Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Đỗ Dung - PHẬN GÁI LÊNH ĐÊNH

06 Tháng Tư 20216:04 CH(Xem: 11920)
Đỗ Dung - PHẬN GÁI LÊNH ĐÊNH
Phận gái lênh đênh ĐD

 

Đỗ Quyên đang ngồi trên xích lô với mẹ, chiếc xe bỏ mui đi trên đường phố Sài Gòn vắng, êm ả như chiều Ba Mươi Tết, gió mơn man nhẹ nhàng trên làn da và những sợi tóc dài nhè nhẹ bay.  Bỗng nhiên trời đổ cơn mưa rào, chiếc xe tấp vội vào lề để bác phu xe kéo mui lên và căng tấm bạt che, những giọt mưa lạnh quất vào mặt Quyên … nàng choàng tỉnh. Thì ra chỉ là giấc mơ! Quyên thảng thốt, nhớ mẹ, nhớ nhà, nước mắt ứa ra và nàng cố gắng để kìm tiếng thút thít.

Đỗ Quyên và gia đình Duy đang ở Subic Bay thuộc quần đảo Philippines. Mới hơn một tuần thôi, mọi việc chập vào nhau như thật, như hư, như mới xảy ra hôm qua, lại như đã xa xôi từ kiếp nào. Quyên nhớ như in ngày Thứ Sáu 25 Tháng Tư, mẹ của Duy đã đến nói chuyện với ông bà Huấn, cha mẹ của Quyên, xin phép cho nàng đi Mỹ cùng gia đình của bà. Dương, anh Duy, làm ở tòa đại sứ Hoa Kỳ, được ra đi chính thức qua chương trình di tản nhân viên sở Mỹ.  Nếu cha mẹ Quyên đồng ý thì anh có thể cho thêm tên Quyên vào danh sách gia đình anh.  Và ngày hôm sau Duy đã cùng đi với cha mẹ, vợ chồng Dương và hai đứa bé Hiếu, Hạnh, con của anh chị, đem trầu cau, bánh trái đến đặt lên bàn thờ gia tiên nhà Quyên, coi như lễ chính thức xin dâu. Quyên nhớ rất rõ, hôm ấy trăng tròn vành vạnh trên bầu trời cao, trăng mười sáu.

Thế rồi ngay buổi sáng ngày 28, Duy hớt hải phóng Honda đến nhà Quyên cho biết đã có người liên lạc, báo tin rằng danh sách gia đình Dương đến lượt đi hôm nay, và điểm hẹn là một trụ sở của tòa đại sứ Mỹ trên đường Trương Quốc Dung. Vì vậy Duy phải đón Quyên đi gấp. Cả nhà quýnh quáng, đã đến giờ phút chia ly, mẹ gọi Quyên vào phòng, nghẹn ngào dặn dò, bà giúi vào tay nàng tờ giấy một trăm dollars và hai chiếc nhẫn một chỉ vàng bảo con gái cất kỹ để phòng thân. Cầm chiếc túi xách đã sửa soạn từ trước đựng mấy bộ quần áo, giấy tờ và một ít lương khô, Quyên tất tả ngồi lên yên xe sau lưng Duy.

Đến điểm hẹn, mọi người đứng đợi, ồn ào, lao xao, người thì mừng rỡ ra mặt, người không giấu được những nét ưu tư. Xe buýt đến, mọi người lần lượt lên, chả ai hỏi danh sách hay giấy tờ gì cả, xe còn trống mấy chỗ khiến Quyên tiếc ngẩn ngơ, giá mà chị Vân, Hoàng, Huy, Mai, Quỳnh có ở đây, bố mẹ và gia đình chị Vi có ở đây! Làm sao nhắn, làm sao gọi trong khi xe sắp chuyển bánh. Quyên gục đầu vào hai cánh tay giấu hai hàng nước mắt đang lặng lẽ tuôn trào. Gia đình tan tác, biết những người còn lại sẽ đi bằng cách nào, biết bao giờ gặp lại nhau.

Xe buýt chạy thẳng vào phi trường Tân Sơn Nhất bên khu quân sự, không phải nơi mà thỉnh thoảng Quyên đến để đón người thân.

Chợt tiếng bom nổ ầm.

_Pháo kích, pháo kích!

Có tiếng người la lên và mọi người tán loạn chạy ra những giao thông hào đào sẵn ở xung quanh. Quyên sợ tái người, miệng lâm râm niệm Phật. Trong những lúc nguy nan như thế này Quyên nhớ bố mẹ, chị em hơn bao giờ, nhìn quanh, Quyên thấy mình thật lạc lõng, cô đơn. Duy và gia đình chàng chưa đủ thân để Quyên tìm kiếm một sự che chở. Đất nước loạn ly, một thời con gái lao đao. Như thông cảm, Duy cầm tay Quyên bóp nhẹ, như để an ủi, vỗ về.

Sau vài tiếng nổ thì tạm yên, mọi người vào bên trong phòng đợi, đó là nơi chốn làm việc của DAO (Defense Attache Office) nhân viên đã rút đi từ lâu, nay là chỗ tập trung người di tản. Người đông đến cả ngàn, nằm ngồi ngổn ngang. Có nhiều người sợ hãi đã ra về vì sợ bị pháo kích nữa, có những người lại nói là Mỹ bỏ đi hết rồi, nếu Việt Cộng chiếm được Sài Gòn, họ vào đến đây sẽ có trận thảm sát vì biết mình toan tính ra đi. Quyên lo lắng, hoang mang, lòng dạ bồn chồn, cả đêm ngồi bó gối, không chợp mắt. Sáng sớm ngày 29, một toán Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đến giữ trật tự và bảo vệ an ninh cho người di tản. Một trận pháo kích dội thẳng vào Tân Sơn Nhất, tất cả nháo nhào lao vội ra giao thông hào hay chui vào góc, xó nào mà họ thấy an toàn để ẩn nấp.  Những tiếng đọc kinh, những tiếng niệm Phật rầm rì xen những tiếng khóc nấc của các cụ già và tiếng gào thét của những đứa trẻ con...thật hoảng loạn, thật thê lương. Một lúc sau ổ pháo kích bị phá vỡ, nghe nói có hai người lính Thủy Quân Lục Chiến bị tử vong. Quyên cũng sợ điếng, người như tê đi, không cảm giác. Mãi đến quá hai giờ chiều chiếc “chinook” đầu tiên từ từ đáp xuống, những người lính Mỹ yêu cầu ai có hành lý cồng kềnh phải bỏ lại để di chuyển được nhiều người hơn. Lại một màn dở khóc, dở cười, valise, hòm xiểng vất tung tóe suốt dọc đường từ phòng đợi đến chỗ lên máy bay. Dân đứng xếp thành hàng, họ cứ đếm đủ sáu chục người cho lên một chiếc trực thăng, cứ như thế hết chiếc này bay đi lại chiếc khác đáp xuống, số người chờ đợi vơi dần, lúc này Quyên lại đau thắt tim khi nghĩ đến gia đình mình, có ai xét giấy tờ gì nữa đâu. Tưởng đã yên, nào ngờ khi lên máy bay Quyên mới thấy không khí còn căng thẳng, hai chàng xạ thủ TQLC ngồi chĩa hai khẩu đại liên xuống đất để sẵn sàng ứng chiến. Dù đã ở trên cao mà khi ra gần tới Vũng Tàu vẫn còn bị Việt cộng ở dưới bắn lên. Ra đến ngoài khơi mọi người mới thở phào yên chí, tuy nhiên vẫn thấy nháng lửa của súng đạn trong đất liền bắn ra.

Ngồi trong lòng phi cơ, nhìn qua khung cửa sổ, dưới kia, những chiếc thuyền con nổi lều bều, dầy đặc trên mặt nước. Cũng may có những chiếc xà lan lớn của Mỹ đậu rải rác để những chiếc thuyền mong manh ấy có chỗ bám vào, người ta leo lên rồi cứ đầy một chuyến là họ đưa ra Đệ Thất Hạm Đội của Mỹ còn bỏ neo ngoài khơi và cũng may bấy giờ là Tháng Ba ta biển lặng như các cụ xưa đã có câu"Tháng Ba bà già đi biển". Ngoài những chiếc thuyền nhỏ bập bềnh như những chiếc lá tre, một đoàn tàu lớn hơn, nối đuôi nhau chạy âm thầm, lặng lẽ với những bóng người li ti nhốn nháo trên boong, Quyên chắc đó là những tàu của Hải quân Việt Nam. Quyên nhớ chú Khánh, một thiếu tá Hải Quân đã hứa với bố cho tên gia đình nàng vào danh sách của chiếc HQ1 và dặn bố hãy sửa soạn sẵn sàng vì bất cứ khi nào được lệnh là tàu sẽ nhổ neo. Lạy Trời, lạy Phật cho cả nhà lên kip trên một trong những chiếc tàu này. Cả đêm không ngủ nên Quyên mệt mỏi thiếp đi. Chả biết bao lâu Duy khẽ lay gọi nàng, chiếc trực thăng đã đậu xuống sân bay của chiếc hàng không mẫu hạm khổng lồ giữa biển. Trời mênh mông, nước mênh mông, mặt trời đỏ rực đang từ từ lặn xuống phía xa, thế rồi quả cầu lửa biến thật nhanh còn lại một vùng chân trời rực sáng. Qua một số thủ tục giấy tờ và khám xét về an ninh, mọi người được chuyển sang một chiếc tàu lớn, loại tàu chuyển vận của quân đội Hoa kỳ, màn đêm đã buông xuống tự lúc nào.

- Cô Quyên, dậy đi ăn sáng, cô Quyên!

Tiếng con bé Hạnh lôi Quyên về thực tại. Quyên thấy mình đang nằm trong chiếc lều vải lớn, trên khoang dưới của cái giường quân đội hai tầng với bé Hạnh, Duy nằm tầng trên với bé Hiếu. Chiếc giường kế bên, ông bà Tân, bố mẹ Duy nằm tầng dưới và vợ chồng Dương nằm tầng trên. Chập choạng tối hôm qua, tàu cặp bến Subic Bay, khi lên bờ mỗi người được phát một gói bánh sandwich và một hộp nước trái cây, Quyên thấy miếng bánh ngon vô cùng sau mấy ngày ăn uống khô khan và đi lại thật thoải mái sau những ngày bị tù túng trên tàu. Trời nhá nhem tối nên Quyên chỉ thấy những lều vải chập chùng, san sát nhau. Sau một số thủ tục thông thường, những người lính Mỹ phát thêm cho dân di tản một số vật dụng cần thiết, áo quần, chăn màn...rồi đưa tất cả vào những chiếc lều vải này.

Cả đoàn người theo những bảng chỉ dẫn đến lều thực phẩm để lãnh phần ăn. Quyên cố gắng nhìn quanh để tìm người thân. Trên những thân cây lớn dọc đường đi, những chiếc đĩa giấy viết tên hoặc những lời nhắn gọi được gắn lên, nàng chăm chú xem tất cả mà chẳng thấy tên quen. Nhìn ông bà Tân, Quyên nghĩ đến ánh mắt rơm rớm của cha mẹ nhìn theo khi nàng quay lại lần cuối, nàng thương và nhớ cha mẹ vô cùng.

Mấy ngày trên đảo cứ đến giờ thì xếp hàng đi ăn rồi đi bộ qua hết dãy lều này đến dãy lều kia, dọ hỏi tứ tung tìm tung tích gia đình. Quyên nhớ lại khuôn mặt, đặc tính của từng người thân. Cha mẹ già đã đến tuổi về hưu; không biết anh Tánh, người yêu của chị Vân,  sĩ quan cấp tá, đang hành quân miền Trung có về kịp không; gia đình chị Vi ra sao với con bé chưa đầy hai tuổi; Huy, Hoàng, Mai , Quỳnh, gánh nặng đè lên vai ông cụ.  Những ngày cuối Tháng Tư mặt cha nàng như xạm lại, người dộc đi vì lo nghĩ.  Anh Tùng, chồng chị Vi hốt hoảng sang báo tin “Phải đi thôi bố ạ, tình hình nghiêm trọng lắm rồi”.  Đi, Đi, biết là phải đi nhưng đi làm sao, đi cách nào. Gia đình thanh bạch, đông con, nuôi đủ từng ấy miệng ăn đã vất vả lắm rồi, làm gì có tiền bạc dư giả mà đóng tiền để đi.  Còn một hy vọng cuối cùng là lời hứa của chú Khánh, chú sẽ giúp gia đình đi bằng tầu của Hải Quân.

Hằng đêm trên đảo Quyên chỉ biết nhìn lên cao khấn nguyện Trời Phật, Tổ Tiên, Ông Bà Nội Ngoại phù hộ cho gia đình nàng đi được và có ngày đoàn tụ đại gia đình.

Đỗ Dung

 

 

03 Tháng Sáu 2009(Xem: 69871)
Nơi đây cũng có dòng sông Tình em chỉ chảy trong lòng sông xưa...
02 Tháng Sáu 2009(Xem: 18463)
Xe đã về bến…chợ ABC bình yên vào lúc 9 giờ tối Chúa Nhật 19 tháng 8. Cám ơn quý Thầy Cô và Ban Tổ Chức Hội CHS Ngô Quyền đã tạo được một chuyến đi “làm nên lịch sử” nối kết hai miền Nam Bắc về chung một mối, một nhà.
02 Tháng Sáu 2009(Xem: 37704)
Ba mươi năm sau, bên đời lưu lạc, ở tuổi nửa đời người, các cô, các bé ngày xưa mới biết một số Thầy Cô cũ đã từng là học trò Ngô Quyền như mình. Dù muộn màng, “Một góc Thầy Trò” xin được giới thiệu “Những CHS NQ trên bục giảng” để vinh danh các CHS NQ cũng là các Thầy Huỳnh Quan Phận, Diệp Cẩm Thu; các Cô Hà Thị Nhung, Liêng Tuấn Tài, Phạm Thị Hạnh.
27 Tháng Năm 2009(Xem: 86903)
  Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập trường, chúng ta quả thực rỏ ràng thấy được: Gốc cây trường trung học Ngô Quyền đã có nhiều cành ngọn và Nguồn trường xưa đã tỏa rộng khắp nơi.
26 Tháng Năm 2009(Xem: 37550)
Dưới đây là lá thư của CHS NQ Võ Thị Tuyết Mai, và những bạn bè, đồng nghiệp đã gửi cho Cô Ma Thị Ngọc Huệ, khi được tin Thầy Nguyễn Phong Cảnh từ trần vào ngày 4 tháng 1 năm 2006 tại California.
23 Tháng Năm 2009(Xem: 32676)
Trong đại gia đình Ngô Quyền hầu như ít nhiều ai cũng biết đến Thầy Vũ Khánh Thành. Thật vậy, ngoài lãnh vực giáo dục, từng là Giáo sư dạy môn Triết học tại trường Ngô Quyền chúng ta năm xưa. Từ lúc định cư tại Anh Quốc đến nay, Thầy không ngừng tích cực dấn thân hoạt động trên bình diện xã hội, văn hóa và chính trị cho cộng đồng Việt Nam tại đây.
17 Tháng Năm 2009(Xem: 67457)
Tình ta như đóa hoa quỳnh Đêm về chớm nở cuộc tình phai mau
17 Tháng Năm 2009(Xem: 67554)
Giáo đường xưa em theo anh xin lễ Nhưng bây giờ đường vắng chỉ mình em
15 Tháng Năm 2009(Xem: 77611)
Ở Việt Nam, mùa hè bắt đầu với những cành phượng đỏ nở rực cả góc trời, với tiếng ve kêu ra rả buồn xót xa, thì ở đây chỉ có hoa “jacaranda” và nắng ấm. Không biết từ bao giờ tôi đã yêu thích màu hoa “jacaranda”, thích ngang qua những con đường có trồng hoa rợp bóng, nhìn những cánh tím nhỏ li ti trải đầy trên đất, thêu từng mảng trên không, tôi cảm thấy dường như mình đang đi trong một giấc mơ.
14 Tháng Năm 2009(Xem: 74857)
Cha tôi cũng thường nói nhiều người trên đời này ưa làm anh hùng đến nỗi quên rằng mình có một bà mẹ. “Úi trời, làm anh hùng mà không có mẹ thì làm anh hùng mà chi!”
07 Tháng Năm 2009(Xem: 81947)
Kính mời Thầy Cô, mời anh chị, mời bạn cùng đọc thư của anh Trương Đức Hoàng để thấy tình nghĩa Thầy Trò (chắc đã trở thành “đồ cổ” ở Việt Nam hiện nay), và để tìm lại hinh ảnh “con dốc Ngô Quyền trần ai khoai củ” mà hầu hết chúng ta đã gò lưng đạp xe mỗi ngày để đến ngôi trường Trung học Ngô Quyền thân yêu, bây giờ chỉ còn trong trí tưởng…
30 Tháng Tư 2009(Xem: 37186)
Được sự đồng ý của tác giả – CHS NQ Nguyễn Ngọc Xuân - một bức thư rất cảm động gởi cho Thầy giáo cũ (Thầy Nguyễn Văn Phố) , “ Một góc Thầy Trò ” xin mời bạn cùng đọc lời tâm tình của một học sinh rất giỏi với Thầy giáo dạy Toán thời anh Xuân còn ngồi ghế NQ.
21 Tháng Tư 2009(Xem: 64193)
Biên Hùng xa vắng đã lâu Về đây bổng nhớ còn đâu thuở nào...
19 Tháng Tư 2009(Xem: 70309)
Buồn ơi, sao chẳng nên lời Mà trong đáy mắt một trời thương đau! Kiếp sau xin giữ đời nhau, Thay ân tình đã đi vào thiên thu…
19 Tháng Tư 2009(Xem: 68013)
Có đôi khi, tôi nằm nghe tiếng khóc buồn rầu như lời kinh vực sâu rót vào lòng, thương đau!
14 Tháng Tư 2009(Xem: 88000)
Cám ơn trận mưa đêm nay, đã đưa tôi trở về thăm lại những nhánh sông đời đã từ lâu rẽ nguồn, khuất lối. Mưa ở quê người chắc không sao bằng mưa ở quê nhà, nhưng dù là kẻ lạ, cũng xin được tri ân những giọt mưa đã làm tươi mát, rực rỡ thêm phần đất mà biết bao người Việt tha hương đã chọn làm nơi trú ẩn và làm một cõi để đi về.
08 Tháng Tư 2009(Xem: 70032)
SÁNG Thức giấc buồn thiu. Mưa rơi hiu hắt Người qua đìu hiu Lòng vắng tiêu điều!
08 Tháng Tư 2009(Xem: 65375)
Tình cứ đến, cứ như chồng vở cũ, Mở từng trang là từng chữ… yêu người. Cho ta viết bài hoan ca vô tận, Cho người về nhớ mãi phút thanh xuân!
07 Tháng Tư 2009(Xem: 66290)
Anh làm sao hiểu được. Những cánh buồm ký ức có thể mang chở tình yêu của chúng ta trở về, nguyên vẹn, tràn đầy .
06 Tháng Tư 2009(Xem: 71922)
Mưa rơi! mưa rơi! Đường chưa quên lối Sao nghe lạc loài Nhịp chân bối rối Theo mưa tìm ai?
06 Tháng Tư 2009(Xem: 67517)
Tháng ba hương bưởi thơm nồng Bỗng tha thiết nhớ một dòng sông xưa. Công viên dưới bóng hàng dừa Em, anh tình tự buổi trưa thuở nào.
06 Tháng Tư 2009(Xem: 67337)
Lần cuối gặp em lúc lập Đông, Đồn anh đóng mãi tận Bình Long. Thân trai chinh chiến đâu ai biết, Em ở Đồng Nai mãi ngóng trông.
31 Tháng Ba 2009(Xem: 69451)
Nắng reo bài tháng ba Lên bát ngát hoa vàng Trong khu vườn êm ả...
30 Tháng Ba 2009(Xem: 71643)
Ngày đầu một năm giở tờ lịch mới lòng như lá rơi chờ cơn bão nổi.
29 Tháng Ba 2009(Xem: 67268)
Biên Hòa giờ này còn đâu trường cũ. Một thuở hồn nhiên, ấp ủ tình đầu! Em ở bên này, tìm trong ký ức, Khung cửa, bậc thềm, góc lớp…chìm sâu!
29 Tháng Ba 2009(Xem: 66054)
Ở một góc đời em đã có, Những ô cửa nhỏ, bậc thềm quen. Sân nắng giờ chơi, trường lớp cũ. Quay lưng, còn nhớ thuở êm đềm?
29 Tháng Ba 2009(Xem: 69254)
Mỗi ngày em liên tưởng đến những chuyến tàu sẽ mang anh đi, sẽ trả em về, và em khóc...
27 Tháng Ba 2009(Xem: 70600)
Tình nồng hương đượm mong manh, Dẫm chân ta bước cuộc tình lỡ duyên!