Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Thực dân và dân thuộc địa nhìn vào nhau (6b - phần 2)

02 Tháng Sáu 201612:28 CH(Xem: 17984)
GS. Nguyễn Văn Lục - Thực dân và dân thuộc địa nhìn vào nhau (6b - phần 2)

Thực dân và dân thuộc địa nhìn vào nhau (6b - phần 2)


Có hai loại phản ứng: Phản ứng thuận chiều và trái chiều

Phản ứng thuận chiều

Tháng tư, 1956, người Pháp chính thức cuốn cờ và triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam chấm dứt chế độ thực dân Pháp sau ngót một thế kỷ. 80 năm có lẻ ở Nam Kỳ và 60 năm ở Bắc Kỳ.

Miền Nam lúc bấy giờ có khoảng 7000 người Việt mang quốc tịch Pháp. Người ta ghi nhận đã có hơn 6000 người trong số đó xin hồi tịch.

Nhưng xé bỏ một tờ căn cước có đủ để người ta quay trở về cội nguồn với con người Việt Nam không? Xóa đi một cái ranh giới địa lý hay ranh giới pháp lý chỉ cần làm một cử chỉ “cái roẹt” là xong; nhưng cái ranh giới tinh thần là công việc còn lại của mỗi người, có khi làm cả đời không xong!

Chế độ thực dân chính thức không còn nữa và người Mỹ đến thay thế chỗ của người Pháp.

Phần ông Diệm, ở bình diện cơ chế, coi như ông đã thực hiện được hai bước trong tiến trình ba bước chính trị của ông: Bài Phong, Phản Đế, Diệt Cộng.

Nhưng ở mặt tinh thần, nước Pháp xa cách Việt Nam 16.000 cây số, vậy mà về mặt tâm tư thì nhiều người Việt Nam sinh sống ở VN cảm thấy “gần” nước Pháp hơn là người hàng xóm của mình. Bạn đọc có thể đọc thêm cuốn “Going Indochinese: Contesting Concepts of Space and Place in French Indochina”, (1995, 2012), của Christopher E. Goscha, hay bản tiếng Pháp “Indochine ou Vietnam” tác  giả mới xuất bản 2015.

Cựu Thủ tướng Trần Văn Hữu còn đi xa hơn, vào năm 1946 có chủ trương tách Nam Việt Nam ra khỏi Quốc Gia VN. Những người như thế đã được ông Bảo Đại mời ra lập chính phủ vào ngày 6-5-1950!

Chưa kể tệ hại hơn nữa, nhiều người Việt-gốc Pháp còn khinh văn hóa Việt, lối sống Việt vì họ coi là quê mùa, hủ lậu. Điển hình như trong Lục tỉnh Tân Văn, số hai, có bài viết lên giọng dạy đời nhận xét:

“Người Annam hay dùng chữ Nho mà ta ít hay hiểu lý cao kỳ… ăn cắp chữ Tàu dùng qua chữ Quốc Ngữ … song việc dùng câu chữ Tàu như vậy thì chẳng phải lẽ, thiếu gì cách nói, sao lại dùng tiếng chi bậy bạ vậy?”(9)

Cái tâm lý trên chỉ muốn nói lên một điều rằng Hội Chứng Hậu Thuộc Địa tưởng rằng đã qua rồi, nhưng thật ra nó còn kéo dài trên nhiều mặt sau đây

Hội chứng trọng thi cử

Bằng tiểu học 1937. Nguồn OntheNet

Bằng tiểu học 1937. Nguồn OntheNet

Tổ chức thi cử ở mọi cấp vẫn nặng nề trường ốc, học ba năm thi một giờ, vẫn lấy kết quả thi cử là thước đo nhân tài. Tiểu học thi theo tiểu học, trung học đệ nhất cấp rồi đệ nhị cấp đến hai lần thi tú tài 1, tú tài 2. Lên đại học lai phải thi tuyển.

Tôi nhìn lại, việc thi cử không mang ý nghĩa chứng nhận một trình độ đã học. Nó mang tính “đầy đọa” con người.

Nhiều vị ra đề thi phải hỏi hóc búa, đề toán phải có câu hỏi “lừa” được thí sinh mới là trứ danh. Cái lề lối thi cử ấy có từ thời tây thuộc địa. Nhưng không tránh được nó làm hao tổn tinh thần cho học sinh mới 11, 12 đã học như “quốc kêu mùa hè”. Nhưng cái rào cản tú tài 1 và 2 mới giết chết và làm hao mòn tuổi trẻ.

Không có lý gì 100 học sinh tiểu học tiếp tục học lên, rơi rớt dọc đường, kẹt cứng ở rào cản tú tài và đại học như nêm cối, như nút chặn tương lai. Và không chắc đến 10 người được bước vô cửa chính của Đại Học.

Năm 1954-1955, chúng ta có 363.160 học sinh tiểu học. 6 năm sau, con số lên đến trên một triệu, 1.001 757 học sinh. Người Mỹ “thong thả nhúng tay vào” do các cố vấn Mỹ từ trường đại học Ohio.

Bằng Tiểu học 1987. Nguồn: CHXHCNVN

Bằng Tiểu học 1987. Nguồn: CHXHCNVN

Họ trách nhiệm nghiên cứu, hướng dẫn đưa ra các dự án như: giáo dục cộng đồng, giáo dục tổng hợp, giáo dục chuyên nghiệp và kỹ thuật. Sau này, dần dần chế độ thi cử được thông thoáng hơn. Do sự cố vấn của Mỹ, các kỳ thi tiểu học, trung học được bãi bỏ.

Nhờ họ mà giáo dục được cải tiến nhiều. Mặt khác, hệ thống giáo dục hiện nay của nước CHXHCN Việt Nam vẫn còn là cả một vấn đề!

Hội chứng trọng bằng cấp ở Pháp

Việc học, việc thi cử là để đi đến chỗ có được bằng cấp.

Thi cử càng khó khăn thì bằng cấp càng có giá trị. Bằng ngoại quốc thì có giá hơn bằng trong nước. Cùng học ở ngoại quốc, nhưng bằng đậu ở Pháp có giá hơn bằng ở Tân Tây Lan, ở Anh quốc, Thụy Sĩ hay Bỉ.

Hội chứng Hậu thuộc địa rõ ràng là ở chỗ này: Bằng cấp là thước đo chiều cao tinh thần và định vị xã hội.

Bằng cấp là một giấy mua vé vào đời bằng cửa lớn, cơ hội thuận tiện cho những hợp đồng hôn nhân cân bằng tính toán giữa sắc đẹp, tiền bạc và bằng cấp. Người đời từng nói: Phi cao đẳng bất thành phu phụ.

Những bằng từ trường Pháp ở Việt Nam và nhất là từ nước Pháp thì vẫn là nhất. Oai hơn nữa nếu là bác sĩ học và ở Pháp.

Cái oai hay hội chứng ấy được bác sĩ thiếu tướng Vũ Ngọc Hoàn viết:

“Các quan tây công sứ, các quan đầu tỉnh Việt Nam còn nể vì các quan đốc tờ, hèn chi trước mặt thầy thuốc tây, ta chẳng thấy người dân run sợ, khúm núm. Địa vị đã cao trọng trong xã hội, lại bị ngoại cảnh chi phối dần dà các quan đốc tờ sống xa rời dân chúng, giam mình trong một tháp ngà trưởng giả.”

(Vũ Ngọc Hoàn, “Quân Y quân lực VNCH” (Le corps de Santé. Des forces armées de la République du Viet Nam), trang 21)

Cái tinh thần gò bó ấy, cụ Trần trọng Kim gọi là tinh thần Học Phiệt:

“Ở xã hội ta ngày nay, có một hạng người nghe nói đến nước mình thì ngây ngây như người ngoại quốc, sử nước mình không biết, tiếng nói nước mình chỉ biết qua loa, đủ dùng cho sự giao thiệp hàng ngày.”

(Theo Lê Thanh, Cuộc phỏng vấn các nhà văn, 1943. Nguyễn Văn Y dẫn lại trong “Nhà Giáo”, Sài gòn, 1973, trang 132.)

Quả thực đã có một thời nhiễu nhương không đáng do những Hội chứng Hậu Thuộc Địa để lại tạo ra những tranh chấp của một xu hướng bảo thủ và một xu hướng muốn đổi mới!
Quả thực đã có một thời như thế!

Phản ứng tiêu cực, chống phá và sát hại đồng loại

Và đây chính là phản ứng áp dụng cho hoàn cảnh của người bị trị. Pháp chính là kẻ thù trực tiếp của vua quan Việt Nam. Nhưng vì họ bất lực không chống lại được người Pháp thì họ đành gián tiếp đánh những ai có quan hệ với Pháp như các thừa sai hoặc giáo dân và trút đổ mọi trách nhiệm lên đầu họ.

Nếu không thể dùng bạo lực thì dùng ngòi bút của các ông Cao Huy Thuần, Chính Đạo và nhóm Giao Điểm.

Nếu chúng ta chịu khó đọc lại sử về mối bang giao với các nước Tây Phương các giai đoạn 3 thế kỷ đầu, người ta phải nhìn nhận việc có mặt của các nhà truyền giáo phần lớn là các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha tương đối tốt đẹp. Các Chúa Đàng Trong cũng như Đàng Ngoài đều tin dùng các thừa sai và bổ nhiệm họ làm quan chức, ngay cả trong việc ngoại giao với các nước Tây Phương.

Tôi xin được nhắc lại một lần nữa, công của sử gia Nguyễn Khắc Ngữ đã không được các đồng nghiệp của ông đánh giá đúng mức. Có thể vì tác phẩm nghiên cứu của ông chỉ phát hành giới han trong những năm đầu cuộc đời tị nạn ngắn ngủi ở Montreal. Chính ông chứ không ai khác đã giới thiệu về mối bang giao giữa Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hòa Lan với Đại Việt.

Ở thế kỷ thứ XVI, XVII và XVIII, khi mối giao hảo giữa hai bên nhà chúa và các giáo sĩ còn tốt. Các thừa sai người Bồ, người Tây Ban Nha đã được các Chúa trọng dụng và cho làm quan. Những điều này đã không được trình bày đầy đủ trong các hồi ký hay các thư từ của thừa sai Pháp.

Không phải đợi đến Nguyễn Ánh, Gia Long mới biết dùng các thừa sai làm việc cho mình.

Đây là một thiếu sót trong các sách sử của Việt Nam. Người duy nhất đã bổ khuyết cho thiếu sót này là sử gia Nguyễn Khắc Ngữ.

Xin ghi lại một ký sự của giáo sĩ Christoforo Borri trong ký sự của ông:

‘Chúa Cochinchina luôn luôn chứng tỏ rằng ông thích người Bồ vào buôn bán ở xứ ông vô cùng. Ông đã nhiều lần tỏ ý dành cho họ 3 hay 4 nơi trong xứ (để họ vào buôn bán) trong đó chỗ tốt nhất là Turon (Đà Nẵng) để họ xây dựng một thành phố với tất cả những tiện nghi của họ, như người Nhật và người Trung Hoa đã làm (ở Hải Phố).

Và nếu tôi được phép bày tỏ cảm tưởng của tôi với Đức vua công giáo (Bồ), tôi sẽ nói rằng Đức Vua phải ra lệnh cho người Bồ dù sao cũng nên nhận hảo ý đưa đến sự thiết lập ở đây một thành phố đẹp đẽ. Chắc chắn nơi đây sẽ là nơi trú ngụ, chốn nghỉ ngơi của tất cả các tàu bè đi sang Trung Hoa vì ở đây người ta có thể để một đạo quân sẵn sàng chống lại người Hòa Lan sẽ đến xứ này và đến Nhật Bản.”(10)

Năm 1651, đời Chúa Nguyễn Phúc Tần, nhà cầm quyền Bồ ở Ma Cao gửi tặng Chúa Nguyễn một khẩu đại bác. Chúa Nguyễn ưng ý lắm nên viết thư cám ơn nội dung lá thư như sau:

‘Quốc Vương Cochinchina kính gửi Tổng chỉ huy trưởng thành phố Macao. Trẫm thường nghe nói: Lẽ phải và công bằng là lẽ cả trên đời. Việc bang giao với các nước láng giềng lấy trung tín làm căn bản. Chính vì lẽ đó, Thành phố Macao và Vương Quốc Cochinchina kết hợp với nhau, tương thân, tương lợi, đối xử với nhau trong công lý.

Từ ngày trẫm lên ngôi (1648) đến nay, Trẫm chưa kịp bày tỏ cảm tình và lòng quý mến của Trẫm với Ngài mà Ngài đã gửi tặng Trẫm một khẩu đại bác, thứ mà Trẫm thích nhất.
Nếu Ngài muốn xin việc gì trong xứ của Trẫm, hãy cho Trẫm rõ, Trẫm sẽ chuẩn y ngay. Ngài xin Trẫm cho phép các cha vào trong xứ trẫm là việc nhỏ. Các cha quá cao cả mà đối với mỗi người lại quá nhỏ. Xin Ngài đùng quá khiêm tốn khi hỏi xin. Trẫm muốn ban cho đặc ân lớn hơn.

Viết năm thứ ba, ngày 26 thán ba năm 1951 Thiên Chúa.(11)

Sự giao hảo giữa hai bên qua các lá thư trên thật tốt đẹp. Nhưng nếu chẳng may có điều không thuận thì các thừa sai là nạn nhân thứ nhất phải gánh chịu.

Cái cảnh quít làm cam chịu chính là sách lược được áp dụng rộng rãi trong suốt thời gian thuộc địa Pháp và cả hậu thuộc địa.

Augustin Schoeffler nhà truyền giáo người Pháp của Hội Thừa sai Hải ngoại Paris, sinh năm 1822 tại Mittelbronn, bị bắt và bị chặt đầu ngày 1 Tháng 5 năm 1851 tại Sơn Tây, Việt Nam. bởi Giáo Hoàng John Paul II  phong thánh năm 1988. Họa sĩ nhân chứng Việt Nam vô danh. Giấy dán trên vải 89 × 129,5 cm. Salles des Martyrs, Missions Étrangères, Paris. © AKG-images / Amelot.

Augustin Schoeffler nhà truyền giáo người Pháp của Hội Thừa sai Hải ngoại Paris, sinh năm 1822 tại Mittelbronn, bị bắt và bị chặt đầu ngày 1 Tháng 5 năm 1851 tại Sơn Tây, Việt Nam. Giáo Hoàng John Paul II phong thánh cho ông năm 1988.
Họa sĩ nhân chứng Việt Nam vô danh. Giấy dán trên vải 89 × 129,5 cm. Salles des Martyrs, Missions Étrangères, Paris. © AKG-images / Amelot.

Thật vậy, Phong trào Cần Vương là một thứ biểu dương lực lượng bất cân xứng giữa đôi bên. Dù vậy, những trường hợp như Đề Thám,dù là đơn độc, đã để lại nỗi ám ảnh khó quên về kháng chiến quân. Nhiều địa danh xa xôi hẻo lánh nay trở thành những địa danh được cả nước biết tới. Những con người tiêu biểu như Phan Đình Phùng phải đối đầu với những thành phần chạy theo địch như Hoàng Cao Khải, Nguyễn Hữu Độ hay Nguyễn Thân.

Tuy nhiên, những cuộc nổi dậy ấy chứng tỏ một triều đình bất lực, thiếu hẳn chính nghĩa của một quốc gia, một cuộc khởi nghĩa của toàn dân. Đã thế, để nuôi quân, đôi khi họ phải đi ăn cướp khiến dân tình ca thán, oán trách.

Và ở giữa hai lằn đạn ấy có thể là những người giáo dân quê mùa, nghèo nàn đến đáng thương hại.

Đến lượt người cộng sản sau này trước khi lên nắm chính quyền thì đã có chiến dịch bắt cóc, thủ tiêu các ông Trùm, ông Chánh Trương trong các xứ đạo. Và các linh mục thừa sai Pháp bị bắt cầm tù trên khắp các tỉnh miền Bắc và miền Trung. Có cả thẩy 33 thừa sai và linh mục VN tại địa phận Vinh đã bị bắt giữ ngay từ ngày 20-21 tháng 12 khi chiến tranh Việt- Pháp bùng nổ. Họ bị bắt làm tù binh cho đến năm 1952, tại Khu 4-do chính quyền Việt Minh hoàn toàn kiểm sóat.

Khi chiến tranh Việt-Pháp có nguy cơ không tránh được thì trước tiên Việt Minh sát hại các thừa sai người Pháp. Có 5 thừa sai bị Việt Minh giết chết. Đó là các thừa sai Fourmier và Vacquier vào tháng 9-1945, Vibert, vào tháng 5-46, Magnin, tháng 6-1947, và Laurent, tháng 11-1947.

Dòng Đa Minh có hai vị bị giết Brebion và Maillet, tháng 10-1947.(12)

Tất cả họ đều là những nạn nhân vô tội của cuộc tranh chấp Việt-Pháp.

Tại Nam phần, nhiều sinh viên du học tại Pháp bị trục xuất trở về Việt Nam, trong đó Tạ Thu Thâu, vào thập niên 1930. Người ta thấy trên đường phố Saigon nhiều truyền đơn với khẩu hiệu: Đả đảo Tạ Thu Thâu. Nhưng Tạ Thu Thâu vẫn xuất hiện đăng đàn diễn thuyết.

Dưới đây là mấy dòng tường thuật của ký giả Nguyễn Kỳ Nam, người có mặt tại chỗ những năm biến động của Saigon dưới thời Pháp cai trị.(13)5 Năm 1930. Xin ghi nhận vài dòng về cái chết của nhưng người cộng sản đệ tứ do đệ tam ám hại, Ký giả Nguyễn Kỳ Nam viêt trong hồi ký của ông như sau:

“Cái chết cả Trần Văn Thạch, Phan Văn Chánh, Phan Văn Hùm như đã báo trước trong phiên khoáng đại Hội Nghị của Ủy Ban Hành Chánh Nam Bộ ngày 30-8-2945 […] Tôi không bao giờ quên những câu hỏi và những câu trả lời của Trần Văn Giàu. Tôi cũng không quên khi Trần Văn Giàu mặc áo sơ mi đứng lên, tay mặt đập mạnh vào khẩu súng lục nhỏ mang ở bên hông, để trả lời một câu chất vấn của Trần Văn Thạch.”

Nghe và thấy vậy ai mà không sợ.(14) Ngoài những cuộc thanh toán, ám sát giữa đệ tam và đệ tứ cũng áp dụng và cả những người Quốc gia cũng áp dụng thời đệ nhất, đệ nhị cộng hòa.

Nguyễn Văn Trung khi viết cuốn “Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam- Thực chất và Huyền thoại” do thiếu tài liệu tham khảo về chính sách của thực dân Pháp cuối cùng cũng là nhắm phê bình tay sai của Pháp như Phạm Quỳnh, Trương Vĩnh Ký. (Sau này, ông đã rút lại phần phê bình Trương Vĩnh Ký.

Chính Đạo thì quyết liệt và cực đoan hơn cả. Tất cả những ai là người Thiên Chúa giáo có đính dáng với Pháp thì đều bị ông xếp vào loại Việt gian cả như: Nguyễn Trường Tộ, Petrus Ký, Trần Lục, Ngô Đình Khả, v.v.

Ở một mức độ ngoại hạng có Lê Trọng Văn, Trần Chung Ngọc

Đối với tôi có sự xác tín rằng: sự khôn ngoan của một người, của một dòng họ và của một đất nước, chính là ở chỗ biết ứng xử, biết tìm ra lối thoát, giải đáp được một tình thế. Cái mà ngày nay người ta gọi là quyền lực mềm, quyền lực thông minh (smart power).(15) Cái quyền lực thông minh ấy giúp một quốc gia đạt tới sự thành công về chính trị: The means to success in world politics.

Đó là cái lý do cắt nghĩa tại sao Nhật, Thái Lan, Singapore dành được độc lập và Việt Nam thì không.

Kết luận phần biên khảo này, tôi chỉ xin được trích dẫn quan điểm của sử gia Taylor, nó tóm tắt tất cả cái trách nhiệm của một đất nước trước sự xâm lăng của người Pháp là sự bất lực của một triều đình.

Trong cuốn “A History of the Vietnamese”, sử gia K. W. Taylor đã nhận xét tóm gọn như sau về triều Nguyễn:

Hình vẽ Vua Minh Mạng. Nguồn:  John Crawfurd,  “Journal of an Embassy – From the Governor-general of India to the Courts of Siam and Cochin China”, 1930

Hình vẽ Vua Minh Mạng. Nguồn: John Crawfurd, “Journal of an Embassy – From the Governor-general of India to the Courts of Siam and Cochin China”, 1928, trang 509

“Historians have faulted the Nguyen Dynasty of the nineteenth century for its rigid and unimaginative response to changing conditions, but the passivity of leadership at Hue during this time also reflected the palace-bound routines and limited perspectives of men in a quiet corner of the country while the northern and southern plains people were experiencing dramatic encounters with the forces of a new age. Gia Long’s successor, Minh Mang, ruling from 1820 to 1840, understood the problem and endeavored to centralize the dynastic system, but his ambition to enforce unity led to rebellion and confrontation with Siam. His successors, overwhelmed by court politics and befuddled by unprecedented seaborne threats, stiffened into spectators at the palace windows.”(16)8

Các sử gia đã chê trách nhà Nguyễn ở thế kỷ XIX vì phản ứng cứng nhắc và thiếu óc sáng tạo của họ trước thay đổi của hoàn cảnh, nhưng sự thụ động của giới lãnh đạo ở Huế trong giai đoạn này cũng phản ảnh những thói quen gò bó ở cung điện và quan điểm hạn chế của những người sống trong một góc yên bình của đất nước trong khi ở các đồng bằng miền Bắc và miền Nam người dân đã kinh qua những cuộc đụng độ thảm khốc với các sức mạnh của một thời đại mới. Minh Mạng, người thừa kế Gia Long, cai trị từ 1820 đến 1840, hiểu rõ vấn đề và cố gắng tập trung hệ thống triều chính, nhưng tham vọng của Minh Mạng để áp đặt sự thống nhất dẫn đến cuộc nổi loạn và sự đối đầu với Xiêm La. Những vị vua kế vị ông, choáng ngợp vì chính trị ở triều đình và bị mụ đi vì những mối đe dọa chưa từng có ngoài biển, bất động thành khán giả nhìn thơi cuộc qua khung cửa sổ của hoàng cung.

© 2016 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


Nguồn: Bài và chú thích của tác giả. DCVOnline hiệu và minh họa.

(9) “Dùng sái nghĩa”, Lục tỉnh Tân Văn số hai
(10) Nguyễn Khắc Ngữ, “Tây Phuong tiếp xúc với Việt Nam”, trang 58.
(11) Nguyễn Khắc Ngữ, Ibid., trang 58-59.
(12) Tran Thi Lien, “Les Catholiques Vietnamiens pendant la Guere d’Indespendance” (1945-1954, 1996, Thèse doctorat
(13) Nguyễn Kỳ Nam, “Hồi ký”, 1925-1964
(14) Nguyễn Kỳ Nam, Ibid., trang 27
(15) Xem thêm Joseph S. Nye, Jr, “Soft Power”.
(16) K. W. Taylor, “A History of the Vietnamese”, nxb Cambridge, The Dysnaty Nguyen, trang 399

Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline

25 Tháng Chín 2015(Xem: 19024)
1/ Ngân hàng đầu tư Goldman Sachs của Mỹ đã bất ngờ đưa ra thông báo quyết định ngưng đầu tư vào Trung Cộng. 2/ Tập đoàn Lý Gia Thành đã chuyển dần tài sản từ Trung Quốc sang Châu Âu
28 Tháng Tám 2015(Xem: 17871)
Liệu Đế quốc Trung Cộng có "may mắn" thoát được số phận tan vỡ ra từng mảnh hay không và phe nào sẽ thắng thế trong cuộc tranh chấp quyền lực đẩm máu ?
07 Tháng Ba 2015(Xem: 43261)
Và mặc dầu còn có những bất cập đủ thứ, tôi vẫn phải nhìn nhận rằng, những năm tháng còn lại, kể từ ngày ấy, mỗi giây phút năm tháng sống, học hành, lớn lên thành người thời đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam vẫn là những năm tháng ân sủng cho tuổi trẻ của tôi và những bạn bè cùng trang lứa.
27 Tháng Hai 2015(Xem: 19647)
Luận đề của "Đoạn Trường Tân Thanh" hiển nhiên là thuyết "tài mệnh tương đố"", gọi nôm na là "hồng nhan bạc mệnh".
24 Tháng Giêng 2015(Xem: 27223)
Phần người viết nhìn bức hình cũ kỹ đã gần nửa thế kỷ với tâm trạng đầy... xúc động. Bởi vì đúng như ông bà mình thường nói rằng nghe cả hàng ngàn lời nói đọc cả hàng vạn chữ viết mô tả cũng không sao bằng...
28 Tháng Mười Một 2014(Xem: 22247)
Sức mạnh của chúng ta là phải biết họ là ai và cho họ biết chúng ta là ai? Sau đó phải biết cất lên tiếng nói. Nói thì sống, không nói thì chết.
14 Tháng Mười Một 2014(Xem: 29848)
Vào ngày chủ nhựt qua mùng 9 tháng 11 , nước Đức và Âu Châu đã ăn mừng kỷ niệm 25 năm Bức Tường Bá Linh Sụp Đỗ (1989 - 2014) .
11 Tháng Chín 2014(Xem: 38258)
Viết cho Nguyễn Xuân Hoàng - người bạn đã một thời cùng chung dưới mái trường của Platon, hiện đang ở bên bờ tử sinh.
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 36981)
Đọc sách báo ngày nay viết về cái chết của Hai Bà Trưng tôi hay bị "tẩu hỏa nhập ma" và phân vân tự hỏi: Hai Bà Trưng chết kiểu nào?
28 Tháng Sáu 2014(Xem: 30974)
• Việt Nam trong thế kỷ 20 vừa qua có ba điều bất hạnh xảy ra trùng hợp:... Trong ba cái bất hạnh ấy, cái thứ ba là nguy hiểm và tồi tệ nhất.
23 Tháng Tư 2014(Xem: 21958)
Gabriel Garcia Marquez, 87 tuổi, văn hào người Colombia nổi danh khắp thế giới với tác phẩm “Trăm Năm Cô Đơn,” qua đời hôm Thứ Năm 17 tháng 4, 2014, tại Mexico City, nơi ông đã sống 30 năm cuối đời.
20 Tháng Ba 2014(Xem: 39153)
Với khuôn khổ một tờ Kỷ Yếu có tính cách nội bộ như tờ đặc san này, những dòng “Vẻ Vang Dân Ngô Quyền” (mượn chữ của ký giả Trọng Minh) cũng có thể được hiểu như một sự chia sẻ chút niềm hãnh diện “giống nòi” giữa chúng ta,
02 Tháng Ba 2014(Xem: 16354)
Ôn lại Lịch Sử nước ta với hơn 4000 năm từ Họ Hồng Bàng với truyền thuyết con Rồng Cháu Tiên qua chương trình "Việt Nam Quê hương tôi" vào mỗi tuần với Phương Anh
27 Tháng Hai 2014(Xem: 39951)
Mới đây đọc báo Reader’s Digest thấy người ta nói đến những ích lợi của cái CƯỜI, trong đó có nói là cười nhiều có thể làm cho người ốm bớt đi. Lý do gì mà các nhà khảo cứu lại quả quyết như vậy?
31 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 14165)
Không kể những cuộc xâm lấn nhỏ, đã có 13 lần phương Bắc xua đại quân xâm lấn phương Nam, đặc biệt Việt Nam. Nhưng trong tất cả 13 lần đó, Dân Việt đều đại thắng các đoàn quân Phương Bắc. Đã mười ba lần, Dân ta đại thắng !
21 Tháng Mười Một 2013(Xem: 50727)
Nguyễn Chí Thiện và Nguyễn Đắc Kiên. Hai nhà thơ. Hai thế hệ- Hai hoàn cảnh một từ trong cảnh tù đầy 27 năm cộng lại tại miền Bắc- một trong hoàn cảnh đất nước đã độc lập với tư cách nhà báo-.
13 Tháng Sáu 2013(Xem: 29077)
Có nhiều hình thức phản biện lại một xã hội tùy theo hoàn cảnh mỗi người và tùy hoàn cảnh xã hội và ngày nay tùy thuộc vào tình hình thế giới nói chung.
30 Tháng Tư 2013(Xem: 31604)
Chúng ta hy vọng rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong tiết lộ những bí ẩn về biến cố 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực
19 Tháng Tư 2013(Xem: 91053)
Trong tầm mắt của tôi thì Tây Nguyên là một Amazon của Việt Nam thu nhỏ lại về mọi mặt. Về mặt lịch sử, nó là di sản của con người Tây Nguyên từ bao đời nay...
06 Tháng Tư 2013(Xem: 70587)
Đọc xong tập sách mỏng, gấp sách lại, tôi cảm thấy một cái gì nhẹ nhõm len vào tâm hồn. qua những dòng tâm bút của một cô gái trẻ..
29 Tháng Ba 2013(Xem: 96318)
Chắc chắn và không thể chối cãi được sự có mặt trong Hoàng Cung của Bà đã thay đổi bộ mặt Hoàng Cung. Nhưng điều quan trọng hơn cả, Bà trở thành biểu tượng, mẫu hình lý tưởng ...
22 Tháng Ba 2013(Xem: 103487)
Phạm Duy là một con người, như mọi người. Ông đã sống tận cùng đời sống của ông, ông đã hiến tận cùng những gì ông có trong trái tim ông và thân xác ông.
30 Tháng Giêng 2013(Xem: 139889)
Nhưng câu hỏi cuối cùng được đặt ra: từ đâu Nguyễn Tất Nhiên lại có tánh lãng mạn đa tình quá vậy để dễ dàng "phóng bút" sáng tác thơ tình cho nhiều nhân vật nữ?.
25 Tháng Giêng 2013(Xem: 154264)
Mới đây, tôi có dịp đọc cuốn ''Bên thắng cuộc'' của Huy Đức do một người bạn trẻ- giáo sư đại học ở Canada- với lời giới thiệu khá nhiệt tình- :Đọc cuốn này chưa? Rất hay, còn nóng hổi.
29 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 120951)
Hầu hết những bé gái sinh ra đều quấn trong một tấm tã... Nhưng có những bé gái ra đời được quấn trong tã bọc điều, biểu tượng của giàu sang phú quý.
08 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 159909)
Xin gởi đến quý vị lời chia sẻ của một triệu phú 40 tuổi là bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ, bị ung thư phổi thời kỳ 4, về kinh nghiệm sống của mình vào ngày 19/1/2012. Anh qua đời vào ngày 18/10/2012.
31 Tháng Mười 2012(Xem: 149185)
Kể từ đó, miền Bắc không có văn học nữa. Đảng qua Tố Hữu, Trường Chinh đã chôn sống các nhà văn như chôn sống địa chủ.
27 Tháng Bảy 2012(Xem: 165181)
Nhưng nói chung, ngồi chuyện ăn uống cẩn thẩn, tập thể dục hàng ngày, chúng ta cần giữ được cho tinh thần thoải mái, ít lo phiền, biết nghỉ ngơi, biết đủ, là thấy mình đi trên con đường tới hạnh phúc.
16 Tháng Bảy 2012(Xem: 158027)
Bài Văn Tế sau đây do cố Kiến Trúc Sư Đỗ Hữu Nam (vừa mệnh chung ngày 13 tháng 7 năm 2012, tại Biên Hòa) viết và đọc nhân ngày Sinh Hoạt Truyền Thống của nhóm Cựu Học Sinh Phan Chu Trinh, để thành kính dâng lên các vị Thầy đã khuất.
19 Tháng Năm 2012(Xem: 160460)
Bài viết sau đây của tôi là để chỉnh sửa và bổ túc thêm thêm vào một bài viết trước đây về Phạm Duy. Đó là bài Phạm Duy còn đó hay đã chết?
04 Tháng Năm 2012(Xem: 168984)
Đây là, chẳng phải ai khác, mà là những người di tản, những rác rưởi 37 năm trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?
03 Tháng Năm 2012(Xem: 164382)
Những ngày đầu tiên đi dạy trường trung học tráng niên Ventura, tham dự những sinh hoạt khác lạ của học trò Mỹ, tôi không khỏi so sánh với những ngày tôi còn dạy ở Việt Nam.
23 Tháng Tư 2012(Xem: 27727)
Sự bộc phát hình như là một định mệnh, không thể ngờ trước được, khi tập Thiên Tai ra đời năm 1970 lúc Nguyễn Tất Nhiên vừa 18 tuổi, bỗng nhiên tên tuổi Nguyễn Tất Nhiên bừng vỡ một cách ngoạn mục.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 42812)
Triết lý giáo dục tìm ở đâu ra? Thưa nó nằm ngay trong bộ Sách Dân Tộc, gọi là KINH ĐIỂN tức là Lĩnh nam Trích Quái, Việt Điện U Linh, Ca dao tục ngữ, Tứ Thư Ngũ Kinh.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 44077)
Tôi rời mái trường đại học Đà Lạt để “xuống núi” hành hiệp giang hồ vào giữa năm1963. Năm với nhiều biến động nhất thời tuổi trẻ của tôi. Vậy mà nay đã ngót nghét non nửa thế kỷ trôi qua.
15 Tháng Tám 2010(Xem: 39443)
Nguyễn Văn Lục không là sử gia, không là học giả, không là nhà văn và cũng không bao giờ là chính khách nên không thể quy cho tác phẩm của ông bất kỳ tính chất nào liên quan đến các chức danh đó.
28 Tháng Năm 2010(Xem: 30165)
Phải nói rằng thơ Nguyễn Tất Nhiên là một đóng góp hồn nhiên vào đời sống thi ca của chúng ta, mặc dù chữ nghĩa trong thơ anh - nhiều bài - vẫn còn ở thể quặng mỏ của ngôn ngữ. Nó là một thứ nham thạch ròng chưa bị tính bác học của ngoại lai xâm nhập, thẩm thấu và tác hại như một vài dòng thơ Việt Nam đã và đang chảy ra trong thi ca chúng ta.
06 Tháng Ba 2010(Xem: 43313)
Viết bài này, người viết bày tỏ ở đây một sự nuối tiếc là: Bài viết của nhà thơ Du Tử Lê về Nguyễn Tất Nhiên đã không nói lên được tính chất phối hợp đến kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc. Đó là điều quan trọng nhất cần được nói tới.
18 Tháng Hai 2010(Xem: 87463)
Xuân Con Cọp lại sắp đến rồi. Mà ở cái nơi "phong trần luân lạc" nầy, Tết nhất cũng chả có gì vui. Thôi thì xin mời bạn cùng tôi nhâm nhi dăm ba câu thơ cũ, để gọi là tạm "mua vui" trong khoảnh khắc chờ đợi đón giao thừa nơi xứ lạ.
25 Tháng Giêng 2010(Xem: 97667)
Tôi nhớ câu nói của một ông anh trong vùng tôi đang sống, rằng sau khi hoàn tất một công việc, bao giờ người ta cũng thấy hai túi áo chứa đầy những lời cảm tạ và những lời xin lỗi.
06 Tháng Mười Một 2009(Xem: 67352)
Chủ nhật, ngày 6 tháng 9 năm 2009 vào lúc 1 giờ trưa, Hội An Việt tại Vương Quốc Anh đã tổ chức Đại Lễ Kỷ Niệm 30 Năm Người Việt Tị Nạn Đến Anh Quốc. Buổi lễ dưới sự chủ toạ của ông Vũ Khánh Thành, cựu Giáo Sư Trung học Ngô Quyền, Biên Hòa, Giám Đốc Sáng Lập và Điều Hành Hội An Việt, Nghị Viên Thành Phố Hackney;
25 Tháng Sáu 2009(Xem: 93346)
Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy. Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ. Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.
23 Tháng Năm 2009(Xem: 32688)
Trong đại gia đình Ngô Quyền hầu như ít nhiều ai cũng biết đến Thầy Vũ Khánh Thành. Thật vậy, ngoài lãnh vực giáo dục, từng là Giáo sư dạy môn Triết học tại trường Ngô Quyền chúng ta năm xưa. Từ lúc định cư tại Anh Quốc đến nay, Thầy không ngừng tích cực dấn thân hoạt động trên bình diện xã hội, văn hóa và chính trị cho cộng đồng Việt Nam tại đây.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 78113)
  Riêng dòng sông Đồng Nai, với nguồn nước thanh khiết từ trên thượng nguồn đổ xuống, đã tạo nên một môi trường sống cho người dân tỉnh Biên Hòa và các tỉnh lân cận.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 74580)
Bài sưu tầm này được viết vào tháng 4 năm 2004, tức là 48 năm sau ngày trường Ngô Quyền được thành lập vào năm 1956, và chỉ được căn cứ vào trí nhớ của các ông Phan Thanh Hoài, Kiều Vĩnh Phúc, Lê Hồng Sanh, và cựu học sinh Đào Văn Công (khóa đầu tiên). Do đó, không khỏi thiếu sót về thành phần nhân sự giảng dạy, văn phòng v.v…
05 Tháng Hai 2009(Xem: 39386)
  Trường Trung Học Ngô Quyền được điều hành bởi một Ban Giám Đốc, đứng đầu là Hiệu Trưởng
04 Tháng Hai 2009(Xem: 39806)
Dĩ nhiên, đám học trò chúng tôi thích lắm, vì ý tưởng lạ đó không tìm thấy được trong Việt Nam Sử Lược của sử gia Trần Trọng Kim hay trong Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 47241)
Một cuộc biển dâu, đổi đời, tang thương đã diễn ra quá nỗi bi đát. Biên Hòa còn đó, mà lòng Biên Hòa đã mất tự bao giờ. Nay tuổi đời đã cao, nghĩ đến thời son trẻ, mà ngậm ngùi tiếc nuối quá khứ. Công đã tạm thành, danh đã tạm toại, nhưng tâm hồn tôi vẫn ngậm ngùi nhớ tiếc những phút giây hạnh phúc đầu tiên, đã qua mất rồi.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 46368)
Những ngày xa quê hương, lưu lạc xứ người, bận biụ với cuộc sống, tôi luôn luôn nhớ về quê nhà, nhớ về xứ Cù Lao với dòng sông Đồng Nai yêu dấu; gần đây tôi có tìm đọc thêm về xứ Đồng Nai thuở ban sơ cùng sự nghiệp khai sáng miền Nam của Ngài Nguyễn Hữu Cảnh. Nay tôi xin ghi lại những sự kiện, kiến thức tìm học đựơc bằng tấm chân tình cuả người con đất Cù Lao Phố, Đồng Nai.
01 Tháng Mười Một 2008(Xem: 147005)
Ngô Quyền ( chữ Hán : 吳權 ; 898 – 944 ) là một vị tướng và sau này là vua Việt Nam, là người sáng lập ra nhà Ngô . Năm 938 ông cầm quân đánh tan quân xâm lược Nam Hán tại sông Bạch Đằng,
26 Tháng Năm 2008(Xem: 23429)
Nếu không tính nền giáo dục duới thời phong kiến thì Truờng tiểu học Nguyễn Du, Truờng trung học Ngô Quyền, Truờng bá nghệ Biên Hòa là những ngôi truờng đầu tiên trên vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai.