cướp chống lại Campuchia và Nam Việt. Dân số trên đảo khoảng 800 người đều là người Việt Nam. Họ trông đều khỏe mạnh chứng tỏ khí hậu ở đây tốt. Trừ một số người bị rỗ mặt vì trước đây mắc bệnh đậu mùa. Họ có trồng ít lúa. Phần đông bắt rùa, đánh cá, làm cá khô để đổi lấy quần áo và gạo từ Sai gon. (Crawfurd. ibid., trang 299-308).

Ấn tượng tốt đẹp đầu tiên mà phái đoàn Anh khi đến Poulo Condor chắc để lại kỷ niệm sâu xa nơi họ. Nhưng điều đó cũng chứng tỏ đời sống vật chất trên đảo cũng như họ đã từng tiếp xúc với các nước Tây Phương sớm nên không có những cảnh tượng quê mùa, hoặc quá tò mò như trường hợp của Poivre khi họ đến Huế trước đây.

Sau đó ngày 24-8, tàu của Crawfurd trực chỉ St James (Vũng Tàu). Họ bỏ neo ở đây và chờ đợi được giấy phép đồng thời khai báo về tên tầu, danh sách thủy thủ đoàn, có bao nhiêu súng ống, đạn dược trình lên vị Tổng trấn ở Saigun. (Lúc đó Lê Văn Duyệt còn làm Tổng trấn lần thứ hai (1920-1932). Và họ cho biết, chỉ cần một ngày hoặc một ngày rưỡi thì thư gửi lên Tổng trấn Gia Định sẽ được trả lời. Cũng tại nơi đây, Crawfurd gặp phu nhân và các cô con gái của bà ta, vợ của người đứng đầu ở đây mà Crawfurd đã dùng lời lẽ trân trọng đẻ nói về vị phu nhân này:

“Here, we found a respectable-looking middle-aged woman, the chief’s wife, and three young and comely girls, his daughters. The ladies did not appear by any means abashed of discomposed by the appearance of strangers.” (Crawfurd, ibid., trang 314)

Theo sự quan sát của sứ giả Anh thì người dân ở vùng Vũng Tàu có chút văn hóa, có tụ họp chung quanh phái đoàn vì tò mò, nhưng với một thái độ chừng mực vừa phải. Đời sống của họ khoảng 300 gia đình với 1000- 2000 dân xem ra tương đối khá. Đàn ông thường làm nghề chài lưới, trong nhà thường có đàn lợn, đàn gà ít ra cho thấy họ không đến nỗi túng thiếu nghèo nàn.

Đi mất một đêm thì sáng hôm sau phái đoàn, ngoài Crawfurd còn có ông Finlayson và 33 nhân viên khác tới Saigun.

Dưới mắt của Crawwfurd thì Saigun (Saigon theo cách viết của Crawfurd) còn là những thửa ruộng lúa ở hai bên bờ sông và có nhiều làng mạc ở rải rác. Và ông nhận thấy đã có một con đường hai bên trồng cây dẫn vào thành phố. Họ chờ đợi để được xếp đặt chỗ ở, sau đó được chở thuyền tới một nơi dành cho buổi tiếp đón này. Nơi tiếp đón là một tòa nhà lớn có cổng chào phía ngoài và có vô số người nhộn nhịp đón tiếp. Có 20 lính dàn chào và lính canh cổng để giữ trật tự vì có nhiều dân chúng chen chúc tò mò xem mặt họ. Khoảng một giờ trưa có hai quan chức cao cấp tới để bàn thảo với phái đoàn. Những cuộc bàn thảo này kéo dài cả ngày trời, từng chi tiết nhỏ nhặt đến không cần thiết. Phía quan Tổng trấn có gửi thư cho phái đoàn cho hay họ có tự do muốn đi đâu thì đi và họ sẵn sàng cung cấp voi, ngựa, hoặc thuyền tùy theo nhu cầu của phái đoàn. ((Crawfurd, ibid., trang 318)

Saigun nằm ở vị trí của một con sông nhỏ, dài khoảng ba dậm tính từ dinh quan Tổng Trấn với nhà cửa cất lộn xộn. Hai bên bờ sông được trồng trọt. Con sông Saigun có nhiều nhánh sông và có nhiều cây cầu bắc qua một cách cẩu thả. Cũng có một khu phố buôn bán tương đối rộng rãi và sạch sẽ. Các món hàng chính được bày bán là đồ gốm của Trung Quốc, các loại lụa, nhất là lụa từ ngoài Bắc Kỳ cùng với các loại trà cũng được gửi từ Bắc vào. Và còn có vô số gà, vịt, ngỗng cũng như heo đực. Các cửa hàng ấy thường do phụ nữ đứng bán.

Và một lần nữa được đọc nhận xét tích cực của Crawfurd khen phụ nữ Việt Nam:

“Judging from the specimen we saw to-day, The Cochin Chinese woman appear to be well and becomingly attired. Many of them were much fairer in complexion than we could have expected, and some were handsome, making due Allowance for the peculiarity of their features, or what, at least, is considered such, according to our notions of beauty.” (Crawfurd, ibid., trang 329).

Nhận xét của phái đoàn nước Anh là phía những người bạn của xứ Đàng Trong là quá trang trọng, tỉ mỉ và phô trương. Chẳng hạn viên quan đã mở lá thư của viên Toàn quyền Anh (Governor-general) ở Ấn đã xem xét tỉ mỉ chữ viết, soi rọi lá thư và hơn hết xem xét dấu triện của toàn quyền Anh. Xem xét xong lá thư đến việc phải dịch từng câu ra chữ Hán Nôm (Cochin-Chinese). Không hài lòng, họ yêu cầu dịch ra chữ Hán.

Việc dịch thuật là vô cùng khó khăn, vì không có người biết tiếng Anh. Người Pháp phải đứng ra làm công việc dịch này. Đó là ông Diard thường đi bên cạnh phái đoàn. Và làm sao mà những thông dịch viên có thể làm vừa lòng mọi người? Nhưng cũng giải quyết xong. Nhưng họ lại phản đối có nhiều câu trong thư không thể nào trình lên hoàng thượng xứ Đàng Trong được, vì nó đi trái với luật pháp của họ.

Chẳng hạn câu:

“His Excellency sends certain presents in token of his profound respect and esteem for His Majesty the emperor of Cochin China.” (Crawfurd, ibid., trang 325).

Vị quan đề nghị câu trên phải đổi lại là: “I send your Majesty certain presents, because you are a great King.”

Bởi vì Hoàng đế Annam trên thực tế còn chiếm lãnh phần lớn lãnh thổ Cambodia cũng như nước Lào, nắm chủ quyền các nước ấy nên phải thêm vào tước hiệu là Đại Hoàng đế.

Phái đoàn được trọng đãi và do các người phục dịch người Ấn Độ và những người hầu gốc Tầu. Phần lớn họ là con cháu những người Tàu đã ở đây lâu đời và có khoảng từ 3000 đến 4000 người Tàu như vậy. Người Tàu có ba bốn ngôi chùa tại Saigun. Những ngôi nhà của người Tàu thì có nhiều nhà như những dinh thự rộng rãi.

Phần chúng tôi rất hài lòng về buổi đi thăm viếng này.

Hifnh quan vawn, quan vox nhaf Nguyeexn duowsi mawst Crawfurd. sau trang 404 , Journal of an Embassy From the Governor-general of India the courts of Siam and Cochinchina,

Hình quan văn võ nhà nguyễn dưới mắt Crawfurd. Sau trang 404 , Journal of an Embassy From the Governor-general of India the courts of Siam and Cochinchina,

(Còn tiếp)


Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline

25 Tháng Chín 2015(Xem: 19028)
1/ Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs của Mỹ đã bất ngờ đưa ra thông báo quyết định ngưng đầu tư vào Trung Cộng. 2/ Tập đoàn Lý Gia Thành đã chuyển dần tài sản từ Trung Quốc sang Châu Âu
28 Tháng Tám 2015(Xem: 17875)
Liệu Đế quốc Trung Cộng có "may mắn" thoát được số phận tan vỡ ra từng mảnh hay không và phe nào sẽ thắng thế trong cuộc tranh chấp quyền lực đẩm máu ?
07 Tháng Ba 2015(Xem: 43270)
Và mặc dầu còn có những bất cập đủ thứ, tôi vẫn phải nhìn nhận rằng, những năm tháng còn lại, kể từ ngày ấy, mỗi giây phút năm tháng sống, học hành, lớn lên thành người thời đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam vẫn là những năm tháng ân sủng cho tuổi trẻ của tôi và những bạn bè cùng trang lứa.
27 Tháng Hai 2015(Xem: 19651)
Luận đề của "Đoạn Trường Tân Thanh" hiển nhiên là thuyết "tài mệnh tương đố"", gọi nôm na là "hồng nhan bạc mệnh".
24 Tháng Giêng 2015(Xem: 27235)
Phần người viết nhìn bức hình cũ kỹ đã gần nửa thế kỷ với tâm trạng đầy... xúc động. Bởi vì đúng như ông bà mình thường nói rằng nghe cả hàng ngàn lời nói đọc cả hàng vạn chữ viết mô tả cũng không sao bằng...
28 Tháng Mười Một 2014(Xem: 22251)
Sức mạnh của chúng ta là phải biết họ là ai và cho họ biết chúng ta là ai? Sau đó phải biết cất lên tiếng nói. Nói thì sống, không nói thì chết.
14 Tháng Mười Một 2014(Xem: 29849)
Vào ngày chủ nhựt qua mùng 9 tháng 11 , nước Đức và Âu Châu đã ăn mừng kỷ niệm 25 năm Bức Tường Bá Linh Sụp Đỗ (1989 - 2014) .
11 Tháng Chín 2014(Xem: 38262)
Viết cho Nguyễn Xuân Hoàng - người bạn đã một thời cùng chung dưới mái trường của Platon, hiện đang ở bên bờ tử sinh.
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 36991)
Đọc sách báo ngày nay viết về cái chết của Hai Bà Trưng tôi hay bị "tẩu hỏa nhập ma" và phân vân tự hỏi: Hai Bà Trưng chết kiểu nào?
28 Tháng Sáu 2014(Xem: 30976)
• Việt Nam trong thế kỷ 20 vừa qua có ba điều bất hạnh xảy ra trùng hợp:... Trong ba cái bất hạnh ấy, cái thứ ba là nguy hiểm và tồi tệ nhất.
23 Tháng Tư 2014(Xem: 21972)
Gabriel Garcia Marquez, 87 tuổi, văn hào người Colombia nổi danh khắp thế giới với tác phẩm “Trăm Năm Cô Đơn,” qua đời hôm Thứ Năm 17 tháng 4, 2014, tại Mexico City, nơi ông đã sống 30 năm cuối đời.
20 Tháng Ba 2014(Xem: 39157)
Với khuôn khổ một tờ Kỷ Yếu có tính cách nội bộ như tờ đặc san này, những dòng “Vẻ Vang Dân Ngô Quyền” (mượn chữ của ký giả Trọng Minh) cũng có thể được hiểu như một sự chia sẻ chút niềm hãnh diện “giống nòi” giữa chúng ta,
02 Tháng Ba 2014(Xem: 16359)
Ôn lại Lịch Sử nước ta với hơn 4000 năm từ Họ Hồng Bàng với truyền thuyết con Rồng Cháu Tiên qua chương trình "Việt Nam Quê hương tôi" vào mỗi tuần với Phương Anh
27 Tháng Hai 2014(Xem: 39954)
Mới đây đọc báo Reader’s Digest thấy người ta nói đến những ích lợi của cái CƯỜI, trong đó có nói là cười nhiều có thể làm cho người ốm bớt đi. Lý do gì mà các nhà khảo cứu lại quả quyết như vậy?
31 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 14166)
Không kể những cuộc xâm lấn nhỏ, đã có 13 lần phương Bắc xua đại quân xâm lấn phương Nam, đặc biệt Việt Nam. Nhưng trong tất cả 13 lần đó, Dân Việt đều đại thắng các đoàn quân Phương Bắc. Đã mười ba lần, Dân ta đại thắng !
21 Tháng Mười Một 2013(Xem: 50731)
Nguyễn Chí Thiện và Nguyễn Đắc Kiên. Hai nhà thơ. Hai thế hệ- Hai hoàn cảnh một từ trong cảnh tù đầy 27 năm cộng lại tại miền Bắc- một trong hoàn cảnh đất nước đã độc lập với tư cách nhà báo-.
13 Tháng Sáu 2013(Xem: 29081)
Có nhiều hình thức phản biện lại một xã hội tùy theo hoàn cảnh mỗi người và tùy hoàn cảnh xã hội và ngày nay tùy thuộc vào tình hình thế giới nói chung.
30 Tháng Tư 2013(Xem: 31615)
Chúng ta hy vọng rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong tiết lộ những bí ẩn về biến cố 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực
19 Tháng Tư 2013(Xem: 91058)
Trong tầm mắt của tôi thì Tây Nguyên là một Amazon của Việt Nam thu nhỏ lại về mọi mặt. Về mặt lịch sử, nó là di sản của con người Tây Nguyên từ bao đời nay...
06 Tháng Tư 2013(Xem: 70595)
Đọc xong tập sách mỏng, gấp sách lại, tôi cảm thấy một cái gì nhẹ nhõm len vào tâm hồn. qua những dòng tâm bút của một cô gái trẻ..
29 Tháng Ba 2013(Xem: 96323)
Chắc chắn và không thể chối cãi được sự có mặt trong Hoàng Cung của Bà đã thay đổi bộ mặt Hoàng Cung. Nhưng điều quan trọng hơn cả, Bà trở thành biểu tượng, mẫu hình lý tưởng ...
22 Tháng Ba 2013(Xem: 103490)
Phạm Duy là một con người, như mọi người. Ông đã sống tận cùng đời sống của ông, ông đã hiến tận cùng những gì ông có trong trái tim ông và thân xác ông.
30 Tháng Giêng 2013(Xem: 139898)
Nhưng câu hỏi cuối cùng được đặt ra: từ đâu Nguyễn Tất Nhiên lại có tánh lãng mạn đa tình quá vậy để dễ dàng "phóng bút" sáng tác thơ tình cho nhiều nhân vật nữ?.
25 Tháng Giêng 2013(Xem: 154267)
Mới đây, tôi có dịp đọc cuốn ''Bên thắng cuộc'' của Huy Đức do một người bạn trẻ- giáo sư đại học ở Canada- với lời giới thiệu khá nhiệt tình- :Đọc cuốn này chưa? Rất hay, còn nóng hổi.
29 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 120960)
Hầu hết những bé gái sinh ra đều quấn trong một tấm tã... Nhưng có những bé gái ra đời được quấn trong tã bọc điều, biểu tượng của giàu sang phú quý.
08 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 159917)
Xin gởi đến quý vị lời chia sẻ của một triệu phú 40 tuổi là bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ, bị ung thư phổi thời kỳ 4, về kinh nghiệm sống của mình vào ngày 19/1/2012. Anh qua đời vào ngày 18/10/2012.
31 Tháng Mười 2012(Xem: 149196)
Kể từ đó, miền Bắc không có văn học nữa. Đảng qua Tố Hữu, Trường Chinh đã chôn sống các nhà văn như chôn sống địa chủ.
27 Tháng Bảy 2012(Xem: 165185)
Nhưng nói chung, ngồi chuyện ăn uống cẩn thẩn, tập thể dục hàng ngày, chúng ta cần giữ được cho tinh thần thoải mái, ít lo phiền, biết nghỉ ngơi, biết đủ, là thấy mình đi trên con đường tới hạnh phúc.
16 Tháng Bảy 2012(Xem: 158034)
Bài Văn Tế sau đây do cố Kiến Trúc Sư Đỗ Hữu Nam (vừa mệnh chung ngày 13 tháng 7 năm 2012, tại Biên Hòa) viết và đọc nhân ngày Sinh Hoạt Truyền Thống của nhóm Cựu Học Sinh Phan Chu Trinh, để thành kính dâng lên các vị Thầy đã khuất.
19 Tháng Năm 2012(Xem: 160478)
Bài viết sau đây của tôi là để chỉnh sửa và bổ túc thêm thêm vào một bài viết trước đây về Phạm Duy. Đó là bài Phạm Duy còn đó hay đã chết?
04 Tháng Năm 2012(Xem: 168997)
Đây là, chẳng phải ai khác, mà là những người di tản, những rác rưởi 37 năm trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?
03 Tháng Năm 2012(Xem: 164388)
Những ngày đầu tiên đi dạy trường trung học tráng niên Ventura, tham dự những sinh hoạt khác lạ của học trò Mỹ, tôi không khỏi so sánh với những ngày tôi còn dạy ở Việt Nam.
23 Tháng Tư 2012(Xem: 27728)
Sự bộc phát hình như là một định mệnh, không thể ngờ trước được, khi tập Thiên Tai ra đời năm 1970 lúc Nguyễn Tất Nhiên vừa 18 tuổi, bỗng nhiên tên tuổi Nguyễn Tất Nhiên bừng vỡ một cách ngoạn mục.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 42816)
Triết lý giáo dục tìm ở đâu ra? Thưa nó nằm ngay trong bộ Sách Dân Tộc, gọi là KINH ĐIỂN tức là Lĩnh nam Trích Quái, Việt Điện U Linh, Ca dao tục ngữ, Tứ Thư Ngũ Kinh.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 44080)
Tôi rời mái trường đại học Đà Lạt để “xuống núi” hành hiệp giang hồ vào giữa năm1963. Năm với nhiều biến động nhất thời tuổi trẻ của tôi. Vậy mà nay đã ngót nghét non nửa thế kỷ trôi qua.
15 Tháng Tám 2010(Xem: 39444)
Nguyễn Văn Lục không là sử gia, không là học giả, không là nhà văn và cũng không bao giờ là chính khách nên không thể quy cho tác phẩm của ông bất kỳ tính chất nào liên quan đến các chức danh đó.
28 Tháng Năm 2010(Xem: 30166)
Phải nói rằng thơ Nguyễn Tất Nhiên là một đóng góp hồn nhiên vào đời sống thi ca của chúng ta, mặc dù chữ nghĩa trong thơ anh - nhiều bài - vẫn còn ở thể quặng mỏ của ngôn ngữ. Nó là một thứ nham thạch ròng chưa bị tính bác học của ngoại lai xâm nhập, thẩm thấu và tác hại như một vài dòng thơ Việt Nam đã và đang chảy ra trong thi ca chúng ta.
06 Tháng Ba 2010(Xem: 43313)
Viết bài này, người viết bày tỏ ở đây một sự nuối tiếc là: Bài viết của nhà thơ Du Tử Lê về Nguyễn Tất Nhiên đã không nói lên được tính chất phối hợp đến kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc. Đó là điều quan trọng nhất cần được nói tới.
18 Tháng Hai 2010(Xem: 87468)
Xuân Con Cọp lại sắp đến rồi. Mà ở cái nơi "phong trần luân lạc" nầy, Tết nhất cũng chả có gì vui. Thôi thì xin mời bạn cùng tôi nhâm nhi dăm ba câu thơ cũ, để gọi là tạm "mua vui" trong khoảnh khắc chờ đợi đón giao thừa nơi xứ lạ.
25 Tháng Giêng 2010(Xem: 97671)
Tôi nhớ câu nói của một ông anh trong vùng tôi đang sống, rằng sau khi hoàn tất một công việc, bao giờ người ta cũng thấy hai túi áo chứa đầy những lời cảm tạ và những lời xin lỗi.
06 Tháng Mười Một 2009(Xem: 67355)
Chủ nhật, ngày 6 tháng 9 năm 2009 vào lúc 1 giờ trưa, Hội An Việt tại Vương Quốc Anh đã tổ chức Đại Lễ Kỷ Niệm 30 Năm Người Việt Tị Nạn Đến Anh Quốc. Buổi lễ dưới sự chủ toạ của ông Vũ Khánh Thành, cựu Giáo Sư Trung học Ngô Quyền, Biên Hòa, Giám Đốc Sáng Lập và Điều Hành Hội An Việt, Nghị Viên Thành Phố Hackney;
25 Tháng Sáu 2009(Xem: 93350)
Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy. Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ. Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.
23 Tháng Năm 2009(Xem: 32693)
Trong đại gia đình Ngô Quyền hầu như ít nhiều ai cũng biết đến Thầy Vũ Khánh Thành. Thật vậy, ngoài lãnh vực giáo dục, từng là Giáo sư dạy môn Triết học tại trường Ngô Quyền chúng ta năm xưa. Từ lúc định cư tại Anh Quốc đến nay, Thầy không ngừng tích cực dấn thân hoạt động trên bình diện xã hội, văn hóa và chính trị cho cộng đồng Việt Nam tại đây.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 78122)
  Riêng dòng sông Đồng Nai, với nguồn nước thanh khiết từ trên thượng nguồn đổ xuống, đã tạo nên một môi trường sống cho người dân tỉnh Biên Hòa và các tỉnh lân cận.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 74586)
Bài sưu tầm này được viết vào tháng 4 năm 2004, tức là 48 năm sau ngày trường Ngô Quyền được thành lập vào năm 1956, và chỉ được căn cứ vào trí nhớ của các ông Phan Thanh Hoài, Kiều Vĩnh Phúc, Lê Hồng Sanh, và cựu học sinh Đào Văn Công (khóa đầu tiên). Do đó, không khỏi thiếu sót về thành phần nhân sự giảng dạy, văn phòng v.v…
05 Tháng Hai 2009(Xem: 39390)
  Trường Trung Học Ngô Quyền được điều hành bởi một Ban Giám Đốc, đứng đầu là Hiệu Trưởng
04 Tháng Hai 2009(Xem: 39814)
Dĩ nhiên, đám học trò chúng tôi thích lắm, vì ý tưởng lạ đó không tìm thấy được trong Việt Nam Sử Lược của sử gia Trần Trọng Kim hay trong Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 47244)
Một cuộc biển dâu, đổi đời, tang thương đã diễn ra quá nỗi bi đát. Biên Hòa còn đó, mà lòng Biên Hòa đã mất tự bao giờ. Nay tuổi đời đã cao, nghĩ đến thời son trẻ, mà ngậm ngùi tiếc nuối quá khứ. Công đã tạm thành, danh đã tạm toại, nhưng tâm hồn tôi vẫn ngậm ngùi nhớ tiếc những phút giây hạnh phúc đầu tiên, đã qua mất rồi.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 46375)
Những ngày xa quê hương, lưu lạc xứ người, bận biụ với cuộc sống, tôi luôn luôn nhớ về quê nhà, nhớ về xứ Cù Lao với dòng sông Đồng Nai yêu dấu; gần đây tôi có tìm đọc thêm về xứ Đồng Nai thuở ban sơ cùng sự nghiệp khai sáng miền Nam của Ngài Nguyễn Hữu Cảnh. Nay tôi xin ghi lại những sự kiện, kiến thức tìm học đựơc bằng tấm chân tình cuả người con đất Cù Lao Phố, Đồng Nai.
01 Tháng Mười Một 2008(Xem: 147011)
Ngô Quyền ( chữ Hán : 吳權 ; 898 – 944 ) là một vị tướng và sau này là vua Việt Nam, là người sáng lập ra nhà Ngô . Năm 938 ông cầm quân đánh tan quân xâm lược Nam Hán tại sông Bạch Đằng,
26 Tháng Năm 2008(Xem: 23431)
Nếu không tính nền giáo dục duới thời phong kiến thì Truờng tiểu học Nguyễn Du, Truờng trung học Ngô Quyền, Truờng bá nghệ Biên Hòa là những ngôi truờng đầu tiên trên vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai.