Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7c - phần 2)
Bá Đa Lộc, lính đánh thuê và Nguyễn Ánh
Ngày 28 tháng 7 năm 1789, khi giám mục Bá Đa Lộc cùng với hoàng tử Cảnh cặp bến Vũng Tàu.
Ông không lẻ loi đi một mình.
Trong chuyến đi Pháp, mặc dầu hoàn toàn thất bại, người ta cũng thấy có một số người Pháp cùng đi với ông:
- J.B. Chaigneau [Nguyễn Văn Thắng], thuyền trưởng tàu Long Phi.
- De Forcanz, thuyền trưởng tàu Bằng Phi.
- Philippe Vannier [Nguyễn Văn Chấn], thuyền trưởng tàu Bòng Thước, sau đó là tàu Đồng Nai và tàu Phụng.
- Jean-Marie Dayot [Nguyễn Văn Trí], chỉ huy một đội chiến thuyền.
- Victor Olivier, sĩ quan cơ khí, trông coi tổ chức bộ binh, pháo binh và đồn lũy.
- Théodore Lebrun, kỹ sư trông coi việc xây thành.
- Laurent Barisy, trung tá.
- Julien Girard de L’Isle-Sellé, đại úy hải quân.
- J.M. Despiaux, ngự y cho chúa Nguyễn.
- Louis Guillon, trung úy hải quân.
- Jean Guilloux, trung úy hải quân.(27)
Những nhân vật trên sau này đều đóng góp kỹ thuật, kiến thức quân sự giúp Nguyễn Ánh đang từ thế thủ chuyển sang thế công.
Không có người nào trong đám này là người thừa cả.
Cũng trong phân mục này, xin trích dẫn Tạ Chí Đại Trường. Ông viết lại: Je ferai seul la révolution. Các tay phiêu lưu Tây Phương ở Việt Nam: Vai trò, địa vị và ảnh hưởng của họ. Và bằng mấy câu thơ bày tỏ sự vui mầng:
Tới nơi bến Nghe gieo neo
Dưới trên buồm cuốn xả lèo răng răng
Đùng đùng súng bắn liên thanh
Chiêng cồng mừng rỡ vang rang dầy dầy
Hai bên tứ diện Đông Tây
Dưới trên thiên hạ dầy dầy đều coi
Mừng tàu rày đã tới nơi
Mừng Thầy lại với Con Người đã sang
Và chiếc tàu La Méduse đã cập bến Vũng Tàu ngày 28/7/1789.
Và Tạ Chí Đại Trường đã trích câu nói của Bá Đa Lộc nói thẳng vào mặt De Conway.
“Một mình tôi cũng đủ làm nên việc đảo lộn.”(28)
Họ, những tên lính đánh thuê, từng lớn lên với mộng ước hải hồ cộng óc phiêu lưu, mộng làm giàu trong chốc lát khiến họ có mặt hôm đó, tại bến cảng Vũng Tàu.
Họ và Bá Đa Lộc đều có một mẫu số chung: họ mơ ước làm chuyện lớn, mặc dầu chuyện lớn của Bá Đa Lộc chẳng ăn nhập gì với bọn người đi theo ông.
Trước hết, bà Thụy Khuê đã để công sức đọc và sưu tầm các tài liệu sử như tài liệu sử của Alesix Faure, Barisy, John White, ký sự của Bissachère, John Barrow và cuối cùng ngay cả tài liệu sưu tầm đáng nể của Charles B. Maybon, “Histoire moderne du pays d’Annam” cũng như các công trình sưu tập của cố Cadière.
Cadière-Thụy Khuê
Lm Léopold Cadière (1869-1955), người sáng lập Hội Bạn Cố Đô (AAVH). Nguồn: Catherine Clémentin-Ojha, Pierre-Yves Manguin, A Century in Asia: The History of the Ecole Francaise D’Extreme-Orient, 1898-2006, trang 176
Riêng trường hợp Cadière đã nhận được một lời phê phán khen có mà chê cũng rất nặng nề:
“Hai vị học giả Pháp có những công trình nghiên cứu văn hóa Việt đáng trọng là Maybon và Cadière; tiếc thay, cũng lại là những người, đã tế nhị và sâu sắc, tìm cách thay thế công lao thống nhất và dựng nước của Gia Long cùng tướng sĩ, quần thần, bằng công trạng của Bá Đa Lộc và những ‘sĩ quan’ Pháp.”(29)
Về mặt khách quan mà nói, các sách sử thời ấy rất khó tránh khỏi những sai lầm đủ loại. Có rất nhiều khuyết điểm – nhất là tên người, Tạ Chí Đại Trường đã nhận xét là người Tây Phương rất chú trọng đến ngày tháng minh bạch, nhưng về tên người thì không cách nào họ viết đúng được.
Công nghiên cứu phê phán của bà Thụy Khuê cần được ghi nhận. Tuy nhiên, nhiều chỗ cho thấy bà đã do động lực ngầm, mất tự chủ, bà đã dùng những chữ khá nặng nề, bà đã mạt sát bằng những ngôn từ không thích hợp như “xuyên tạc, bịa đặt, sai lầm tiêu biểu, thủy tổ việc bóp méo lịch sử Pháp-Việt, bôi nhọ Quang Trung, ít học, không quen viết lách, câu cú lôi thôi…” lối viết này thực là ấu trĩ, phô trương và khoác lác.
Hầu hết những người trên đều trở thành đối tượng bị Thụy Khuê phê phán quá đáng. Bà viết:
“Thực là kinh hoàng khi ta đọc bài diễn văn trên đây. Khó có thể hiểu tại sao một người có kiến thức sâu rộng, có đạo đức nghề nghiệp của một học giả như linh mục chủ bút tập san Đô Thành Hiếu Cổ lại có thể viết một bài như thế. Chưa cần xét đến đầu óc thực dân, cao ngạo, khinh mạn người Việt, bao trùm lên toàn bài, hãy nói đến những lỗi khổng lồ mà một công trình khoa học không thể có, mà chúng tôi xin lần lượt phân tích từng điểm một, sau đây.”
(Trích Thuỵ Khuê, Ibid., chương 15)
Do nguyên động lực nào mà bà đã viết như thế? Thật là kinh hoàng! Viết khác với lối biên khảo quen thuộc của bà khi viết về các đề tài văn học hay triết học! Tại sao có hai thái độ cầm bút như thế trong cùng một con người?
Phải chăng có hai Thụy Khuê – một viết văn học và một viết chính trị – tôn giáo?
Và đó là công việc mà chúng ta cần tìm hiểu.
Viết như thế tôi cho là không công bằng. Viết như thế là có sẵn một chủ đích xấu, một định kiến về các thừa sai hoặc các nhà sử học. Thừa sai sangViệt Nam thì có nhiều. Cộng chung có thẻ lên đến từ 300 đến 400. Nhưng chỉ có khoảng 30 chục người viết dưới dạng các lá thư gửi về cho bạn bè, gia đình như cha mẹ hoặc những bề trên trực tiếp của họ. Những lá thư này có tính cách cá nhân và không được phổ biến. Sau này được Hội Thừa sai Ba Lê thu tập lại như tài liệu nhân chứng sống một thời trong các tập tài liệu gọi chung là “Lettres Édifiantes et Curieuses: Écrites des Missions Étrangeres” và gồm trên 20 tập.
Tôi không hiểu tại sao tập san này đã không được bà Thuỵ Khuê xử dụng và nhắc nhở tới mặc dầu lập trường của các thừa sai là nhìn nhận Nguyễn Ánh như dòng dõi chính thức và coi Tây Sơn như ‘giặc cướp’.
Vậy mà trong văn bản, bà Thụy Khuê luôn luôn dùng một từ chung ghép lại là: Các thừa sai Ba Lê và sĩ quan Pháp. Đây cũng là một dụng ý xấu của Thuỵ Khuê.
Tôi cũng đọc những tài liệu như bà Thụy Khuê đã đọc. Nhưng thái độ đọc, cách tiếp nhận các nguồn sử liệu cho phép tôi nghĩ rằng, đọc là một chuyện, thái độ đọc là chuyện khác.
Vì thế, khác hẳn với bà Thụy Khuê, tôi đọc họ với một tinh thần cởi mở đón nhận nên đã đọc Alesix Faure với một sự thich thú. Tôi được rất nhiều mà không mất mát gì. Tôi cũng thích thú chân thành khi đọc Tạ Chí Đại Trường.
Nhất là trong trường hợp Cadière. Có thể nói trước khi được đọc các sử gia Pháp trên thì người mà tôi có cơ hội đọc trước tiên là Cadière. Bởi vì lãnh sự Pháp ở Việt Nam sau 1975 đã số hóa toàn bộ công trình của BAVH.
Chỉ riêng Cadière, ông đã đóng góp 250 bài nghiên cứu, sưu tầm đủ loại về văn minh, văn hóa Việt cũng như triều đình nhà Nguyễn với một tâm tình quý mếnViệt Nam như quê hương thứ hai của minh bằng một sự trân trọng hiếm có. Các bài viết ấy bàng bạc một tấm lòng với Việt Nam.
Có thể nói Bá Đa Lộc có công với nhà Nguyễn thì Cadière có công với sử học, khảo cổ học Việt Nam. Cái công của ông với văn-sử học Việt Nam lớn lắm.
Nhưng trong số những bài viết ấy, có 5, 6 bài diễn văn mà nhân danh BAVH ông đã đọc để đón tiếp khách Việt hay Pháp.
Đặc biệt là bài diễn văn trước thống chế Joffre khi sang thăm Việt Nam.
Đây là một bài diễn văn nên cũng có một số hoa từ, một chút mầu mè, một chút ngôn ngữ ngoại giao mà bình thường có thể ông đã không viết như thế. Nhưng cái chính vẫn là những tài liệu trích dẫn từ nhiều nguồn có thể sử dụng được.
Để khỏi dài dòng, tôi xin trích dẫn một số câu do chính bà Thụy Khuê đã lấy ra làm bằng cớ và in chữ đậm.
Chẳng hạn:
“Trong số kỷ niệm này, những gì đáng quý nhất đối với người Pháp chúng ta là những kỷ niệm nhắc nhở tới những vị sĩ quan Pháp đã đến đây vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, cứu nguy Gia Long và đã giúp ông hoàng này lấy lại được vương quốc.”
Trích dẫn Maybon:
“Không thể chối cãi được rằng họ đã góp phần rộng lớn vào chiến thắng của Gia Long. Chưa nói đến sự đóng góp của họ vào những chiến công quan trọng như việc tiêu diệt hạm đội Tây Sơn năm 1792, và những cuộc hành quân khác dẫn đến chiến thắng Huế, năm 1801, mà ta không thể không khâm phục óc tổ chức của họ trong những điều kiện không mấy thuận lợi: Họ đã xây dựng một ngành hải quân theo lối Tây Phương, thành lập các thủy thủ đoàn, huấn luyện quân lính, đưa kỷ luật vào quân đội, thành lập cấp chỉ huy, đúc đại bác, dạy cho người Việt cách dùng trái phá, lập đội pháo binh dã chiến mà sự lưu động khiến quân Tây Sơn khiếp sợ, họ đã xây dựng các thành dài.”(30)
“Trước hết, chúng ta thử xem những người đã tạo ra cái ảnh hưởng này. May mắn nhờ sự khám phá của một trong những cộng sự viên nhiệt thành nhất và kiến thức nhất của chúng tôi, ông A. Salles, cựu thanh tra thuộc địa, đã cho phép tôi trình ngài đọc trước, chân dung của ba người vinh hiển nhất đã giúp Gia Long: J.B Chaigneau, Ph.Vannier, và Jean-Marie Dayot.”
Như tôi đã nói, ảnh hưởng của những người Pháp trên triều đình Annam là cá nhân và trực tiếp.
“Trước hết là sự huấn luyện kỹ thuật, và điều lạ lùng là do một vị giám mục – đúng là ông đã làm bá chủ giai đoạn này, bằng hành động, bằng thiên tài, bằng đạo đức cũng như bằng lòng yêu nước (Pháp), ngời sáng của ông – đức giám mục đã giữ vai trò khởi thủy. Một tác giả đương thời nói: Ông dịch cho học trò ông – tức là Gia Long – nhiều tác phẩm tiếng Pháp sang tiếng Nam(Cochinchinois) chủ yếu là những sách chiến lược và sách xây thành lũy. Ông dịch hay đến nỗi người có học và người có khả năng nhất nước này là nhà vua cũng phải chịu.”(31)
“Chính Dayot đã báo cho Renoward de Sainte-Croix biết về những thông tin này. Khoảng hai mươi năm sau đó, năm 1819 Vannier và Chaigneau cũng cho một người du lịch Anh đến Huế biết rằng ‘Giám mục Adran dịch sang tiếng nước này (chữ Nôm) những mục từ ích lợi nhất của Bách Khoa Toàn Thư và soạn trong thổ âm này (Chữ Nôm) nhiều bản Hiệp ước cho Hoàng Đế xử dụng.”(32)
Công trạng của giám mục Bá Đa Lộc có lẽ giới hạn ở đó: ông cung cấp những sách nền móng cho sự nghiên cứu. Tất cả những lý giải kỹ thuật phải dành cho các chuyên viên: Chaigneau, Vannier nói được tiếng Việt, nhất là Olivier.
“Thưa thống chế, chúng tôi mong muốn được trình ngài bộ sưu tập những tác phẩm liên quan đến nghệ thuật xây dựng và bảo vệ thành trì đồn lũy, do giám mục Bá Đa Lộc dịch sang chữ Nôm. Có lẽ một ngày nào đó, ta sẽ tìm lại được trong văn khố hoàng cung hay của các Bộ. Ngày hôm nay, chúng tôi chỉ có thể trình ngài một kiểu mẫu được giữ trong Nội-Các,, đó là Đồ thị quân sự, bao gồm tất cả các bộ phận chính của một thành đồn, với tất cả các khẩu đại bác ( đẻ tấn công và phòng thủ) của một chiến lũy do J.E. Duhamel, kỹ sư của vua, năm 1773, xây theo kỹ thuật xây dựng của ‘thống chế Vauban’.”(33)
Bạn đọc mấy trích đoạn trên tự mình có thể đánh giá bài diễn văn của ông Cadière như thế nào?
Riêng bà Thụy Khuê phản bác luận điểm của Cadière và không tin rằng Bá Đa Lộc đã dịch Bách Khoa toàn thư sang tiếng Tầu hay tiếng Ta? Bà viết:
“Những dòng trên đây, chứng tỏ Bá Đa Lộc không gần gũi vua như người ta thêu dệt nên. Sau khi Trần Đại Luật dâng sớ ‘xin chém đầu Bá Đa Lộc’ năm 1795, thì vị giám mục lại càng thận trọng hơn nữa. Vậy việc giám mục ‘ dịch sách’, ‘viết thư’, làm ‘ cố vấn’ mọi việc cho vua không thể, nếu một năm hay hơn một năm giám mục mới gặp vua một lần. Chức phận ông giới hạn trong việc: Là một trong những thầy dạy Hoàng Tử Cảnh!”(34)
Trong đoạn văn ngắn ngủi trên, bà Thụy Khuê đã vấp phạm nhiều lỗi trầm trọng: như đánh giá sai một cách hời hợt mối liên hệ Bá Đa Lộc-Nguyễn Ánh. Qua một số chứng từ – nhất là những lá thư Nguyễn Ánh gửi cho Bá Đa Lộc do Cadiere thu tập được và Tạ Chí Đại Trường đưa ra bình giải cũng như những đánh giá của Le Labousse, của Shihojen Seishi, của Barrow và nhất là chính lời của Gia Long trong văn tế Bá Đa Lộc cho thấy vai trò của ông như thế nào.
Thụy Khuê phủ nhận những việc làm của Bá Đa Lộc như dịch sách, cố vấn là những việc làm không thể có được. Nhưng đấy lại là những công việc Bá Đa Lộc đã làm cho Nguyễn Ánh.
Cố tình cho rằng Nguyễn Ánh không bao giờ là học trò của Bá Đa Lộc mà cùng lắm Bá Đa Lộc chỉ là thầy giáo của Hoàng Tử Cảnh là một lối nhục mạ không cần thiết.
Vài dòng cuối
Phải thú thực là tôi rất mệt mỏi khi đọc tập tài liệu này. Viết xong dược một vài cảm tưởng khi đọc xong tập tập liệu tôi coi như một giải thoát. Cái lợi duy nhất có được là nhờ bà Thụy Khuê, tôi có dịp đọc thêm nhiều tài liệu giúp bổ túc cho kiến thức về sử Việt Nam cận đại.
Sự khác biệt giữa Thuỵ Khuê và người viết là sự khác biệt trong lối nhìn, lối đọc sử học do quan điểm về sử khác nhau.
Trước khi chấm dứt bài viết bày tôi cũng mời độc giả đọc lại bài phỏng vấn của bà Thụy Khuê với Hoàng Phủ Ngọc Tường họa chăng có thêm một điểm nhìn gợi ý nào chăng?
Qua kinh nghiệm này tôi nghĩ chỉ nên đọc những gì mình cảm thấy thích. Không thích không đọc để khỏi tự hành hạ mình. Nó giống như món ăn vậy. Thích thì ăn, không thich thì thôi.
(Hết)
© 2016 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Bài và chú thích của tác giả. DCVOnline minh hoạ.
(21) Alesix Faure, Mgr Pigneau de Beshaine Esveque d’Adran, Paris, 1891, Chapitre douzieme.
(22) Nguyễn Xuân Thọ, Ibid, trang 34.
(23) Tạ Chí Đại Trường, Ibid., trang 181.
(24) Nguyễn Xuân Thọ, Ibid., trang 36.
(25) Thụy Khuê, Ibid., chương 2.
(26) Ngày thứ 15, tuần trăng thứ năm, năm thứ 51, đời Cảnh Hưng, 27.6. 1790. Louvet, La Cochinchine religieuse, I, t, 536. trích lại Thụy Khuê, Ibid., chương 18.
(27) Nguyễn Duy Chính, “Tương quan Xiêm-Việt cuối thế kỷ XVIII”, trang 28-29.
(28) Tạ Chí Đại Trường, Ibid., trang 196-197.
(29) Thụy Khuê, Ibid., chương 14, Maybon và cuốn Histoire moderne du pays d’Annam.
(30) Thụy Khuê, Ibid., chương 15 Maybon, “Histoire moderne du pays d’Annam, trang 278.
(31) Thụy Khuê, chương 15, “Relations de Bissachere”, Introduction của Ste-Croix do Maybon in, trang 91.
(32) Thụy Khuê, Ibid., chương 15, trích “Annales maritimes et Coloniales”, biên niên hàng hải và thuộc địa, 1823, tome 2, trg 578.
Nguyễn Văn Lục
Nguồn: DCVOnline