Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7b - phần 1)

22 Tháng Sáu 20161:29 CH(Xem: 18391)
GS. Nguyễn Văn Lục - Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7b - phần 1)

Tham vọng viết lại lịch sử Việt Nam: Trường hợp Thụy Khuê (7b - phần 1)


vua_gialongMột vài dẫn chứng trên đây không đủ cho phép bà Thụy Khuê gán ghép cho Tạ Chí Đại Trường cóp nhặt và chịu ảnh hưởng của một số sử gia Tây phương trên toàn bộ cuốn sách của ông.

(Tiếp theo phần 7a)

Bá Đa Lộc. Nguồn: Tao-Kim-Hai, “L'indochine Francaise depuis Pigneau De Behaine”, 1939

Bá Đa Lộc. Nguồn: Tao-Kim-Hai, “L’indochine Francaise depuis Pigneau De Behaine”, 1939

Việc truy tìm sự kiện lịch sử trở thành khó khăn, bởi vì sự kiện lịch sử không phải bao giờ cũng là cái xuất hiện mà là cái không lộ diện, cái che dấu, cái động lực ngầm. Chẳng hạn nói “Phò Lê, Diệt Trịnh” đã chắc gì đúng như thế! Hay chỉ là cái cớ “chính nghĩa” để che đậy mưu đồ không nói ra.

Người viết sử đôi khi phải đi con đường vòng, tìm lại cái nẻo khuất để hiểu tại sao sự việc nó lại như thế, tại sao tác giả lại viết như thế và tại sao không viết như thế.

Lịch sử là đi tìm cái tại sao, cái nguyên do, cái không lộ diện.

Về điểm này, tôi có những nhận định trái với bà Thụy Khuê về cách viết của ông Tạ Chí Đại Trường(11)

Trở lại những lá thư của Nguyễn Ánh viết bày tỏ tâm sự với Bá Đa Lộc. Những lá thư ấy với lối hành văn cổ không mấy dễ đọc.

Những lá thư ấy đã được cố đạo Cadière sưu tập được và chú giải.

Công thu tập tài liệu đứng về mặt sử liệu là công khó nhất, không dễ mấy ai cũng làm được!

Tạ Chí Đại Trường viết,

“Đáng chú ý hơn, chính là thư của Nguyễn Ánh viết ra trong lúc còn lưu vong hoặc mới tái tạo cơ đồ, chưa vững vàng bề thế, khiến chúng ta thấy rõ con người ông hơn, con người mà các sử quan tả bằng những sáo ngữ với những hình ảnh ý niệm dành cho các bậc vua chúa Đông phương ‘thông duệ túc thành’ ‘phước mạng đế vương’ đến qua sông có cá sấu đưa đi, giặc đuổi có cây ngã chặn đường phía sau.

Đọc thư, chúng ta thông cảm với một thường nhân lênh đênh lao khổ thốt lời chua chát với số mệnh đắng cay, một người bạn thành thực chí tình, một người cha thương nhớ con xa cách trong khi day dứt chưa làm tròn bổn phận với dòng họ, tổ tiên.

Chính tính chất có liên lạc mật thiết với cá nhân một nhân vật lịch sử quan trọng này mà sử liệu đưa ra có thể liệt vào hàng quan trọng.”(12)

Đó, công việc mà Tạ Chí Đại Trường đã thực hiện, phải chăng là công việc của sử gia?

Hãy đọc thêm hai tài liệu.

1. Bài chí viết bằng chữ Nôm ở lăng Bá Đa Lộc, do Đốc học Nguyễn Gia Cát soạn và Hữu tham tri bộ binh Lê Quang Định viết chữ, dựng bia vào tháng 8 năm Canh Thân 1800 theo lệnh của Nguyễn Ánh:

“- Đức Thầy vốn người nước Đại Pháp, tên Bi Nhu, hiệu Bá Đa Lộc, tu học đạo Thiên Chúa giáo từ nhỏ nhưng mọi kinh điển thánh hiền Trung Quốc đều thông thạo. Thuở trẻ đến nước ta, gặp lúc có nhiều nội loạn, đức thầy nhận lời làm quốc khách, đem tài năng ra thi thố, khuông phò giữa buổi nghiêng ngửa hiểm nguy. Lại vâng trọng trách giao phó xuất ngoại cầu viện binh, đi về vất vả nhọc nhằn gần kiệt lực. Suốt hơn 20 năm bày kế sách tham mưu, góp ý kiến bình định, thành tích xây dựng vẻ vang ấy rất xứng đáng lưu truyền hậu thế. Vận nước dần dần được khôi phục, phần lớn đếu nhờ công lao của đức thầy.

– Năm Kỷ Mùi (1799), khi theo quân ra đánh phủ Quy Nhơn, đức thầy mất ngày 11/9 (âm lịch) tại cửa biển Thi Nại, hưởng thọ 57 tuổi. Tháng 10 được phong tặng Thái tử Thái phó quận công, an táng ở nhà nguyện cũ của đức thầy tại phía bắc thành Gia Định. Nhân thế mới làm bài chí.

Dựng bia ngày lành tháng 8 năm Canh Thân (1800).
Đốc học Hoa Xuyên hầu Nguyễn Gia Cát vâng mệnh soạn.
Hữu tham tri bộ binh Định Thành hầu Lê Quang Định vâng mệnh viết.”

(Nguồn: Lm. Giuse Nguyễn Hữu Triết, “Bài Văn Bia ở Lăng Đức Cha Cả Bá Đa Lộc”)

2. Bài văn tế Bá Đa Lộc của vua Gia Long trích lại trong bài về “Cuộc giảng-diễn về hai bài văn tế của Quan Thượng Giáo dục Phạm Quỳnh” đăng trên Phụ trương Báo Tràng An, số 70, trang 1, 29 tháng Mười, 1935.

Nguồn: Thư viện Quốc Gia Việt Nam | DCVOnline

Nguồn: Thư viện Quốc Gia Việt Nam | DCVOnline

Bởi Gia Long – 1799 document. Reproduction in Mantienne "Monseigneur Pigneau de Behaine"., Phạm vi công cộng, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=4812406

Điếu văn của Gia Long – 1799 document. Reproduction in Mantienne “Monseigneur Pigneau de Behaine”, Phạm vi công cộng, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=4812406

Trong bài “gỉang-diễn về hai bài văn tế” Phạm Quỳnh cũng đã dẫn Charles B. Maybon, ông viết,

“Nhà sử học Maybon có nói, ‘Trong mười năm ở xứ Nam kỳ, Đức cha vừa là Binh-bộ và Ngoại giao bộ Thượng thơ của Đức Gia-Long. Mọi việc hành động của ngài đều đã có bàn bạc trước với Đức cha cả những thơ từ của ngài gởi cho các quan thủ hiến Phi-luật-Tân, Macao, Bengale, cho vua Hồng-mao, vua Đan-mạch cũng vậy, đều do tay Đức cha thảo cả.”

Không thấy bà Thuỵ Khuê gọi Phạm Quỳnh là “Quan Thượng Giáo dục ‘thuộc địa’ hay ‘thực dân’” trong bài khảo sát của bà.

Còn vua Gia Long, với lời lẽ trong văn tế Bá Đa Lộc như trên, ông là cái gì? “Vua thuộc địa” hay “Vua của thực dân”?

Và nếu bà Thụy Khuê đọc kỹ những lá thư đó và những tài liệu thượng dẫn có lẽ bà sẽ có một quan điểm nhìn trung thực và chia sẻ hơn về Bá Đa Lộc. Và điều quan trọng, bà mới hiểu được mối liên hệ giữa hai người hầu như có chung một số phận? Tại sao Nguyễn Ánh không viết những lá thư này cho một người khác như Lê Văn Duyệt?

Công việc này, theo thiển ý, sử gia Tạ Chí Đại Trường trong “Lịch sử nội chiến ở Việt Nam” của ông đã lý giải được nhiều điều bên lề, tưởng như vô tích sự như cuộc cãi vã giữa De Conway và Bá Đa Lộc ở Pondichéry.

Qua cuộc đấu trí ấy, tôi đánh giá được một điều quan trọng: tài trí và sự biến báo của Bá Đa Lộc trong những tình trạng tưởng như tuyệt vọng. Tôi cũng hiểu được tình thế lúc bấy giờ chưa hẳn ngã ngũ, còn năm bè bẩy mối, đã có mầm mống của sự loại trừ dần — như một cuộc đào thải tự nhiên để chỉ còn lại hai đối thủ cho hồi chung cuộc. Đó là Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh.

Sự chọn lựa và quyết định lúc đầu của Bá Đa Lộc có thể chỉ là do hoàn cảnh ngẫu nhiên. Nhưng lúc ở Pondichéry thì không còn hẳn là như vậy.

Cán cân quyền lực nghiêng về phía nào tùy thuộc vào con bài tẩy của họ là ai? Bá Đa Lộc là lẽ tất thắng với kẻ nào sử dụng được ông.

Vì thế, khi đọc nhận xét của bà Thụy Khuê đánh thấp vai trò Bá Đa Lộc, tôi cho là một sự đánh giá hời hợt khi nhận xét về người và sự việc.

Không phải vô lý mà Tạ Chí Đại Trường đánh giá cao con người Bá Đa Lộc.

Theo Tạ Chí Đại Trường, mối quan hệ giữa họ phải như thế nào, phải đặc biệt để Nguyễn Ánh bày tỏ tâm sự của mình, những tâm sự thầm kín nhất, phải là người ở trong vòng thân tín nhất.

Đôi khi Bá Đa Lộc phải là chỗ tựa của Nguyễn Ánh.

Bá Đa Lộc đâu có phải thuộc loại hoạn quan, tối ngày quỳ dưới trướng vâng dạ bảo vâng, túc trực bên cạnh vua để phỉnh phờ!

Có một trăm loại quan đó cũng chẳng ích lợi gì cho sự nghiệp thống nhất đất nước của Nguyễn Ánh cả.

Cho nên đánh giá cái công của Bá Đa Lộc đối với Nguyễn Ánh không phải chỉ vỏn vẹn là mấy chiếc tầu đồng, mấy khẩu đại bác. Cái đó cũng tốt. Nhưng chỉ nghĩ đến sự giúp đỡ vật chất giữa Bá đa Lộc và Nguyễn Ánh thì hạn hẹp quá.

Sự giúp đỡ vật chất của Bá Da Lộc chưa đủ xây dựng một sự nghiệp lâu dài cho Nguyễn Ánh.

Công lớn nhất của Bá Đa Lộc là biết đưa ý kiến, biết can đảm có lời khuyên can, biết mở mắt cho Nguyễn Ánh ngay cả cách sử sự ở đời, biết sử dụng kỹ thuật trong việc đóng tầu đồng, biết việc xây thành kiên cố, biết việc huấn luyện binh sĩ, biết dùng các loại thuốc nổ.

Nhưng điều này đã được Borrow diễn tả đầy đủ.

Bản thân Bá Đa Lộc là một nhà tu hành, ngay việc xử dụng một cây súng hẳn cũng chưa hề biết.

Trên:  Chiến thuyền Ville de Paris in Rochefort, 1764 Nguồn: Tác giả nặn danh - Europeana, domaine public, Public Domain, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=20944788. Dưới:  Chiến thuyền của cướp biển Tầu đầu thế kỷ 19 ở Quảng Đông. Nguồn: http://www.greendragonsociety.com/. Cướp biển Trung Hoa là một phần lực lượng của Tây Sơn.

Trên: Chiến thuyền Ville de Paris in Rochefort, 1764 Nguồn: Tác giả nặn danh – Europeana, domaine public, Public Domain, https://commons.wikimedia.org/w/index.php?curid=20944788.
Dưới: Chiến thuyền của cướp biển Tầu đầu thế kỷ 19 ở Quảng Đông. Nguồn: http://www.greendragonsociety.com/.
Cướp biển Trung Hoa là một phần lực lượng của Tây Sơn.

Vấn đề là ông biết cung cấp các tài liệu – ai dịch là chuyện nhỏ – dịch các tài liệu về cách đóng tầu, cách xây thành trì như các thành Gia Định, Diên Khánh; chuyện còn lại, ai xây, xây thế nào – đôi khi chỉ cần xây một thành mẫu đầu tiên. Các thành sau cứ thế mà bắt chước, đâu còn là câu chuyện khó khăn nữa?

Vấn đề đặt ra đối với tôi ai xây cũng không mấy quan trọng, nhưng ai là người đưa ra bản hoạ đồ xây cất, ai là người vẽ họa đồ? Và hơn thế nữa là tìm hiểu xem các thành ấy có khác với các thành cũ không?

Nó khác ở chỗ nào? Trên thực địa, tại sao quân Tây Sơn do Trần Quang Diệu vây hãm mãi mà không phá được thành Diên Khánh?

Nhưng điều thứ hai không kém quan trọng là phải có một Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh là một vị vua hiểu biết, thông minh, trì chí, chịu khó học hỏi, tìm tòi thêm.

Đã có một Bá Đa Lộc thì phải có một Nguyễn Ánh. Thiếu một trong hai là chuyện không thành.

Nguyễn Ánh chịu học hỏi, mua tàu cũ của Tây Ban Nha, mang về, tháo ra từng mânh, học cách lắp ráp, cách thiết kế, cách vận hành. Có hàng trăm chi tiết kỹ thuật phải nhờ đến sự chỉ dẫn của đám chuyên viên người Pháp.

Đã có nhiều đoạn văn mô tả lại chân dung Gia Long như trong Sử Ký Đại Nam Việt, của Shinoken Seishi, của Chaigneau, của Le Labousse và của Barrow. Tất cả nói chung đều đã được bà Thụy Khuê trích dẫn đầy đủ. Các tài liệu ấy đều đưa ra những lời khen ngợi về tài trí, đức độ, sự khôn ngoan của Nguyễn Ánh.

So với địch thủ số một của ông là Tây Sơn Nguyễn Huệ, lúc đương thời nào đã có mấy ai viết được như thế về Tây Sơn? Người ta biết Tây Sơn ở mặt nổi như tài dùng binh, một thiên tài quân sự. Và Đống Đa là tuyệt đỉnh của Tây Sơn.

Một người lãnh đạo đất nước chắc cần nhiều đức tính hơn thế nữa. Phải trí dũng song toàn. Một trong những đức tính tôi cho là rất quan trọng: Nguyễn Ánh là người biết nghe theo lời khuyên của Bá Đa Lộc.

Ông bớt tàn bạo, hẳn là do lời khuyên của Bá Đa Lộc? Không chỉ biết cai trị bằng roi kiếm mà bằng phủ dụ như Labousse viết:

“Ông có đủ tất cả các đức tính của lương tâm lẫn trí tuệ. Ông có lòng tri ân, hào hiệp, tinh tế về điểm danh dự; anh hùng trong nghịch cảnh, chịu đựng thất bại với lòng can đảm xứng đáng với vị hiền nhân [chỉ Bá Đa Lộc] đã rèn luyện ông.”(13)

Hiện nay, đoạn văn mà Barrow mô tả chân dung Nguyễn Ánh, theo tôi, được coi là đầy đủ, chi tiết và có thể là xác thực hơn cả. Về điểm này cũng cần nhìn nhận, chương 6, viết về chân dung vua Gia Long của bà Thụy Khuê là được hơn cả.

Lý do rất đơn giản. Khen gia Long thì bà để yên. Nhưng khen Bá Đa Lộc thì ráng mà nghe bà chửi.

Và chúng tôi xin mạn phép bà trích lại một vài đoạn.

“Từ năm 1790, năm Gia Long về lại Nam Kỳ, tới 1800, chỉ có hai năm không đánh nhau là 1797 và 1798, cũng chính là hai năm quan trọng nhất dưới triều đại của ông, cho tới nay đầy bão tố. Dưới sự trợ lực của giám mục Adran, mà ông tham vấn như một người thông bác, ông đã làm hết sức để đất nước tiến triển: lập xưởng làm thuốc súng ở Fen-tan (Hội An) (thuộc đất Chàm trên bản đồ), mở mang đường, trồng cây, trồng mía, trồng trầu cau đã bị chiến tranh tàn phá, khuyến khích việc nuôi tằm, dệt lụa, lập xưởng điều chế nhựa thông, hắc ín, chế tạo hàng nghìn súng hỏa mai, khai mỏ sắt và xây lò nung. Lập quân đội chính quy và lập trường võ bị, với các huấn luyện viên người Âu luyện tập cho các sĩ quan cách bắn và phóng pháo. Adran còn dịch sang chữ Hán một bản nghiên cứu chiến lược để dùng trong quân đội.

Trong hai năm này, nhà vua đã cho đóng ít nhất 300 chiến thuyền có đại bác hoặc ghe chèo, 5 thuyền ba cột buồm, một chiến hạm theo lối Tây Phương. Ông sáng chế ra một chiến thuật mời cho thủy binh và dạy sĩ quan hải quân biết đùng dấu hiệu. Một trong những người Anh mà tôi đã nói ở trên, cho biết đã nhìn thấy ở Sài gòn năm 1800, một hạm đội gồm 1200 thuyền buồm do chính ông điều khiển, nhổ neo và tiến trên sông với một trật tự thật đẹp, chia làm ba đoàn, thẳng hàng tiếp chiến, mở đóng hàng ngũ và thi hành tất cả những thao tác theo đúng hiệu lệnh.

Trong khoảng thời bình này ông còn sửa đổi cả luật pháp nữa, và chắc chắn có bàn tay giám mục giúp sức. Ông bỏ những hình phạt tàn ác vẫn được áp dụng cho tới đó..Ông lập trường công, bắt trẻ con từ 4 tưởi trở lên phải đi học. Ông xác định lãi xuất hợp pháp cho ngành thương mại, xây cầu trên sông, làm cầu phao, đặt phao nổi trên biển báo hiệu những nơi nguy hiểm có đá ngầm, thanh tra các hải cảng và những vịnh chính, gửi nhiều phái viên về các rừng núi miền Tây, nơi có người Mèo và người Lào sinh sống trong tình trạng bán khai để dẫn họ về với đời sống văn minh hơn, những người miền núi này mà người Tàu vẫn gọi một cách hạ thấp là ‘người có đuôi’, mặc dầu, có thể, tiền nhân của họ ngày trước đã xây dựng nên nền văn minh của đế quốc hiện thời.

Để có một ý niệm về hoạt động thiên tài của ông, chỉ cần xem những tình huống mà ông đã trải qua: mới đầu chỉ có một chiến hạm, mà trong vòng không đến 10 năm, đã có một hạm đội 1200 chiến thuyền, trong đó có ba tầu kiến trúc Tây Phương, khoảng 20 thuyền buồm lớn theo kiểu Trung Quốc hoàn toàn trang bị võ khí, chỗ còn lại là tầu chuyên chở có trang bị súng đại bác.

Đối với người ngoại quốc, ông rất tử tế và ân cần. Ông quý mến những sĩ quan Pháp giúp ông, đối xử với họ lịch sự, thân tình và rất tốt. Không bao giờ ông đi săn hay dự một cuộc vui nào mà không mời một người trong bọn họ tham dự. Ông tuyên bố công khai lòng kính trọng của ông đối với các tôn chỉ của đạo Thiên Chúa, ông dung đạo chúa như các đạo khác trong nước (…) Nhờ giám mục Adran dịch một mục từ trong Bách Khoa toàn thư sang chữ Hán, ông biết được khoa học và nghệ thuật Tây Phương, đặc biệt ông chú trọng đến thuật hàng hải và thuật đóng tầu. Người ta đồn, điều này không được phép nói ra, ràng để kết nối lý thuyết kiến trúc tầu với thực hành, ông đã mua một chiến hạm Bồ, rồi tháo ra từng mảnh, từng tấm ván một, bắt chước đúng kích thước đó mà làm lại, cho đến khi ông thay thế tất cả các bộ phận bằng những mảnh mới làm để hoàn thành một chiếc tầu mới.

Nghị lực trí thức của ông ngang bằng với khí phách và hoạt động thể xác. Chính ông chủ động sự bùng lên mọi mặt của đát nước, chính ông quản đốc các hải cảng và các công binh xưởng, chính ông là giám đóc xây dựng những xưởng đóng tầu, chính ông chỉ huy các kỹ sư trong tất cả mọi công việc, không có gì thực hiện, không có gì chấp hành mà không hỏi ý kiến và nhận lệnh của ông. Không ai chế tạo một bộ phận nào mà không hỏi ông; không ai lắp một khẩu súng đại bác nào mà không có lệnh của ông. Không những ông trông coi từng chi tiêt nhỏ, mà còn phải làm trước mặt ông.

Để diều khiển tất cả công việc của mình một cách vững vàng, ông đặt ra một thời khóa biểu cố định. Và kỷ luật. Sáng dạy 6 giờ, tắm nước lạnh, 7 giờ các quan vào chầu, mở tất cả cong văn đến từ hôm qua, ông truyền lệnh cho các thư ký ghi chép, sau đó, ông ra xưởng tầu thủy ( xưởng chu sư) duyệt lại tất cả những gì đẫ làm xong lúc ông vắng mặt, rồi ông tự chèo thuyền đi khắp bến cảng, kiểm soát các chiến hạm, đặc biệt chú trọng đến súng đại bác, ông đi thăm lò đúc súng, đúc đủ loại đại bác ngay tại công binh xưởng (cục chế tạo).”(14)

(còn tiếp)

Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline

18 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 23718)
Anh ơi, em nghĩ chỉ có tình cảm mới giúp người ta thấy con đường người ta đi đúng là tươi đẹp, là đáng đi. Vượng đã thay đổi vì em. Thủy, rồi tới anh, nói với em như thế. Phải chi chính Vượng nói với em như thế ?
18 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 14893)
Nhị Hà có lần nói thẳng với mấy bạn trai, những học sinh của Saigon cũ, rằng cô rất ghét người Saigon, “giống dân bạc tình bạc nghĩa, chỉ biết chạy theo vật chất mà quên cái phần tinh túy là tâm hồn.”
12 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 35997)
Tôi lại nghĩ tôi thua xa những em bé ấy. Chúng coi trâu như bạn, chúng chơi đùa và coi giữ trâu như một niềm vui. Còn tôi, chỉ một năm giữ trâu thôi mà tôi coi là một móc ngoặc đời mình thì quả tôi còn thua một đứa con nít.
12 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 26972)
cảm tác theo bài viết "Nước Mắt" của Nguyễn Thị Thêm đăng trên Web Site Ngô Quyền ngày: 6 tháng 12, 2014 và thưởng thức tiếng hát Ngọc Lan qua "Giọt Nước Mắt Ngà", sáng tác của Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên.
10 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 23323)
Trân mong ước chuyện tình cảm giữa Thủy và anh An Trân có thật, và sẽ thành tựu vào một ngày không xa. Nhìn hạnh phúc của người khác để cảm thấy mình hạnh phúc. Đó là trường hợp của Trân chăng?
10 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 20709)
Mùa Thu sắp tàn, hàng cây hai bên bờ con suối nhỏ, mới vài tháng trước đầy ắp lá xanh mượt mà Mời thưởng thức “Theo Lá Vàng bay ”, nhạc ngoại quốc qua hai tiếng hát trầm ấm và thật buồn, của Ngọc Lan & Kim Anh.
06 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 29806)
Người thấy và cảm nhận được giọt nước mắt long lanh như những viên kim cương hay giọt sương lấp lánh là người mới thật sự đẹp, một người đáng trân trọng.
05 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 37744)
Có một ngày trời không áng mây trôi, mưa dầm dề. Tôi nghe tiếng thời gian thở dài. Không dưng nỗi nhớ tròng trành, nên lòng trĩu nặng. Mưa dầm... Ngõ nhớ. Có bóng ai thấp thoáng trong màn mưa.
03 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 22558)
Nhỏ bạn của Trân ơi ! Nhỏ có nhớ lời thầy Bằng tâm sự với mình hôm nào không ? Đời giả trá, lừa đảo khôn lường. Mình non tay, kém kinh nghiệm, trước sau gì mà chẳng có lần vấp ngã.
29 Tháng Mười Một 2014(Xem: 30455)
Trời chiều Cali đã bắt đầu đi ngủ sớm, màn đêm với khí trời lành lạnh như báo trước sự chuẩn bị cho những ngày lễ cuối năm. Dù trời lạnh nhưng chúng tôi lại cảm thấy luôn ấm lòng với những tiếng cười ròn rã những tiếng nói rất thật và thân tình.
28 Tháng Mười Một 2014(Xem: 21836)
Sức mạnh của chúng ta là phải biết họ là ai và cho họ biết chúng ta là ai? Sau đó phải biết cất lên tiếng nói. Nói thì sống, không nói thì chết.
28 Tháng Mười Một 2014(Xem: 21751)
Khi cơn mưa chiều đổ ập xuống, trời tối sầm lại. Nhà đèn lại cúp điện khiến nơi bàn thờ gia tiên gia đình con, ánh sáng ngọn đèn dầu nhỏ thật lung linh, mờ ảo. Nhưng cũng tốt. Càng tăng thêm vẻ trang nghiêm cho buổi lễ.
28 Tháng Mười Một 2014(Xem: 29087)
Cuộc đời cũng thế, như một giòng sông, là một biến chuyển không ngừng. Có những chỗ, giòng sông trôi êm đềm nhưng cũng có những nơi, giòng sông trôi ào ạt làm ta chới với. Rồi cũng có những đoạn giòng sông rẽ nhánh thình lình, quanh co uốn khúc.
27 Tháng Mười Một 2014(Xem: 32189)
Nhân dịp Thanksgiving. Gia đình chúng tôi, xin gửi lời chúc đến quý vị và các bạn một mùa lễ Tạ Ơn an lành, hạnh phúc, quây quần bên người thân, thâm tâm an lạc để đón mừng Mùa Lễ lớn.... Xin tạ ơn… Tạ ơn tất cả. Happy Thanksgiving…
26 Tháng Mười Một 2014(Xem: 23518)
Cách nói của Mười Tân cho người nghe hiểu rằng tất cả cái gì thuộc chế độ cũ đều xấu xa và đáng phải bị tiêu diệt, đặc biệt là nền văn học nghệ thuật miền Nam.
20 Tháng Mười Một 2014(Xem: 25571)
Chiếc xe lam tấp bên lề, không ra hiệu làm một người chạy Honda phía sau suýt đâm sầm vào. Ông ta vòng xe ngang người tài xế càu nhàu. Người tài xế xe lam vừa nhận tiền nơi con vừa cười giả lả với ông kia.
14 Tháng Mười Một 2014(Xem: 26561)
Con muốn oà lên khóc mà đôi mắt chợt ráo hoảnh. Chừng như lệ nóng đã đóng băng, chừng như hồn con tê cứng lại. Bản danh sách thí sinh trúng tuyển chờn vờn trước mắt con. Đám đông xô đẩy, lấn dần con ra.
14 Tháng Mười Một 2014(Xem: 29384)
Vào ngày chủ nhựt qua mùng 9 tháng 11 , nước Đức và Âu Châu đã ăn mừng kỷ niệm 25 năm Bức Tường Bá Linh Sụp Đỗ (1989 - 2014) .
14 Tháng Mười Một 2014(Xem: 26232)
Dòng sông nào cũng về biển cả. Cuộc đời của mỗi con người rồi cũng kết thúc. Chị chỉ mong được nhìn thấy nụ cười thương yêu của người thân,con cái, bạn bè khi nghĩ tới chị ....
31 Tháng Mười 2014(Xem: 26835)
...nhưng ngày lễ Halloween cũng là một ngày rất đặc biệt của trẻ con. Hãy vui cùng với các cháu và hãy bảo vệ các cháu để tuổi thơ chúng có những kỷ niệm đẹp trong tuổi ấu thơ.