Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7b - phần 1)

22 Tháng Sáu 20161:29 CH(Xem: 18937)
GS. Nguyễn Văn Lục - Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7b - phần 1)

Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7b - phần 1)


vua_gialongMột vài dẫn chứng trên đây không đủ cho phép bà Thụy Khuê gán ghép cho Tạ Chí Đại Trường cóp nhặt và chịu ảnh hưởng của một số sử gia Tây phương trên toàn bộ cuốn sách của ông.

(Tiếp theo phần 7a)

Bá Đa Lộc. Nguồn: Tao-Kim-Hai, “L'indochine Francaise depuis Pigneau De Behaine”, 1939

Bá Đa Lộc. Nguồn: Tao-Kim-Hai, “L’indochine Francaise depuis Pigneau De Behaine”, 1939

Việc truy tìm sự kiện lịch sử trở thành khó khăn, bởi vì sự kiện lịch sử không phải bao giờ cũng là cái xuất hiện mà là cái không lộ diện, cái che dấu, cái động lực ngầm. Chẳng hạn nói “Phò Lê, Diệt Trịnh” đã chắc gì đúng như thế! Hay chỉ là cái cớ “chính nghĩa” để che đậy mưu đồ không nói ra.

Người viết sử đôi khi phải đi con đường vòng, tìm lại cái nẻo khuất để hiểu tại sao sự việc nó lại như thế, tại sao tác giả lại viết như thế và tại sao không viết như thế.

Lịch sử là đi tìm cái tại sao, cái nguyên do, cái không lộ diện.

Về điểm này, tôi có những nhận định trái với bà Thụy Khuê về cách viết của ông Tạ Chí Đại Trường(11)

Trở lại những lá thư của Nguyễn Ánh viết bày tỏ tâm sự với Bá Đa Lộc. Những lá thư ấy với lối hành văn cổ không mấy dễ đọc.

Những lá thư ấy đã được cố đạo Cadière sưu tập được và chú giải.

Công thu tập tài liệu đứng về mặt sử liệu là công khó nhất, không dễ mấy ai cũng làm được!

Tạ Chí Đại Trường viết,

“Đáng chú ý hơn, chính là thư của Nguyễn Ánh viết ra trong lúc còn lưu vong hoặc mới tái tạo cơ đồ, chưa vững vàng bề thế, khiến chúng ta thấy rõ con người ông hơn, con người mà các sử quan tả bằng những sáo ngữ với những hình ảnh ý niệm dành cho các bậc vua chúa Đông phương ‘thông duệ túc thành’ ‘phước mạng đế vương’ đến qua sông có cá sấu đưa đi, giặc đuổi có cây ngã chặn đường phía sau.

Đọc thư, chúng ta thông cảm với một thường nhân lênh đênh lao khổ thốt lời chua chát với số mệnh đắng cay, một người bạn thành thực chí tình, một người cha thương nhớ con xa cách trong khi day dứt chưa làm tròn bổn phận với dòng họ, tổ tiên.

Chính tính chất có liên lạc mật thiết với cá nhân một nhân vật lịch sử quan trọng này mà sử liệu đưa ra có thể liệt vào hàng quan trọng.”(12)

Đó, công việc mà Tạ Chí Đại Trường đã thực hiện, phải chăng là công việc của sử gia?

Hãy đọc thêm hai tài liệu.

1. Bài chí viết bằng chữ Nôm ở lăng Bá Đa Lộc, do Đốc học Nguyễn Gia Cát soạn và Hữu tham tri bộ binh Lê Quang Định viết chữ, dựng bia vào tháng 8 năm Canh Thân 1800 theo lệnh của Nguyễn Ánh:

“- Đức Thầy vốn người nước Đại Pháp, tên Bi Nhu, hiệu Bá Đa Lộc, tu học đạo Thiên Chúa giáo từ nhỏ nhưng mọi kinh điển thánh hiền Trung Quốc đều thông thạo. Thuở trẻ đến nước ta, gặp lúc có nhiều nội loạn, đức thầy nhận lời làm quốc khách, đem tài năng ra thi thố, khuông phò giữa buổi nghiêng ngửa hiểm nguy. Lại vâng trọng trách giao phó xuất ngoại cầu viện binh, đi về vất vả nhọc nhằn gần kiệt lực. Suốt hơn 20 năm bày kế sách tham mưu, góp ý kiến bình định, thành tích xây dựng vẻ vang ấy rất xứng đáng lưu truyền hậu thế. Vận nước dần dần được khôi phục, phần lớn đếu nhờ công lao của đức thầy.

– Năm Kỷ Mùi (1799), khi theo quân ra đánh phủ Quy Nhơn, đức thầy mất ngày 11/9 (âm lịch) tại cửa biển Thi Nại, hưởng thọ 57 tuổi. Tháng 10 được phong tặng Thái tử Thái phó quận công, an táng ở nhà nguyện cũ của đức thầy tại phía bắc thành Gia Định. Nhân thế mới làm bài chí.

Dựng bia ngày lành tháng 8 năm Canh Thân (1800).
Đốc học Hoa Xuyên hầu Nguyễn Gia Cát vâng mệnh soạn.
Hữu tham tri bộ binh Định Thành hầu Lê Quang Định vâng mệnh viết.”

(Nguồn: Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết, “Bài Văn Bia ở Lăng Đức Cha Cả Bá Đa Lộc”)

2. Bài văn tế Bá Đa Lộc của vua Gia Long trích lại trong bài về “Cuộc giảng-diễn về hai bài văn tế của Quan Thượng Giáo dục Phạm Quỳnh” đăng trên Phụ trương Báo Tràng An, số 70, trang 1, 29 tháng Mười, 1935.

Nguồn: Thư viện Quốc Gia Việt Nam | DCVOnline

Nguồn: Thư viện Quốc Gia Việt Nam | DCVOnline

Bởi Gia Long – 1799 document. Reproduction in Mantienne "Monseigneur Pigneau de Behaine"., Phạm vi công cộng, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=4812406

Điếu văn của Gia Long – 1799 document. Reproduction in Mantienne “Monseigneur Pigneau de Behaine”, Phạm vi công cộng, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=4812406

Trong bài “gỉang-diễn về hai bài văn tế” Phạm Quỳnh cũng đã dẫn Charles B. Maybon, ông viết,

“Nhà sử học Maybon có nói, ‘Trong mười năm ở xứ Nam kỳ, Đức cha vừa là Binh-bộ và Ngoại giao bộ Thượng thơ của Đức Gia-Long. Mọi việc hành động của ngài đều đã có bàn bạc trước với Đức cha cả những thơ từ của ngài gởi cho các quan thủ hiến Phi-luật-Tân, Macao, Bengale, cho vua Hồng-mao, vua Đan-mạch cũng vậy, đều do tay Đức cha thảo cả.”

Không thấy bà Thuỵ Khuê gọi Phạm Quỳnh là “Quan Thượng Giáo dục ‘thuộc địa’ hay ‘thực dân’” trong bài khảo sát của bà.

Còn vua Gia Long, với lời lẽ trong văn tế Bá Đa Lộc như trên, ông là cái gì? “Vua thuộc địa” hay “Vua của thực dân”?

Và nếu bà Thụy Khuê đọc kỹ những lá thư đó và những tài liệu thượng dẫn có lẽ bà sẽ có một quan điểm nhìn trung thực và chia sẻ hơn về Bá Đa Lộc. Và điều quan trọng, bà mới hiểu được mối liên hệ giữa hai người hầu như có chung một số phận? Tại sao Nguyễn Ánh không viết những lá thư này cho một người khác như Lê Văn Duyệt?

Công việc này, theo thiển ý, sử gia Tạ Chí Đại Trường trong “Lịch sử nội chiến ở Việt Nam” của ông đã lý giải được nhiều điều bên lề, tưởng như vô tích sự như cuộc cãi vã giữa De Conway và Bá Đa Lộc ở Pondichéry.

Qua cuộc đấu trí ấy, tôi đánh giá được một điều quan trọng: tài trí và sự biến báo của Bá Đa Lộc trong những tình trạng tưởng như tuyệt vọng. Tôi cũng hiểu được tình thế lúc bấy giờ chưa hẳn ngã ngũ, còn năm bè bẩy mối, đã có mầm mống của sự loại trừ dần — như một cuộc đào thải tự nhiên để chỉ còn lại hai đối thủ cho hồi chung cuộc. Đó là Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh.

Sự chọn lựa và quyết định lúc đầu của Bá Đa Lộc có thể chỉ là do hoàn cảnh ngẫu nhiên. Nhưng lúc ở Pondichéry thì không còn hẳn là như vậy.

Cán cân quyền lực nghiêng về phía nào tùy thuộc vào con bài tẩy của họ là ai? Bá Đa Lộc là lẽ tất thắng với kẻ nào sử dụng được ông.

Vì thế, khi đọc nhận xét của bà Thụy Khuê đánh thấp vai trò Bá Đa Lộc, tôi cho là một sự đánh giá hời hợt khi nhận xét về người và sự việc.

Không phải vô lý mà Tạ Chí Đại Trường đánh giá cao con người Bá Đa Lộc.

Theo Tạ Chí Đại Trường, mối quan hệ giữa họ phải như thế nào, phải đặc biệt để Nguyễn Ánh bày tỏ tâm sự của mình, những tâm sự thầm kín nhất, phải là người ở trong vòng thân tín nhất.

Đôi khi Bá Đa Lộc phải là chỗ tựa của Nguyễn Ánh.

Bá Đa Lộc đâu có phải thuộc loại hoạn quan, tối ngày quỳ dưới trướng vâng dạ bảo vâng, túc trực bên cạnh vua để phỉnh phờ!

Có một trăm loại quan đó cũng chẳng ích lợi gì cho sự nghiệp thống nhất đất nước của Nguyễn Ánh cả.

Cho nên đánh giá cái công của Bá Đa Lộc đối với Nguyễn Ánh không phải chỉ vỏn vẹn là mấy chiếc tầu đồng, mấy khẩu đại bác. Cái đó cũng tốt. Nhưng chỉ nghĩ đến sự giúp đỡ vật chất giữa Bá đa Lộc và Nguyễn Ánh thì hạn hẹp quá.

Sự giúp đỡ vật chất của Bá Da Lộc chưa đủ xây dựng một sự nghiệp lâu dài cho Nguyễn Ánh.

Công lớn nhất của Bá Đa Lộc là biết đưa ý kiến, biết can đảm có lời khuyên can, biết mở mắt cho Nguyễn Ánh ngay cả cách sử sự ở đời, biết sử dụng kỹ thuật trong việc đóng tầu đồng, biết việc xây thành kiên cố, biết việc huấn luyện binh sĩ, biết dùng các loại thuốc nổ.

Nhưng điều này đã được Borrow diễn tả đầy đủ.

Bản thân Bá Đa Lộc là một nhà tu hành, ngay việc xử dụng một cây súng hẳn cũng chưa hề biết.

Trên:  Chiến thuyền Ville de Paris in Rochefort, 1764 Nguồn: Tác giả nặn danh - Europeana, domaine public, Public Domain, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=20944788. Dưới:  Chiến thuyền của cướp biển Tầu đầu thế kỷ 19 ở Quảng Đông. Nguồn: http://www.greendragonsociety.com/. Cướp biển Trung Hoa là một phần lực lượng của Tây Sơn.

Trên: Chiến thuyền Ville de Paris in Rochefort, 1764 Nguồn: Tác giả nặn danh – Europeana, domaine public, Public Domain, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=20944788.
Dưới: Chiến thuyền của cướp biển Tầu đầu thế kỷ 19 ở Quảng Đông. Nguồn: http://www.greendragonsociety.com/.
Cướp biển Trung Hoa là một phần lực lượng của Tây Sơn.

Vấn đề là ông biết cung cấp các tài liệu – ai dịch là chuyện nhỏ – dịch các tài liệu về cách đóng tầu, cách xây thành trì như các thành Gia Định, Diên Khánh; chuyện còn lại, ai xây, xây thế nào – đôi khi chỉ cần xây một thành mẫu đầu tiên. Các thành sau cứ thế mà bắt chước, đâu còn là câu chuyện khó khăn nữa?

Vấn đề đặt ra đối với tôi ai xây cũng không mấy quan trọng, nhưng ai là người đưa ra bản hoạ đồ xây cất, ai là người vẽ họa đồ? Và hơn thế nữa là tìm hiểu xem các thành ấy có khác với các thành cũ không?

Nó khác ở chỗ nào? Trên thực địa, tại sao quân Tây Sơn do Trần Quang Diệu vây hãm mãi mà không phá được thành Diên Khánh?

Nhưng điều thứ hai không kém quan trọng là phải có một Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh là một vị vua hiểu biết, thông minh, trì chí, chịu khó học hỏi, tìm tòi thêm.

Đã có một Bá Đa Lộc thì phải có một Nguyễn Ánh. Thiếu một trong hai là chuyện không thành.

Nguyễn Ánh chịu học hỏi, mua tàu cũ của Tây Ban Nha, mang về, tháo ra từng mânh, học cách lắp ráp, cách thiết kế, cách vận hành. Có hàng trăm chi tiết kỹ thuật phải nhờ đến sự chỉ dẫn của đám chuyên viên người Pháp.

Đã có nhiều đoạn văn mô tả lại chân dung Gia Long như trong Sử Ký Đại Nam Việt, của Shinoken Seishi, của Chaigneau, của Le Labousse và của Barrow. Tất cả nói chung đều đã được bà Thụy Khuê trích dẫn đầy đủ. Các tài liệu ấy đều đưa ra những lời khen ngợi về tài trí, đức độ, sự khôn ngoan của Nguyễn Ánh.

So với địch thủ số một của ông là Tây Sơn Nguyễn Huệ, lúc đương thời nào đã có mấy ai viết được như thế về Tây Sơn? Người ta biết Tây Sơn ở mặt nổi như tài dùng binh, một thiên tài quân sự. Và Đống Đa là tuyệt đỉnh của Tây Sơn.

Một người lãnh đạo đất nước chắc cần nhiều đức tính hơn thế nữa. Phải trí dũng song toàn. Một trong những đức tính tôi cho là rất quan trọng: Nguyễn Ánh là người biết nghe theo lời khuyên của Bá Đa Lộc.

Ông bớt tàn bạo, hẳn là do lời khuyên của Bá Đa Lộc? Không chỉ biết cai trị bằng roi kiếm mà bằng phủ dụ như Labousse viết:

“Ông có đủ tất cả các đức tính của lương tâm lẫn trí tuệ. Ông có lòng tri ân, hào hiệp, tinh tế về điểm danh dự; anh hùng trong nghịch cảnh, chịu đựng thất bại với lòng can đảm xứng đáng với vị hiền nhân [chỉ Bá Đa Lộc] đã rèn luyện ông.”(13)

Hiện nay, đoạn văn mà Barrow mô tả chân dung Nguyễn Ánh, theo tôi, được coi là đầy đủ, chi tiết và có thể là xác thực hơn cả. Về điểm này cũng cần nhìn nhận, chương 6, viết về chân dung vua Gia Long của bà Thụy Khuê là được hơn cả.

Lý do rất đơn giản. Khen gia Long thì bà để yên. Nhưng khen Bá Đa Lộc thì ráng mà nghe bà chửi.

Và chúng tôi xin mạn phép bà trích lại một vài đoạn.

“Từ năm 1790, năm Gia Long về lại Nam Kỳ, tới 1800, chỉ có hai năm không đánh nhau là 1797 và 1798, cũng chính là hai năm quan trọng nhất dưới triều đại của ông, cho tới nay đầy bão tố. Dưới sự trợ lực của giám mục Adran, mà ông tham vấn như một người thông bác, ông đã làm hết sức để đất nước tiến triển: lập xưởng làm thuốc súng ở Fen-tan (Hội An) (thuộc đất Chàm trên bản đồ), mở mang đường, trồng cây, trồng mía, trồng trầu cau đã bị chiến tranh tàn phá, khuyến khích việc nuôi tằm, dệt lụa, lập xưởng điều chế nhựa thông, hắc ín, chế tạo hàng nghìn súng hỏa mai, khai mỏ sắt và xây lò nung. Lập quân đội chính quy và lập trường võ bị, với các huấn luyện viên người Âu luyện tập cho các sĩ quan cách bắn và phóng pháo. Adran còn dịch sang chữ Hán một bản nghiên cứu chiến lược để dùng trong quân đội.

Trong hai năm này, nhà vua đã cho đóng ít nhất 300 chiến thuyền có đại bác hoặc ghe chèo, 5 thuyền ba cột buồm, một chiến hạm theo lối Tây Phương. Ông sáng chế ra một chiến thuật mời cho thủy binh và dạy sĩ quan hải quân biết đùng dấu hiệu. Một trong những người Anh mà tôi đã nói ở trên, cho biết đã nhìn thấy ở Sài gòn năm 1800, một hạm đội gồm 1200 thuyền buồm do chính ông điều khiển, nhổ neo và tiến trên sông với một trật tự thật đẹp, chia làm ba đoàn, thẳng hàng tiếp chiến, mở đóng hàng ngũ và thi hành tất cả những thao tác theo đúng hiệu lệnh.

Trong khoảng thời bình này ông còn sửa đổi cả luật pháp nữa, và chắc chắn có bàn tay giám mục giúp sức. Ông bỏ những hình phạt tàn ác vẫn được áp dụng cho tới đó..Ông lập trường công, bắt trẻ con từ 4 tưởi trở lên phải đi học. Ông xác định lãi xuất hợp pháp cho ngành thương mại, xây cầu trên sông, làm cầu phao, đặt phao nổi trên biển báo hiệu những nơi nguy hiểm có đá ngầm, thanh tra các hải cảng và những vịnh chính, gửi nhiều phái viên về các rừng núi miền Tây, nơi có người Mèo và người Lào sinh sống trong tình trạng bán khai để dẫn họ về với đời sống văn minh hơn, những người miền núi này mà người Tàu vẫn gọi một cách hạ thấp là ‘người có đuôi’, mặc dầu, có thể, tiền nhân của họ ngày trước đã xây dựng nên nền văn minh của đế quốc hiện thời.

Để có một ý niệm về hoạt động thiên tài của ông, chỉ cần xem những tình huống mà ông đã trải qua: mới đầu chỉ có một chiến hạm, mà trong vòng không đến 10 năm, đã có một hạm đội 1200 chiến thuyền, trong đó có ba tầu kiến trúc Tây Phương, khoảng 20 thuyền buồm lớn theo kiểu Trung Quốc hoàn toàn trang bị võ khí, chỗ còn lại là tầu chuyên chở có trang bị súng đại bác.

Đối với người ngoại quốc, ông rất tử tế và ân cần. Ông quý mến những sĩ quan Pháp giúp ông, đối xử với họ lịch sự, thân tình và rất tốt. Không bao giờ ông đi săn hay dự một cuộc vui nào mà không mời một người trong bọn họ tham dự. Ông tuyên bố công khai lòng kính trọng của ông đối với các tôn chỉ của đạo Thiên Chúa, ông dung đạo chúa như các đạo khác trong nước (…) Nhờ giám mục Adran dịch một mục từ trong Bách Khoa toàn thư sang chữ Hán, ông biết được khoa học và nghệ thuật Tây Phương, đặc biệt ông chú trọng đến thuật hàng hải và thuật đóng tầu. Người ta đồn, điều này không được phép nói ra, ràng để kết nối lý thuyết kiến trúc tầu với thực hành, ông đã mua một chiến hạm Bồ, rồi tháo ra từng mảnh, từng tấm ván một, bắt chước đúng kích thước đó mà làm lại, cho đến khi ông thay thế tất cả các bộ phận bằng những mảnh mới làm để hoàn thành một chiếc tầu mới.

Nghị lực trí thức của ông ngang bằng với khí phách và hoạt động thể xác. Chính ông chủ động sự bùng lên mọi mặt của đát nước, chính ông quản đốc các hải cảng và các công binh xưởng, chính ông là giám đóc xây dựng những xưởng đóng tầu, chính ông chỉ huy các kỹ sư trong tất cả mọi công việc, không có gì thực hiện, không có gì chấp hành mà không hỏi ý kiến và nhận lệnh của ông. Không ai chế tạo một bộ phận nào mà không hỏi ông; không ai lắp một khẩu súng đại bác nào mà không có lệnh của ông. Không những ông trông coi từng chi tiêt nhỏ, mà còn phải làm trước mặt ông.

Để diều khiển tất cả công việc của mình một cách vững vàng, ông đặt ra một thời khóa biểu cố định. Và kỷ luật. Sáng dạy 6 giờ, tắm nước lạnh, 7 giờ các quan vào chầu, mở tất cả cong văn đến từ hôm qua, ông truyền lệnh cho các thư ký ghi chép, sau đó, ông ra xưởng tầu thủy ( xưởng chu sư) duyệt lại tất cả những gì đẫ làm xong lúc ông vắng mặt, rồi ông tự chèo thuyền đi khắp bến cảng, kiểm soát các chiến hạm, đặc biệt chú trọng đến súng đại bác, ông đi thăm lò đúc súng, đúc đủ loại đại bác ngay tại công binh xưởng (cục chế tạo).”(14)

(còn tiếp)

Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline

24 Tháng Tư 2015(Xem: 20161)
Tháng tư đen tháng tư buồn hận tủi. Của bao người của nước Việt lầm than Mời xem youtube do Kiều Oanh thực hiện - Nhạc phẩm "HẬN LY HƯƠNG"
24 Tháng Tư 2015(Xem: 27661)
Bây giờ đã là 40 lần 30/4 lại về. Biết bao oan khiên đã xảy ra cho dân tộc VN. Bao nhiêu xác người bỏ thây trên biển đông vì hai chữ tự do, bao nhiêu mạng tù nhân CS chết ức oan trên núi rừng Việt Bắc,
18 Tháng Tư 2015(Xem: 29458)
… 30 tháng 4, một ngày của mỗi năm, một ác mộng đã khởi dậy trong cuộc đời tôi, … 40 năm trôi qua, 40 lần của một cơn ác mộng. Giá của sự tự do mà tôi phải trả quá đắt.
12 Tháng Tư 2015(Xem: 30545)
Xin chân thành gởi nén hương lòng “Tưởng Niệm” đến những Anh Hùng QLVNCH. Những người nằm xuống trong cuộc chiến, những người tuẫn tiết vì quốc nạn 30/04/1975 và những người ngã gục trong lao tù cộng sản.
07 Tháng Tư 2015(Xem: 27132)
Có những tình cờ trong cuộc sống để lại một dấu ấn suốt đời mang theo. Xin được ghi lại vài nét của một trong những chuyện không bao giờ quên trong lịch sử thuyền nhân.
06 Tháng Tư 2015(Xem: 20684)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức: Bài " Ma Femme" Ca sĩ Claude Bazotti - Hạnh Phạm thực hiện youtube Video clip - Hạnh Phạm
29 Tháng Ba 2015(Xem: 25934)
Xin cám ơn Khánh Minh đã cho tôi một cảm nhận rất cụ thể rõ rệt về “cái-đang-là” của một “Mái Ấm”. Cám ơn ngôn ngữ trong veo của Khánh Minh đã giúp tôi tái hiện lại một vùng “Ký Ức của Bóng”
29 Tháng Ba 2015(Xem: 30024)
Tôi tự trách tôi. Nếu ngày đó tôi đừng chú ý gì nhiều đến em (dù đồng hương), tôi không để những tình cảm, xúc động lan tràn quá nhiều đến em, ... Hôm nay chắc có lẽ tôi cũng chẳng phải cảm thấy gì hơn.
28 Tháng Ba 2015(Xem: 27807)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới và bấm vào ô vuông ở cuối khung góc phải (Full screen) để mở lớn màn ảnh "Gửi Người Em Gái Miền Nam" - Nhạc Đoàn Chuẩn - Anh Dũng trình bày Kiều Oanh Trịnh thực hiện youtube
20 Tháng Ba 2015(Xem: 28250)
Tôi hằng tin ba trăm năm sau và thêm nhiều lần ba trăm năm nữa, thi phẩm Kiều của cụ Nguyễn Du vẫn tìm thấy tiếng lòng đồng điệu với nhân gian…
20 Tháng Ba 2015(Xem: 26323)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới và bấm vào ô vuông ở cuối khung góc phải (Full screen) để mở lớn màn ảnh "MƠ HOA"- Nhạc Hoàng Giác - Ca sĩ Ngọc Bảo Kiều Oanh Trịnh thực hiện youtube
15 Tháng Ba 2015(Xem: 28266)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức : CHÀO EM MÙA ĐÔNG - CHIẾC LÁ MÙA ĐÔNG - TIỄN NHAU MÙA ĐÔNG - MÙA ĐÔNG VÀ MÂY XƯA - GỌI NHAU MÙA ĐÔNG - ĐÔI TAY MÙA ĐÔNG - DẤU CHÂN MÙA ĐÔNG - Nhạc & Lời: Phạm Chinh Đông
15 Tháng Ba 2015(Xem: 30563)
“Người Biên Hòa dù sống nơi đâu cũng là đồng hương Biên Hòa”. Cảm nghĩ chân thật của giới trẻ Lưu Tuyết Hương như đã nói lên được sự mong ước sự đoàn kết thương yêu và quý mến của người Biên Hòa.
14 Tháng Ba 2015(Xem: 27235)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới và bấm vào ô vuông ở cuối khung góc phải (Full screen) để mở lớn màn ảnh XUÂN THÌ - Nhạc Pham Duy - Khánh Ly trình bày Kiều Oanh Trịnh thực hiện youtube
14 Tháng Ba 2015(Xem: 21529)
Nhiều đêm tôi nghe có tiếng gõ cửa nhưng tôi không buồn ngồi dậy. Kệ nó. Chẳng phải là công an đâu. Nếu công an nó đâu để mình yên. Có lẽ một ông quen nào đó. Chờ lâu không thấy trả lời rồi họ cũng đi thôi.
14 Tháng Ba 2015(Xem: 29608)
(Tặng Phẩm & Lynh) Anh như mây trắng trên trời, Nay đây mai đó cuộc đời thênh thang. Nỗi buồn riêng để Em mang, Những ngày "Xa vắng" Em sang "bên nhà"
07 Tháng Ba 2015(Xem: 43253)
Và mặc dầu còn có những bất cập đủ thứ, tôi vẫn phải nhìn nhận rằng, những năm tháng còn lại, kể từ ngày ấy, mỗi giây phút năm tháng sống, học hành, lớn lên thành người thời đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam vẫn là những năm tháng ân sủng cho tuổi trẻ của tôi và những bạn bè cùng trang lứa.
07 Tháng Ba 2015(Xem: 25772)
Cám ơn những giọt nước mắt ngày mồng một Tết của cháu tôi. Vì nhờ nó ngày Tết năm nay thêm giá trị. Giá trị không phải là những giọt nước mắt rơi, mà giá trị ở chỗ cháu tôi bắt đầu hiểu biết để yêu thương cha mẹ
07 Tháng Ba 2015(Xem: 27888)
Vào ngày chủ nhật 22 tháng 2, ở San Jose hơn 30 chs Ngô Quyền Bắc California ngồi lại bên nhau vừa ăn Tết Quang Trung, vừa đón chào Thầy Phạm Gia Hưng về miền Tây nắng ấm tránh mùa Đông tuyết trắng của Virginia.
07 Tháng Ba 2015(Xem: 29847)
tôi cơ hồ chìm đắm trong cơn say và còn nghe đâu đây “Rồi Mai Đây” và “Tôi Muốn”. Như một lời cám ơn các anh Ngô Quyền, các em Khiết Tâm trong đêm Reunion và 45 Năm Tình Bạn.