Vũ không trả lời tôi. Anh bưng ly cà phê lên chiêu một ngụm.
“Không khí ở đây êm đềm quá nhỉ?”
“Nhưng mà ở ngoài kia, anh có biết mỗi căn nhà của bốn triệu dân thành phố này đang có bao nhiêu là sóng gió. Cả cái miền Nam này biết bao nhiêu là tủi nhục xót xa, chia lìa và chết chóc.”
“Anh đừng quên cả miền Bắc từ năm Năm Mươi Tư mười mấy triệu con người cũng đã sống như thế. Sống như thế gần ba chục năm trời rồi. Và không biết còn đến bao giờ nữa...”
“Như vậy theo anh, chọn ở lại phải chăng là để chịu đựng một đời sống như trong một trại súc vật?”
“Tôi không nghĩ vậy. Chọn ở lại có nghĩa là tôi không muốn nhìn thấy cái đất nước này là một trại súc vật.”
“Liệu có ai làm nổi chuyện này không?”
“Liệu còn có con người nào chịu suy nghĩ và muốn làm điều đó không?”
Tôi nhìn Vũ. Đôi mắt anh đỏ, hai con mắt lấp lánh màu xanh trong. Cái vẻ thư sinh của anh đã đánh lừa tôi. Vũ là một con người dũng cảm.
“Có lẽ tôi phải đi.” Tôi nói với Vũ, sau khi đặt tiền lên mặt bàn.
“Bao giờ anh lên đường?” Vũ nhìn thẳng vào mắt tôi, “Tôi hỏi câu này không tế nhị, nhưng tôi muốn từ giã anh... không biết lần sau tôi vào Sài Gòn tôi còn có dịp nào gặp lại anh nữa không?”
“Chưa. Tôi không đủ phương tiện để đi. Nhưng nếu gặp cơ hội, chắc tôi sẽ không chần chờ đâu.”
“Chúc anh Thăng may mắn.” Vũ đứng dậy bắt tay tôi.
“Còn anh, anh muốn tôi chúc điều gì?”
“Chúc cho tôi có thì giờ và không ngồi tù.”
“Xin chúc cho anh như vậy đi!”
Tôi đứng dậy, bắt tay Vũ.
“Anh có muốn tôi đưa anh về không?”
“Cám ơn, tôi có xe!”
Tôi nhìn theo Vũ đẩy xe ra cổng. Hai tay giữ ghi đông, chân trái đặt trên pê đan, anh nhấp nhấp lấy đà và vòng chân phải qua bánh sau. Vũ đạp xe về phía ngã tư Duy Tân.
Tôi không biết rằng đó là lần cuối cùng tôi gặp anh.
Vừa kéo chốt cổng bước lên thềm sân, tôi nhìn thấy mấy bao thư nhét giữa bản lề cửa. “Quỳnh!” Ý nghĩa đầu tiên của tôi đó là những lá thư của Quỳnh. Không thể là thư của ai khác. Mấy bữa nay đêm nào nằm mơ tôi cũng thấy cả căn buồng ngủ tôi tràn ngập những lá thư của Quỳnh. Những lá thư với nét chữ cứng và mạnh, và nhọn,... những tấm ảnh màu chụp Quỳnh đang đứng trước một dãy nhà lụp xụp của trại tị nạn, ảnh Quỳnh đang bế con chen chúc xếp hàng giữa một dòng người, đứa bé còi cọc bám vào bầu ngực lép của một bà mẹ xanh xao. Thư của Quỳnh, đó là nỗi ám ảnh của tôi. Tôi cúi xuống. Có tất cả ba cái. Một cái có dấu ấn bưu điện Hoa Kỳ, một cái có con tem lạ hoắc. Và một cái ở Nha Trang.
Không thư nào có dòng chữ của Quỳnh. Tôi không vội vàng. Tôi mở cửa vào nhà. Nhà trống, ẩm mốc, lạnh lẽo. Tôi ngồi xuống chiếc ghế mây, gác hai chân lên vì cửa sổ. Tôi lật qua lật lại từng bao thơ.
Thư Hoa Kỳ của Uyên. Thư Nha Trang của bà chị dâu. Cái thư kia lạ quá tôi đoán không ra. Bao thư đề tên và địa chỉ người gửi. Chữ viết có vẻ là của một người ngoại quốc hơn là của một người Việt Nam.
Tại sao không có thư của Quỳnh?
Tại sao? Tại sao?
Tôi không hiểu. Tôi không có câu trả lời.
Tôi để nguyên cả quần áo và dép ngã xuống giường, mấy lá thư bỏ trên ngực, hai tay vòng xuống ót. Tôi chưa muốn đọc thư ngay.
Tại sao Quỳnh không biên cho tôi một chữ? Bao nhiêu người vượt biên chỉ hai ba tháng sau là người ở nhà nhận được tin, tại sao tôi không nhận được một chữ nào của Quỳnh? Em còn sống hay em đã chết? Hải tặc? Cá mập và biển cả? Em đã cố quên tôi, đã xóa tôi trong trí nhớ em hay em đã bị những tên cướp biển Xiêm La hãm hại đưa vào đất Thái bán cho...? Hay em đã là mồi ngon của cá mập, và mộ chí em là cái đại dương bao la xanh thẳm kia? Tôi mở lá thư của Uyên. Thư của một người con gái đã một thời chia sẻ da thịt cùng tôi. Uyên. Bà Phan. Ông Phan. Quyền lực và sắc đẹp. Bàn tay mập, mềm, ướt rịn mồ hôi của ông Phan. Cái thư viện nhỏ âm u đầy sách vở. Bức tranh Van Gogh. Tác phẩm Sứ Quân của Niccolo Machivelli. Uyên. Tấm thân mềm mại nóng hổi ngọn lửa của da thịt. Hình như lúc đó tôi có trong tay ôm cả Uyên và Quỳnh. Tôi có một tình yêu đầy nhục cảm. Tôi có sự dâng hiến và cả sự thụ nhận. Tôi tưởng như mình luôn luôn là một cái gì tràn đầy. Đời sống tôi thuở đó không có một lỗ hổng để cần phải lấp. Đời sống tôi bây giờ không có một cái gì dù nhỏ nhoi để có thể đặt vào một chỗ khiêm tốn trong cái lỗ hổng kia. Tôi xé lá thư. Nắng chiều hắt qua song cửa sổ chiếu dọi lên tờ thư. Thư viết khá dài nhưng chia làm hai phần rõ rệt. Phần bà Phan gửi cho tôi và phần của Uyên gửi cho Quỳnh. Bà Phan hỏi thăm gia đình tôi hiện nay sống ra sao, tôi và Quỳnh đã có cháu nào chưa. Tôi có ý định “đi thăm bác Phan” không. Cần bao nhiêu để đi bà sẽ gửi. Bà viết bóng gió cho tôi biết là mọi phí tổn cho chuyến đi của gia đình tôi bà sẽ chịu, miễn là tôi và Quỳnh có thể đến thăm được hai bác Phan. Cuối thư bà cũng nhắc là nếu ai nhặt được thư này xin làm ơn trao lại giùm cho Trần Lâm Thăng trước ở địa chỉ này này... “Bác nhớ cháu lắm! Bao giờ bác cũng nghĩ tiếc cho cháu, tiếc cho cái sự bướng bỉnh kỳ cục của cháu. Giá mà cháu nghe lời bác có phải bây giờ đã yên thân không!”... Bà Phan đã viết như vậy. Phần gửi Quỳnh là của Uyên. Uyên cho biết cô đã đi học lại và đã ra trường, đã đi làm. “Bây giờ em đã trưởng thành rồi!” Mùa đông ở Virginia chán lắm. Tuyết, tuyết và tuyết. Ở xứ nóng người ta cứ mở mình ra, còn ở xứ lạnh, người ta luôn luôn thu mình lại.
Uyên nói tuổi trẻ đôi khi có những hành động điên rồ, nhưng bao giờ nghĩ lại những hành động điên rồ ấy cũng thấy thích, không tiếc nuối, không ân hận. “Có lúc em đã yêu anh Thăng. Tưởng chừng nếu không có anh ấy chắc em sẽ chết mất. Nhưng mà, chị thấy không, bây giờ em vẫn sống. Có lẽ em sẽ lấy một người chồng Mỹ. Đàn ông Mỹ dẫu sao vẫn dễ thở hơn. Chúc Quỳnh hạnh phúc bên một ông chồng đầu óc lúc nào cũng như một người đi trên mây!” Cũng như thư bà Phan, Uyên hỏi thăm Quỳnh có cháu nào chưa, biên thư cho cô, cô sẽ gửi quà cho cháu. “Ở bên này quần áo trẻ con rất đẹp. Nếu Quỳnh sanh con gái đặt tên là Uyên nhé!”
Tôi nhớ in hình lúc quen Uyên tôi chưa bao giờ nghe cô gọi tôi là người đi trên mây. Uyên chỉ gọi tôi một lần là kẻ tà đạo. Và cái buổi tối ở ngôi biệt thự của ông Phan, trong căn phòng riêng của tôi với cửa sổ mở ra đã thấy những cành lá của cây trứng cá thò vào kêu gọi, chúng tôi yêu nhau như hai con thú hoang. Và khi Uyên gối đầu trên vai tôi, những sợi tóc ngắn làm tôi nhột, cô nói, “Này, kẻ tà đạo, em chỉ muốn giết anh thôi, tại vì anh là của em, phải không?” Lúc đó Uyên đã cắn gần như nát vai tôi. Những dấu răng của cô cắm sâu vào da thịt tôi, rướm máu, cả một tuần lễ sau vẫn còn bầm tím. “Để cho anh nhớ rằng anh là của em, luôn luôn là của em, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu cũng vẫn là của em!” Vậy mà,... không, cũng chẳng làm sao. May mà cô ấy vẫn còn nhớ đến mình, dù chỉ là nhớ bằng chút trí nhớ khiêm tốn lạnh nhạt.
Cái thư thứ hai là của bà chị dâu tôi ở Nha Trang. Chị cho biết chị vừa ra Bắc thăm thằng cháu lớn. Đi tàu lửa Thống Nhất, khổ cực lắm, bị cướp giật, bị xô đẩy, quà thăm nuôi cho cháu bị vơi đi một phần vì bị bọn ăn cắp giật trước mặt chị, ngay dưới chân chị. Đường đến trại giam của cháu, chị phải đi bằng xe bò. “Thằng Hải ốm tong teo như một bộ xương cách trí. Mấy lần gửi quà bằng bưu điện nó không nhận được, vì trại A và trại B có hai tù cải tạo cùng tên là Trần Lâm Hải, cho nên quà của Hải ở trại A đều được trao cho Hải ở trại B. Vì vậy, lần nào gặp cháu, hai mẹ con chỉ còn có nước mắt, mà thật ra cũng chả còn dư nước mắt đâu mà khóc nữa. Chị nói nhưng mà Hải nào cũng là con cháu và anh em chúng ta, thằng Hải nhà mình ăn hay Hải khác thì cũng vẫn là những con người ‘ngụy’ đang lâm nạn của chúng ta thôi. Sau đó hai mẹ con ôm nhau cười.” Chị cũng kể một câu chuyện thương tâm mà chị nghe được trên đường từ Bắc trở về. Nó còn địa ngục hơn là địa ngục chị đang sống.
(Còn tiếp)