Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Những vấn đề lịch sử hay sử quan của người viết sử (3 - phần 3)

05 Tháng Năm 201612:49 CH(Xem: 18146)
GS. Nguyễn Văn Lục - Những vấn đề lịch sử hay sử quan của người viết sử (3 - phần 3)

Những vấn đề lịch sử hay sử quan của người viết sử (3 - phần 3)

Đôi lời bình thay cho kết luận

Vấn đề sử học phải chăng đã có lời giải đáp trong Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thời Sỹ, 1775- Thế kỷ 18.

Phải chăng Ngô Thời Sỹ đã không được người đời sau lý đoán tới vì đã có Ngô Sỹ Liên?

Tôi cũng rất ngạc nhiên tự hỏi, đã có rất nhiều sử gia nói rõ ràng vai trò của sử học cũng như cách viết sử. Nhưng xem ra họ nói một đằng làm một nẻo.

Xin được trích như sau:

“Đại để phép làm sử là phải: mỗi sự kiện đều nhặt đủ, không bỏ sót, để cho người ta sau khi mở sách ra xem, rõ được manh mối, biết được đầu đuôi, tuy không được mắt thấy tai nghe, mà rõ ràng như chính mình được thấy.(17)

Ngay từ thế kỷ 18, sử gia Ngô Thời Sỹ đã có những nhận định rất đứng đắn, tiến bộ và sâu sắc về sử học mà không hiểu người thời sau không chịu lấy đó làm gương để noi theo?

Ông trích dẫn lời người xưa như sau:

“đúng lời nói mà không xét đến lẽ phải, tác giả dối ta, ta lại tin vào đó để dối người sau, có nên không?”

Truyện Lạc Long Quân

“Con vua Kinh Dương là Sùng Lãm lên làm vua gọi là vua Lạc Long, lấy bà Âu Cơ, có thai đủ ngày tháng, sinh ra 100 con, Lạc Long thường bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, nước với lửa khác nhau, khó ở chung được”, bèn chia nhau, 50 người con theo cha về miền biển; 50 người con theo mẹ về miền núi, suy cử người con trưởng nối ngôi là vua Hùng Vương. Xét trong truyện chép thời bấy giờ vua Lạc Long về ở trong động nước. Dân có việc gì thì kêu to lên rằng: “Bố ở đâu? Lại đây với ta” thì Long Quân lại ngay.”(18)

Câu chuyện trên gây ra những cảnh ngộ ‘buồn cười’ cho các thầy cô giáo dạy sử ở hải ngoại. Một trong những người bạn tôi có con đi sinh hoạt với một đoàn Hướng đạo ở địa phương, huynh trưởng của cháu kể lại câu chuyện Lạc Long Quân lấy Âu Cơ đẻ ra trăm trứng khiến trẻ con thắc mắc.

Những thắc mắc của trẻ là

  • Người tại sao đẻ ra trứng?
  • Rồi trứng lại nở ra người?
  • 100 con trai chia đôi, nửa lên núi, nửa xuống biển thì làm sao truyền giống, sinh sôi nảy nở đến ngày nay?

Huynh trưởng không có câu trả lời minh bạch được hẹn sau khi tham khảo sẽ trả lời ở lần họp tới. Ở buổi họp sau, huynh trưởng đã sửa lại là: thật ra Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra 50 người con trai và 50 người con gái rồi lấy nhau!

Trẻ nhỏ lại thắc mắc, lấy nhau như thế thì loạn luân rồi còn gì nữa?

Tôi không phải trẻ con nên nghĩ có hơi khác một chút.

Theo tôi, việc truyền giống thì loài nào sinh ra vật nấy. Con rồng, tức thuộc loài rắn thì đẻ ra trứng chắc là phải rồi.

Đây là một cuộc hôn nhân dị loại chưa từng xảy ra và có thể đây là lần đầu tiên xảy ra như vậy. Cuộc hôn nhân xem ra có vẻ lén lút, chim chuột không được thừa nhận chính thức, vì dị loại nên đến một lúc nào đó đành phải chia tay.

Viêc chia tay chắc là phải xẩy ra thôi. Cuộc ly dị thời cổ đại này lại dựa trên căn bản pháp lý hiện đại làm nền tảng cho việc phân chia gia tài, phân chia con cái đồng đều cho hai bên khi không có khế ước hôn nhân.

Việc chọn người con trưởng của Âu Cơ làm vua cũng mở đầu cho luật thừa kế sau này vì vậy cũng đã gây ra những cuộc tranh dành ngôi thứ rất là phức tạp trong các triều đại về sau.

Viết tới đây, nghĩ lại, tôi thấy những thắc mắc của con trẻ không phải là vô lý, nhất là chuyện loạn luân.

Lạc Long Quân Sùng Lãm là con của Kinh Dương Vương Lộc Tục, cháu nội của Đế Minh.

Đế Nghi là con Đế Minh, anh của Kinh Dương Vương, sinh ra Đế Lai. Đế Lai sinh ra Âu Cơ.

Lạc Long Quân như vậy đúng là em chú bác với Đế Lai và lại đi lấy cháu Âu Cơ, con gái Đế Lai. Đúng là chuyện loạn luân rồi còn gì nữa.

Hồng Bàng Thế Phổ. Nguồn: DCVOnline

Hồng Bàng Thế Phổ. Nguồn: DCVOnline

Thầy cô trong các lớp dạy Việt ngữ hay huynh trưởng các đoàn thể thiếu niên ở hải ngoại có lẽ đa số không biết chi tiết này, hay nếu biết cũng sẽ không biết kể lại cho trẻ em thế nào hoặc sẽ làm lơ vì ngay chính Ngô Sĩ Liên, sử gia đã đưa “Kỷ Hồng Bàng Thị” vào Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, cũng đã phải ghi một dòng biện hộ ở lời bình dưới phần “Lạc Long Quân”:

“Xét sách Thông Giám Ngoại kỷ (4) nói: Đế Lai là con Đế Nghi; cứ theo sự ghi chép ấy thì Kinh Dương Vương là em ruột Đế Nghi, thế mà kết hôn với nhau, có lẽ vì đời ấy còn hoang sơ, lễ nhạc chưa đặt mà như thế chăng?”

[(4): Thông giám ngoại kỷ: tức phần Ngoại Kỷ của sách Tư Trị Thông Giám (294 quyển) do Tư Mã Quang đời Tống soạn.]

Chúng ta tưởng câu chuyện đùa, đọc giải trí. Không. Đây là một câu chuyện nghiêm chỉnh.

Bởi vậy mỗi trang sử viết ra thì có bấy nhiêu vấn đề. Trước khi kết luận bài viết này, chúng tôi chọn một vấn đề và tạm bỏ quên các vấn đề khác.

Vấn đề tượng binh trong trận Đống Đa giữa Quang Trung và Tôn Sĩ Nghị

Quân đội Khmer tiến hành chiến tranh chống lại người Chăm; Tranh trạm nổi  Bayon-ngôi đền ở Angkor, Campuchia (S phần, E gallery, cuối 12 đến đầu thế kỷ 13)

Quân đội Khmer tiến hành chiến tranh chống lại người Chăm; Tranh trạm nổi ở ngôi đền Bayon ở Angkor, Campuchia (phần S, gallery E, cuối thế lỷ 12 đến đầu thế kỷ 13)

Trong trận chiến thắng lẫy lừng này của Quang Trung, yếu tố làm nên chiến thắng ấy không thể không đề cập đến là vấn đề tiếp liệu và di chuyển.

Một trong những yếu tố ấy được nhiều tác giả nhắc tới là khả năng xử dụng Tượng Binh của Quang Trung.

Voi được dùng để chuyên chở, di chuyển như một gia súc là chuyện bình thường. Nhưng dùng trong việc quân binh thời câu chuyện không phải dễ. Voi phải dược huấn luyện thuần thục như thế nào để khi ra trận trở thành một sức mạnh áp đảo quân địch.

Tác giả Nguyễn Duy Chính là người có viết một bài nhan đề: Từ Tượng Binh đến Voi giầy ngựa xé.(19)

Trong đó ông đặt ra nhiều nghi vấn như việc huấn luyện voi, việc chăm sóc voi mà nhu cầu thực phẩm lên đén 150 kg vừa cỏ, lá cây, v.v.

Dựa trên một tài liệu ngoại quốc của Maurice Collis, một người chuyên môn huấn luyện voi viết như sau:

“Đây là những con vật được đào tạo để theo lệnh lạc một cách hung dữ, sử dụng như một mũi xung kích trong chiến đấu và cũng là một sát thủ giết người bằng cách tung lên, dày đạp, xé nát (đối phương) hồn nhiên như trẻ thơ…”

Ông viết tiếp, voi trận được tuyển lựa kỹ càng trong các voi đực, ngà dài, to lớn, khỏe mạnh và trải qua một chương trình huấn luyện chặt chẽ. Quan trọng nhất là làm sao cho voi không bị kinh hoàng khi nghe tiếng súng.

Ông đặt nghi vấn. Chúng ta không biết quân Tây Sơn điều động tượng binh như thế nào? Ông đưa ra mấy nghi vấn sau đây:

  • “Thứ nhất: Voi di chuyển tương đối chậm, tốc độ đường núi khoảng 1,5 đến 2 dậm/giờ (2,4-3,2 km/giờ), đường phẳng có thể lên đến 3 dặm (5 km/giờ). Voi nếu chở một lượng trung bình thì di chuyển trong khoảng 18-25 dặm (29-40km/một ngày). Tuy nhiên với khoảng cách đó, voi sẽ không đi được lâu ngày vì đau chân. Vì thế, voi trận nếu cần di chuyển đường trường thì không thể di chuyển nhiều hơn 10-12 dặm(16-19km- ngày). Voi tuy khỏe, nhưng cũng chỉ chở được khoảng 300-400lbs (135-180kg). Nếu đi liên tục trong nửa tháng, voi phải được nghỉ một, hai ngày mới lại sức.
  • Thứ hai, voi phải được ăn uống đầy đủ. Một con voi cần khoảng 120-150 kg mỗi ngày chủ yếu là cỏ, lá, rễ cây. Voi không chịu được đói khát, dễ bị kiệt sức nếu bị ép làm việc nhiều và mỗi ngày phải có ít nhất vài giờ thong dong để tìm thức ăn. Voi phải sống gần nơi có nước và vì da có lỗ chân lông và tuyến mồ hôi nên uống rất nhiều. Voi cũng phải tắm hằng ngày vào buổi sáng. 
  • Thứ ba, voi rất nhạy cảm, sợ tiếng động, nên voi trận phải tập luyện để làm quen với súng ống, mặc dầu không ai dám bảo đảm là voi sẽ tuyệt đối tuân lệnh khi lâm trận. Vai trò của nài voi (quản tượng) rất quan trọng, vì voi chỉ tuân theo lệnh của y và nếu nài bị thương hay chết thì rất khó điều khiển.
  • Thứ tư, da voi tuy dày, nhưng lại rất sợ các loài sâu bọ, ruồi muỗi, bị thương cũng khó chữa vì sần sùi. Chân voi không thể đóng móng như móng ngựa và chỉ là một lớp da mềm, dễ bị gai góc làm cho bị thương. […] Theo kinh nghiệm của người Hòa Lan thì voi và ngựa rất kỵ nhau. Ngoài ra, voi lại sợ tiếng lợn kêu và thường hoảng sợ khi nghe lợn eng éc nên có nơi đã dùng lợn để chống với voi.”

Cũng như tác giả Nguyễn Duy Chính, chúng tôi có những nghi vấn khi đặt vấn đề tượng binh của Quang Trung.

1. Voi đời thường

a. Theo tài liệu “Asian Elephant, Elephas maximus”, bản đồ khu vực sinh sống của voi châu Á trích từ Trích thư viện trực tuyến của Sở thú San Diego(20) cho biết voi châu Á gần Việt Nam nhất sinh sống ở Lào và miền bắc Campuchia, Pleiku, Ban Mê Thuột ở Việt Nam, nơi có nhiều rừng già. Phong thổ Việt Nam, nói chung không thuận lợi cho voi sinh sống.

Khu vực sinh sống của voi châu Á. Nguồn:

Khu vực sinh sống của voi châu Á. Nguồn: http://library.sandiegozoo.org/

b. Voi châu Á nặng trung bình 2000-5500 kg. Trong một nghiên cứu về Voi châu Á tại Lahugala Tank, voi đực có chu kỳ hoạt động như sau: 91,1% = ăn, 5,4% = đi bộ, 1,4% = nghỉ ngơi, 1,8% = tắm, 0,1% = uống nước, 0,2% = tất cả các hoạt động khác. Voi ăn, không liên tục, trong suốt 24 giờ; Voi uống thường vào buổi chiều và ngay trước bình minh; voi thường đi đường dài vào ban đêm. Voi uống đến 225 lít nước mỗi ngày. Voi trưởng thành ăn khoảng 150 Kg thực phẩm mỗi ngày. Voi cần muối trong thực phẩm.

c. Voi di chuyển rất chậm trong khi ăn. Voi con có thể chạy khi chơi, voi trưởng thành chỉ chạy khi tấn công. Voi biết bơi, tốc độ 2 km/giờ. Nhưng voi không thể nhảy; ngay một cái hố cạn cũng là một rào cản. Voi cũng không thể phi nước kiệu, đi nước kiệu, hoặc phi nước đại. Voi đi tốc độ đi bộ bình thường khoảng 4-6 km / giờ. Tốc độ tấn công có thể đến 24,5 km / giờ)

2. Voi trận mạc

Thử lấy một câu chuyện sử làm thí dụ phân tích. Người ta thường cho là Quang Trung đại thắng nhờ một yếu tố: tốc độ hành quân.

Xuất quân từ Phú Xuân ngày 25 tháng 11, Quang trung đến Thăng Long ngày 30 Tết và đánh nhau với quân Thanh 6 ngày liên tiếp và đại thắng, chiếm Thăng Long vào chiều mồng 5 Tết Kỷ Dậu. Tóm lại cuộc hành quân của vua Quang Trung kéo dài 40 ngày, từ 25 tháng 11 Mậu Thân (22/12/1978) đến 5 tháng Giêng, Tết Kỷ Dậu (30/01/1789).

Chưa kể tới tiếp liệu cho binh sĩ, khối hậu cần cho chiến dịch Ngọc Hồi-Đống Đa năm 1789 cần có và phải vận chuyển

  • 150 Kg (rễ cây, trái cây và vỏ cây)/ngày  x  40 ngày  x  100 = 600.000 Kg hay 600 tấn thực phẩm
  • 225 L (nước)/ngày  x  40 ngày  x  100 = 900,000 lít hay 900 tấn nước.

Để dễ hình dung, dưới đây là một xe chở nước có dung tích 11,356 lít.

Xe chở chất lỏng khoản dung tích 3000 US gal. Nguồn:  Abbey

Xe chở chất lỏng khoản dung tích 3000 US gal. Nguồn: Abbey

Tốc độ hành quân

25 tháng 11 từ Phú Xuân đến 29 tháng 11 quân cuả Nguyễn Huệ đã đến Nghệ An. Theo đường chim bay trên bản đồ Google Maps, Phú Xuân cách Nghệ An khoảng 318 Km. Như vậy mỗi ngày đoàn quân Bắc Tiến đi được gần 80 Km (318 Km / 4 ngày = 79, 5Km).

Đoạn đầu chiến dịch Ngọc Hồi-Đống Đa. Nguồn: DCVOnline

Đoạn đầu chiến dịch Ngọc Hồi-Đống Đa. Nguồn: DCVOnline

Trong chiến dịch 1789 này có lẽ binh tướng của Nguyễn Huệ đều phải ngủ ngày vì voi chỉ di chuyển đường dài về đêm; 100 thớt voi của Nguyễn Huệ, nếu chỉ di chuyển 8 tiếng về đêm (bình thường voi chỉ đi bộ 1 giờ 20 phút mỗi ngày với vận tốc trung bình 5 Km/giờ) thì đoàn tượng binh này phải chạy với vận tốc gần 10 Km/giờ, không ăn, không uống. Dù có được chích steroids, chiến đoàn thiết giáp này cũng sẽ lăn đùng ra chết vì kiệt lực trước khi tới vĩ tuyến 17. Đó là chưa bàn tới chuyện “đại bác chở bằng voi mà xông vào trận”.(21)

Tác giả Nguyễn Duy Chính qua bài viết Từ Tượng Binh đến voi giầy ngựa xé đã giả thiết rằng đã có thể điều động đàn voi ra trận theo đúng lộ trình và ngày giờ đã quy định theo kế hoạch của Quang Trung. Nhưng ông không giải quyết dứt khoát được cuộc di chuyển voi từ Thuận Hóa ra tới Hà Hồi thì ‘giải pháp dùng Binh Tượng’ của Quang Trung như một sáng kiến thần kỳ về tài dùng binh của Quang Trung sẽ được biện luận như thế nào?

Nhân đây cũng đặt thêm một nghi vấn về chiến thuật dùng ván gỗ đắp rơm làm khiên che chắn của Nguyễn Huệ như tác giả Phù Lang Trương Tấn Phát đã đề cập trong TSSĐ số 13, Kỷ niệm chiến thắng Xuân Kỷ Dậu:

“Vua Quang Trung truyền lấy 60 chục tấm ván, ghép liên ba tấm làm một bức, tất cả là hai chục bức, dùng rơm xấp nước bện vào rồi kén hạng lính khỏe tợn, giao cho 10 người phải khiêng một bức, mỗi người đều vác một thanh đoản đao, mỗi bức lại cho hai chục người nữa cầm các binh khí đi theo.”

Khiên che đủ cho 20 người xếp hàng ngang (chữ nhất) ít nhất phải rộng 24 bộ (feet) cao 4 bộ tức là ba miếng 4’x8′ ghép lại. Chưa kể rơm và đất đắp, mỗi tấm khiên này đã nặng khoảng 90 Kg, nếu là ván ép. Nếu là gỗ lim thì chuyện gì đã xẩy ra?

Cưa (máy) nào đã giúp Nguyễn Huệ đốn gỗ rừng (ở đâu) làm thành 60 tấm ván (4’x8′) trên đoạn đường gần 600 Km Từ Phú Xuân đến Thăng Long.

Người viết tin chắc rằng hồi đó Home Depot chưa mở cửa. Xin để tùy bạn đọc nhận định và tự trả lời.

© 2016 DCVOnline Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


Nguồn: Bài và chú thích của tác giả. DCVOnline hiệu đính và minh họa. (1) Cao Xuân Huy, NXB Văn Hoc, Hà Nội 1994. (2) Le Minh Khai, “Discourses, Vietnamese Intellectuals and the Changing History of the Sino-Vietnamese Relationship”, Le Minh Khai’s SEAsian Blog, 18 jun 10. (3) Trần Quang Đức, “Ngàn Năm Áo Mũ”, NXB Nhã Nam, 2013, trang 353-4. (4) Tạ Quang Phát phiên dịch, TSSĐ, số 13, 1969- Kỷ niệm chiến thắng Đống Đa.. Tài liêu nay được trích dẫn từ các số Nam Phong, số 177, phụ truiong Hán Văn, 1932, trang 20 và Nam Phong, 1926, phụ truong phàn Hán Văn, số 11. (5) Dịch giả Hồ Bạch Thảo, Thanh Thục Lục | Sử liệu chiến tranh Thanh – Tây Sơn. (6) Hồ Bạch Thảo, Ibid., trang Phàm Lệ. (7) Hoàng Lê Nhât Thống Chí do nhiều người viết mà hiện nay bản gốc không còn. Còn lại chỉ là những bản viết tay. (8) Trần Ngọc Ninh, “Tuyết Xưa”, nxb Khởi Hành. (9) Trần Ngọc Ninh, Ibid., trang 281. (10) Trần Ngọc Ninh, Ibid, trang 103. (11) Lịch sử Việt Nam, tập II, trang 14. (12) Trần Ngọc Ninh, Ibid., trang 187. (13) Trần Ngọc Ninh, Ibid., trang 196. (14) Vũ Ngự Chiêu, “Nhìn lại chiến thắng xuân Kỷ Dậu”, Hợp Lưu, Hoàng Đỗ Vũ, ngày 5-2- 2015, Họp Lưu (15) Đặng Phương Nghi, Triều đại Tây Sơn dưới mắt các nhà truyền giáo Tây Phương, Tập San Sử Địa, số 9-10, Số đặc biệt Xuân Mậu Thân, 1968, trang 143 (16) Nguyễn Nhã, TSSĐ số 13, Kỷ niệm chiến thắng Xuân Kỷ Dậu, 1968 (17) Lê Quý Đôn, bài tựa Đại Việt Thông sử, NXB Khoa Học, Xã Hội, Hà Nội, 1978. (18) Ngọ Phong Ngô Thời Sỹ, “Việt sử tiêu án” (1775), Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu dịch (1960), NXB Văn Sử (1991), Công Đệ, Doãn Vuợng, Lê Bắc chuyển sang ấn bản diện tử (2001). Trang 4. (19) Bài viết có thể chưa được đăng trên báo, nhưng có gửi cho một số bạn hữu của ông. Tháng 2-2005 (20) “Asian Elephant, Elephas maximus”July 2008, http://library.sandiegozoo.org/ và Robin C. Dunkin, Dinah Wilson, Nicolas Way, Kari Johnson, Terrie M. Williams, “Climate influences thermal balance and water use in African and Asian elephants: physiology can predict drivers of elephant distribution”. Journal of Experimental Biology 2013 216: 2939-2952; doi: 10.1242/jeb.080218 (21) Trần Gia Phụng, “Nhà Tây Sơn”, NXB Non Nước, Toronto 2005, Trang 127-131.

 Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline

 

28 Tháng Tám 2015(Xem: 17857)
Liệu Đế quốc Trung Cộng có "may mắn" thoát được số phận tan vỡ ra từng mảnh hay không và phe nào sẽ thắng thế trong cuộc tranh chấp quyền lực đẩm máu ?
07 Tháng Ba 2015(Xem: 43244)
Và mặc dầu còn có những bất cập đủ thứ, tôi vẫn phải nhìn nhận rằng, những năm tháng còn lại, kể từ ngày ấy, mỗi giây phút năm tháng sống, học hành, lớn lên thành người thời đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam vẫn là những năm tháng ân sủng cho tuổi trẻ của tôi và những bạn bè cùng trang lứa.
27 Tháng Hai 2015(Xem: 19642)
Luận đề của "Đoạn Trường Tân Thanh" hiển nhiên là thuyết "tài mệnh tương đố"", gọi nôm na là "hồng nhan bạc mệnh".
24 Tháng Giêng 2015(Xem: 27201)
Phần người viết nhìn bức hình cũ kỹ đã gần nửa thế kỷ với tâm trạng đầy... xúc động. Bởi vì đúng như ông bà mình thường nói rằng nghe cả hàng ngàn lời nói đọc cả hàng vạn chữ viết mô tả cũng không sao bằng...
28 Tháng Mười Một 2014(Xem: 22238)
Sức mạnh của chúng ta là phải biết họ là ai và cho họ biết chúng ta là ai? Sau đó phải biết cất lên tiếng nói. Nói thì sống, không nói thì chết.
14 Tháng Mười Một 2014(Xem: 29812)
Vào ngày chủ nhựt qua mùng 9 tháng 11 , nước Đức và Âu Châu đã ăn mừng kỷ niệm 25 năm Bức Tường Bá Linh Sụp Đỗ (1989 - 2014) .
11 Tháng Chín 2014(Xem: 38243)
Viết cho Nguyễn Xuân Hoàng - người bạn đã một thời cùng chung dưới mái trường của Platon, hiện đang ở bên bờ tử sinh.
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 36952)
Đọc sách báo ngày nay viết về cái chết của Hai Bà Trưng tôi hay bị "tẩu hỏa nhập ma" và phân vân tự hỏi: Hai Bà Trưng chết kiểu nào?
28 Tháng Sáu 2014(Xem: 30958)
• Việt Nam trong thế kỷ 20 vừa qua có ba điều bất hạnh xảy ra trùng hợp:... Trong ba cái bất hạnh ấy, cái thứ ba là nguy hiểm và tồi tệ nhất.
23 Tháng Tư 2014(Xem: 21943)
Gabriel Garcia Marquez, 87 tuổi, văn hào người Colombia nổi danh khắp thế giới với tác phẩm “Trăm Năm Cô Đơn,” qua đời hôm Thứ Năm 17 tháng 4, 2014, tại Mexico City, nơi ông đã sống 30 năm cuối đời.
20 Tháng Ba 2014(Xem: 39139)
Với khuôn khổ một tờ Kỷ Yếu có tính cách nội bộ như tờ đặc san này, những dòng “Vẻ Vang Dân Ngô Quyền” (mượn chữ của ký giả Trọng Minh) cũng có thể được hiểu như một sự chia sẻ chút niềm hãnh diện “giống nòi” giữa chúng ta,
02 Tháng Ba 2014(Xem: 16345)
Ôn lại Lịch Sử nước ta với hơn 4000 năm từ Họ Hồng Bàng với truyền thuyết con Rồng Cháu Tiên qua chương trình "Việt Nam Quê hương tôi" vào mỗi tuần với Phương Anh
27 Tháng Hai 2014(Xem: 39928)
Mới đây đọc báo Reader’s Digest thấy người ta nói đến những ích lợi của cái CƯỜI, trong đó có nói là cười nhiều có thể làm cho người ốm bớt đi. Lý do gì mà các nhà khảo cứu lại quả quyết như vậy?
31 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 14160)
Không kể những cuộc xâm lấn nhỏ, đã có 13 lần phương Bắc xua đại quân xâm lấn phương Nam, đặc biệt Việt Nam. Nhưng trong tất cả 13 lần đó, Dân Việt đều đại thắng các đoàn quân Phương Bắc. Đã mười ba lần, Dân ta đại thắng !
21 Tháng Mười Một 2013(Xem: 50715)
Nguyễn Chí Thiện và Nguyễn Đắc Kiên. Hai nhà thơ. Hai thế hệ- Hai hoàn cảnh một từ trong cảnh tù đầy 27 năm cộng lại tại miền Bắc- một trong hoàn cảnh đất nước đã độc lập với tư cách nhà báo-.
13 Tháng Sáu 2013(Xem: 29069)
Có nhiều hình thức phản biện lại một xã hội tùy theo hoàn cảnh mỗi người và tùy hoàn cảnh xã hội và ngày nay tùy thuộc vào tình hình thế giới nói chung.
30 Tháng Tư 2013(Xem: 31567)
Chúng ta hy vọng rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong tiết lộ những bí ẩn về biến cố 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực
19 Tháng Tư 2013(Xem: 91035)
Trong tầm mắt của tôi thì Tây Nguyên là một Amazon của Việt Nam thu nhỏ lại về mọi mặt. Về mặt lịch sử, nó là di sản của con người Tây Nguyên từ bao đời nay...
06 Tháng Tư 2013(Xem: 70559)
Đọc xong tập sách mỏng, gấp sách lại, tôi cảm thấy một cái gì nhẹ nhõm len vào tâm hồn. qua những dòng tâm bút của một cô gái trẻ..
29 Tháng Ba 2013(Xem: 96286)
Chắc chắn và không thể chối cãi được sự có mặt trong Hoàng Cung của Bà đã thay đổi bộ mặt Hoàng Cung. Nhưng điều quan trọng hơn cả, Bà trở thành biểu tượng, mẫu hình lý tưởng ...
22 Tháng Ba 2013(Xem: 103474)
Phạm Duy là một con người, như mọi người. Ông đã sống tận cùng đời sống của ông, ông đã hiến tận cùng những gì ông có trong trái tim ông và thân xác ông.
30 Tháng Giêng 2013(Xem: 139866)
Nhưng câu hỏi cuối cùng được đặt ra: từ đâu Nguyễn Tất Nhiên lại có tánh lãng mạn đa tình quá vậy để dễ dàng "phóng bút" sáng tác thơ tình cho nhiều nhân vật nữ?.
25 Tháng Giêng 2013(Xem: 154255)
Mới đây, tôi có dịp đọc cuốn ''Bên thắng cuộc'' của Huy Đức do một người bạn trẻ- giáo sư đại học ở Canada- với lời giới thiệu khá nhiệt tình- :Đọc cuốn này chưa? Rất hay, còn nóng hổi.
29 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 120925)
Hầu hết những bé gái sinh ra đều quấn trong một tấm tã... Nhưng có những bé gái ra đời được quấn trong tã bọc điều, biểu tượng của giàu sang phú quý.
08 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 159896)
Xin gởi đến quý vị lời chia sẻ của một triệu phú 40 tuổi là bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ, bị ung thư phổi thời kỳ 4, về kinh nghiệm sống của mình vào ngày 19/1/2012. Anh qua đời vào ngày 18/10/2012.
31 Tháng Mười 2012(Xem: 149166)
Kể từ đó, miền Bắc không có văn học nữa. Đảng qua Tố Hữu, Trường Chinh đã chôn sống các nhà văn như chôn sống địa chủ.
27 Tháng Bảy 2012(Xem: 165172)
Nhưng nói chung, ngồi chuyện ăn uống cẩn thẩn, tập thể dục hàng ngày, chúng ta cần giữ được cho tinh thần thoải mái, ít lo phiền, biết nghỉ ngơi, biết đủ, là thấy mình đi trên con đường tới hạnh phúc.
16 Tháng Bảy 2012(Xem: 158009)
Bài Văn Tế sau đây do cố Kiến Trúc Sư Đỗ Hữu Nam (vừa mệnh chung ngày 13 tháng 7 năm 2012, tại Biên Hòa) viết và đọc nhân ngày Sinh Hoạt Truyền Thống của nhóm Cựu Học Sinh Phan Chu Trinh, để thành kính dâng lên các vị Thầy đã khuất.
19 Tháng Năm 2012(Xem: 160427)
Bài viết sau đây của tôi là để chỉnh sửa và bổ túc thêm thêm vào một bài viết trước đây về Phạm Duy. Đó là bài Phạm Duy còn đó hay đã chết?
04 Tháng Năm 2012(Xem: 168962)
Đây là, chẳng phải ai khác, mà là những người di tản, những rác rưởi 37 năm trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?
03 Tháng Năm 2012(Xem: 164366)
Những ngày đầu tiên đi dạy trường trung học tráng niên Ventura, tham dự những sinh hoạt khác lạ của học trò Mỹ, tôi không khỏi so sánh với những ngày tôi còn dạy ở Việt Nam.
23 Tháng Tư 2012(Xem: 27720)
Sự bộc phát hình như là một định mệnh, không thể ngờ trước được, khi tập Thiên Tai ra đời năm 1970 lúc Nguyễn Tất Nhiên vừa 18 tuổi, bỗng nhiên tên tuổi Nguyễn Tất Nhiên bừng vỡ một cách ngoạn mục.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 42802)
Triết lý giáo dục tìm ở đâu ra? Thưa nó nằm ngay trong bộ Sách Dân Tộc, gọi là KINH ĐIỂN tức là Lĩnh nam Trích Quái, Việt Điện U Linh, Ca dao tục ngữ, Tứ Thư Ngũ Kinh.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 44066)
Tôi rời mái trường đại học Đà Lạt để “xuống núi” hành hiệp giang hồ vào giữa năm1963. Năm với nhiều biến động nhất thời tuổi trẻ của tôi. Vậy mà nay đã ngót nghét non nửa thế kỷ trôi qua.
15 Tháng Tám 2010(Xem: 39437)
Nguyễn Văn Lục không là sử gia, không là học giả, không là nhà văn và cũng không bao giờ là chính khách nên không thể quy cho tác phẩm của ông bất kỳ tính chất nào liên quan đến các chức danh đó.
28 Tháng Năm 2010(Xem: 30135)
Phải nói rằng thơ Nguyễn Tất Nhiên là một đóng góp hồn nhiên vào đời sống thi ca của chúng ta, mặc dù chữ nghĩa trong thơ anh - nhiều bài - vẫn còn ở thể quặng mỏ của ngôn ngữ. Nó là một thứ nham thạch ròng chưa bị tính bác học của ngoại lai xâm nhập, thẩm thấu và tác hại như một vài dòng thơ Việt Nam đã và đang chảy ra trong thi ca chúng ta.
06 Tháng Ba 2010(Xem: 43303)
Viết bài này, người viết bày tỏ ở đây một sự nuối tiếc là: Bài viết của nhà thơ Du Tử Lê về Nguyễn Tất Nhiên đã không nói lên được tính chất phối hợp đến kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc. Đó là điều quan trọng nhất cần được nói tới.
18 Tháng Hai 2010(Xem: 87367)
Xuân Con Cọp lại sắp đến rồi. Mà ở cái nơi "phong trần luân lạc" nầy, Tết nhất cũng chả có gì vui. Thôi thì xin mời bạn cùng tôi nhâm nhi dăm ba câu thơ cũ, để gọi là tạm "mua vui" trong khoảnh khắc chờ đợi đón giao thừa nơi xứ lạ.
25 Tháng Giêng 2010(Xem: 97556)
Tôi nhớ câu nói của một ông anh trong vùng tôi đang sống, rằng sau khi hoàn tất một công việc, bao giờ người ta cũng thấy hai túi áo chứa đầy những lời cảm tạ và những lời xin lỗi.
06 Tháng Mười Một 2009(Xem: 67340)
Chủ nhật, ngày 6 tháng 9 năm 2009 vào lúc 1 giờ trưa, Hội An Việt tại Vương Quốc Anh đã tổ chức Đại Lễ Kỷ Niệm 30 Năm Người Việt Tị Nạn Đến Anh Quốc. Buổi lễ dưới sự chủ toạ của ông Vũ Khánh Thành, cựu Giáo Sư Trung học Ngô Quyền, Biên Hòa, Giám Đốc Sáng Lập và Điều Hành Hội An Việt, Nghị Viên Thành Phố Hackney;
25 Tháng Sáu 2009(Xem: 93336)
Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy. Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ. Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.
23 Tháng Năm 2009(Xem: 32667)
Trong đại gia đình Ngô Quyền hầu như ít nhiều ai cũng biết đến Thầy Vũ Khánh Thành. Thật vậy, ngoài lãnh vực giáo dục, từng là Giáo sư dạy môn Triết học tại trường Ngô Quyền chúng ta năm xưa. Từ lúc định cư tại Anh Quốc đến nay, Thầy không ngừng tích cực dấn thân hoạt động trên bình diện xã hội, văn hóa và chính trị cho cộng đồng Việt Nam tại đây.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 78096)
  Riêng dòng sông Đồng Nai, với nguồn nước thanh khiết từ trên thượng nguồn đổ xuống, đã tạo nên một môi trường sống cho người dân tỉnh Biên Hòa và các tỉnh lân cận.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 74571)
Bài sưu tầm này được viết vào tháng 4 năm 2004, tức là 48 năm sau ngày trường Ngô Quyền được thành lập vào năm 1956, và chỉ được căn cứ vào trí nhớ của các ông Phan Thanh Hoài, Kiều Vĩnh Phúc, Lê Hồng Sanh, và cựu học sinh Đào Văn Công (khóa đầu tiên). Do đó, không khỏi thiếu sót về thành phần nhân sự giảng dạy, văn phòng v.v…
05 Tháng Hai 2009(Xem: 39367)
  Trường Trung Học Ngô Quyền được điều hành bởi một Ban Giám Đốc, đứng đầu là Hiệu Trưởng
04 Tháng Hai 2009(Xem: 39781)
Dĩ nhiên, đám học trò chúng tôi thích lắm, vì ý tưởng lạ đó không tìm thấy được trong Việt Nam Sử Lược của sử gia Trần Trọng Kim hay trong Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 47220)
Một cuộc biển dâu, đổi đời, tang thương đã diễn ra quá nỗi bi đát. Biên Hòa còn đó, mà lòng Biên Hòa đã mất tự bao giờ. Nay tuổi đời đã cao, nghĩ đến thời son trẻ, mà ngậm ngùi tiếc nuối quá khứ. Công đã tạm thành, danh đã tạm toại, nhưng tâm hồn tôi vẫn ngậm ngùi nhớ tiếc những phút giây hạnh phúc đầu tiên, đã qua mất rồi.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 46356)
Những ngày xa quê hương, lưu lạc xứ người, bận biụ với cuộc sống, tôi luôn luôn nhớ về quê nhà, nhớ về xứ Cù Lao với dòng sông Đồng Nai yêu dấu; gần đây tôi có tìm đọc thêm về xứ Đồng Nai thuở ban sơ cùng sự nghiệp khai sáng miền Nam của Ngài Nguyễn Hữu Cảnh. Nay tôi xin ghi lại những sự kiện, kiến thức tìm học đựơc bằng tấm chân tình cuả người con đất Cù Lao Phố, Đồng Nai.
01 Tháng Mười Một 2008(Xem: 146997)
Ngô Quyền ( chữ Hán : 吳權 ; 898 – 944 ) là một vị tướng và sau này là vua Việt Nam, là người sáng lập ra nhà Ngô . Năm 938 ông cầm quân đánh tan quân xâm lược Nam Hán tại sông Bạch Đằng,
26 Tháng Năm 2008(Xem: 23426)
Nếu không tính nền giáo dục duới thời phong kiến thì Truờng tiểu học Nguyễn Du, Truờng trung học Ngô Quyền, Truờng bá nghệ Biên Hòa là những ngôi truờng đầu tiên trên vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai.