Hơn một thế kỷ trước, đầu mùa Đông năm 1897, một cô bé tám tuổi nghiêm chỉnh đến hỏi cha: - Ba ơi, ông Santa Claus (ông già Noel) có thật không? Câu hỏi đơn giản nhưng làm Tiến sĩ Phillip O'Hanlon không biết cách trả lời. Ông hỏi lại cô con gái Laura Vỉginia O'Hanlon mới học lởp ba của mình: - Tại sao con lại hỏi như vậy? - Vì bạn của con ở trường nói là ông Santa Claus không có thât. Ba cô bé Laura Vỉginia đăm chiêu suy nghĩ. Ông hiểu cô bé không còn quá ngây thơ để tin tất cả những điều người lớn nói mà không suy luận, nhưng ông cũng không muốn làm tan biến thế giới hồn nhiên của con. Sau cùng ông trả lời: - Ba đề nghị con nên viết thơ hỏi báo "New York Sun" (một tờ báo có uy tín ở khu nhà giàu Manhattan nổi tiếng của New York, nơi bé Vỉginia chào đời). Nếu họ bảo là Santa Claus có thật thì con không còn phải nghi ngờ thắc mắc gì nữa. "Thắc mắc lớn" của một cô nhỏ tám tuổi làm Virginia ngồi vào bàn học, viết một cái thư ngắn có câu hỏi quan trọng "Ông già Noel có thật hay không?" gởi đến tờ New York Sun. Cái thư ngắn chấm dứt bằng một sự khẩn cầu "xin vui lòng nói cho cháu biết sự thật" Người thư ký tòa soạn mở cái thư mỏng dính có nét chữ con nít ra, và vì thư không có tên người nhận cụ thể, ông Francis Church, người chịu trách nhiệm bài vở của tờ báo phải trả lời câu hỏi rất đơn giản mà không một người lớn nào có thể làm hài lòng cả người thắc mắci lẫn người trả lời. Lúc đầu, ông Francis muốn trả lời bằng sự thật cho cô bé tám tuổi ký tên trên thư là Virginia biết là Santa Claus chỉ là một biểu tượng trong huyền thoại, được người lớn dựng lên để muốn trẻ con ngoan hơn, và có một thế giới tuổi thơ thật sự hồn nhiên, êm đềm. có thêm niềm tin ở cuộc sống rằng mình cứ sống tốt đẹp thì sẽ được đền bù xứng đáng. Nhưng rồi ông Francis nhớ lại thời gian nội chiến của Mỹ (American Civil War 1861-1865) giữa mười một Tiểu bang miền Nam có nhiều nô lệ da đen nhất nước Mỹ với những tiểu bang còn lại. Thời gian đó không những nước Mỹ chỉ thiệt hại về tài sản và nhân mạng của cả hai sắc dân di cư từ Âu Châu và Phi Châu, mà hy vọng và niềm tin cũng không còn. Ông hiểu niềm tin quý vô cùng, có niềm tin người ta có thể làm được nhiều thứ tưởng như quá sức mình. Hơn nữa, ông muốn cô bé Virginia nào đó kéo dài được thêm niềm tin thánh thiện ít nhất là thêm một năm nữa, và có được niềm cảm hứng cho cả cuộc đời trước mặt của cô. Đôi khi vì lợi ích của con nít, người lớn vẫn phải nói dối. Thế là ông trả lời cho bé Virginia là ông già Noel có thật. Thư trả lời được đăng trên một cột báo nhỏ xíu nằm khiêm nhường dưới những câu trả lời khác thực tế hơn cho độc giả người lớn, nhưng không những chỉ làm cho bé Virginia vui, mà còn làm cho cả trăm ngàn em bé còn ở bậc Tiểu học hớn hở như vừa tìm lại được một vật quý giá nhất trên đời vì "Yes, Virginia, there is a Santa Claus" Khỏi phải nói, bé Laura Virginia O'Hanlon hớn hở đem tớ báo vô trường, trịnh trọng chứng minh cho các bạn cùng lớp là Santa Claus có thật. Vì tờ báo tiếng tăm "New York Sun" và ông Chủ bút hiểu rộng biết nhiều đã trả lời như vậy rành rành trên giấy trắng mực đen. Thư trả lời nằm khiêm nhường ở trang trong ,cuối một cột báo nhỏ nhoi không quan trọng vậy mà có ảnh hưởng đến cả triệu em bé không những chỉ ở Manhattan, New York mà còn ở khắp nước Mỹ, và lấn qua cả nước láng giềng Canada nói cùng ngôn ngữ. Dĩ nhiên, sau này lớn lên, cô nhỏ Virginia hiểu mặc dù ông già Noel không có thật trên đời nhưng thế giới tuổi thơ thần thánh của cô và cả triệu em bé được kéo dài thêm ít nhất là một năm và quan trọng hơn hết, niềm tin về điều tốt đẹp được củng cố vững chắc, nên Virginia vẫn trân trọng giữ gìn thư trả lời trên báo xác nhận, "Yes, Virginia, there is a Santa Claus" Rồi như quy luật tự nhiên "what's going up, will be down", cô Virginia lớn lên với niềm tin được vun xới bởi một ông Chủ bút tờ báo địa phương không quen biết, thành một nhà giáo trong suốt 47 năm, luôn luôn tìm cách củng có niềm tin của học trò và trẻ thơ vào cuộc đời. Bà Laura Virginia O'Hanlon Douglas mất năm 1971 trong một nhà dưỡng lão ở tiểu bang New York, quê hương chôn nhau cắt rốn của mình và để lại một trang báo đã ngả màu vàng úa có câu trả lời của ông chủ bút báo New York Sun năm xưa cho cô cháu ngoại duy nhất. Trong số đồ nhà dưỡng lão giao lại cho cháu ngoại của bà cụ Laura Virginia sau khi bà cụ qua đời, còn có một hộp lớn thư từ của rất nhiều em bé khắp nơi gởi đến Virginia hỏi về sự hiện diện của ông già Noel trên đời có thật hay không? Bà Virginia, suốt cả cuộc đời, đã nối tiếp công việc của người trả lời thư cho mình năm xưa, ông Francis Church, trở thành một sứ giả gieo rắc niềm tin, hy vọng và niềm cảm hứng cho trẻ em. Mãi cho đến đầu năm 1972, khi bốn sinh viên khoa báo chí tình cờ đọc tiểu sử cuộc đời của bà cụ 82 tuổi Virginia trên một trang báo của tờ New York Times vào dịp Christmas, mở đầu bằng câu "Yes, Virginia" nói về thái độ lạc quan và tin tưởng rằng khi mình làm điều tốt sẽ gặp việc tốt (như thuyết nhân quả của đạo Phật). Bài báo tạo được nhiều cảm xúc trong lòng bốn sinh viên vứa bước vào tuổi hai mươi, họ quyết định lập một công ty nhỏ có tên Elizabeth Press, tự xuất bản tác phẩm đầu tay là một quyển sách cho trẻ em có tựa là "Yes, Virginia" . Quyển sách bán khá chạy vi thời đó không có các trò chơi điện tử, trẻ em đọc sách nhiều hơn bây giờ, nhưng "Yes, Virginia" không thật sự nổi tiếng cho đến khi các tác giả đưa tác phẩm đầu tay của họ đến công ty phim ảnh kỳ cựu Warner Brothers, thuyết phục các đạo diễn dựng thành một phim truyền hình dựa trên câu hỏi của cô bé Virginia và câu trả lời của ông Chủ bút Francis cả trăm năm trước. Lần trình chiếu đầu tiên năm 1974 dưới hình thức phim hoạt họa của con nít , được một giải thưởng Emmy của các show truyền hình vì nội dung và ý nghĩa của việc củng cố niềm tin cho trẻ thơ. Đến lúc đó, kỹ nghệ điện ảnh thấy được viễn ảnh lợi nhuận tử quyển sách "Yes Virginia", họ nhảy vào khai thác, kéo theo cả các Công ty bán lẻ lớn như Macy's vào việc biến câu chuyện nhỏ của cô bé Laura Virgina từ cuối thế kỷ 19 thành một cách quảng cáo hữu hiệu nhất lôi kéo khách hàng đến cửa tiệm trong mỗi dịp Giáng sinh. Trầm lặng hơn, nhưng mang nhiều ý nghĩa hơn là ở một góc phòng truyền thống của phân khoa Báo chí trường Đại học nổi tiếng Columbia (ở vùng Manhattan, sinh quán của Virginia; và là nơi đào tạo ông chủ bút Francis Church thành một nhà báo có uy tín), hàng năm mỗi dịp Christmas, người ta vẫn để một em bé tám tuổi đọc lá thư của cô nhỏ Vỉginia nâm xưa, và một nhà báo đọc câu trả lời của ông Francis như là một cách tưởng niệm hai nhân vật chính đã vô tình tạo nên cả một "kỹ nghệ kiếm tiền" từ câu hỏi và trả lời đơn thuần dựa trên niềm tin và tấm lòng của họ. Giáng sinh năm 1974, đúng vào năm cả nước Mỹ bắt đầu biết đến câu chuyện về niềm tin của cô nhỏ Virginia ở New York xảy ra vào cuối thế kỷ 19 qua bốn sinh viên phân khoa báo chí, ở Biên Hòa cũng có bốn người bạn nhỏ (người lớn nhất học lớp mười một, người nhỏ nhất vừa vào ngưỡng cửa Trung học, cùng học ở một trường lớn nhất miền Đông Nam phần, bên dòng sông Đồng Nai) đạp xe mười lăm cây số đường trường mang quà đến một cô nhi viện ở chân núi Châu ThớI, Biên Hòa. Họ chỉ muốn các em bé, trạc tuổi cô nhỏ Virginia lúc viết thơ, tin rằng dù chiến tranh vẫn đang xảy ra, dù các em không còn cha mẹ nhưng cũng có những tấm lòng nghĩ đến và lo cho các em. Con nhà nghèo thường khôn sớm hơn con nhà giàu, nên các em bé bảy tám tuổi ở cô nhi viện ngoại ô Biên Hòa năm đó không thắc mắc ông già Noel có thật hay không như Virginia và các bạn cùng lớp ở khu nhà giàu Manhattan của Mỹ, nên những ánh mắt tuổi thơ chỉ sáng lên vì được quà, vì có người đến thăm. Bốn người bạn nhỏ hẹn Giáng sinh sang năm sẽ trở lại thăm các em, và các em phải ngoan, phải chăm học để có quà nhiều hơn. Lời hứa đó không bao giờ thực hiện được dù cả nhóm bạn vẫn giữ canh cánh bên lòng. Vì chỉ vài tháng sau đó là biến cố tháng 4 năm 1975, mọi thứ đổi thay, xã hội đảo lộn, cô nhi viện không còn hoạt động bình thường như trước. Một người trong nhóm bạn bị cơn lốc tháng 4 thổi qua tận Washington, tiểu bang miền Tây Bắc của Mỹ. Mỗi dịp Christmas, giữa những rộn ràng, hân hoan đón mừng lễ Giáng sinh, anh vẫn âm thầm xin lỗi những em bé mồ côi ở cô nhi viện năm nào vì đã không thực hiện được lời hứa dù rằng lỗi không phải ở anh và ba người bạn thời mới lớn. Anh tin những em bé Virginnia của Việt Nam lớn lên, hiểu được mọi chuyện trên đờI, sẽ tha thứ cho anh và cả nhóm bạn về chuyện không giữ lời hứa. Người nhỏ nhất trong nhóm, đến Mỹ cuối thập niên 80, để bù lại lời hứa không thực hiện được năm nào, đã gỏp một bàn tay trong tổ chức thiện nguyện Milkcare Foundation (http://www.milkcare.org), chuyên cung cấp sữa đậu nành cho các em nhỏ, và sách vở cho các em lớn ở các cô nhi viện rảii rác đó đây trên quê hương hình chữ S. Dù là một tổ chức từ thiện nhỏ bé, chỉ hoạt động khi những người làm thiện nguyện đã xong bổn phận với nợ áo cơm mỗi ngày,nhưng cũng được sự đóng góp của nhiều người bản xứ và những tấm lòng Viêt Nam lưu vong khẳp nơi. Một trong những cô nhi viện được tài trợ hàng nâm là cô nhi viện ở Biên Hòa, nơi mà Giáng sinh năm 1975, chắc là có nhiều em bé mồ côi mỏi mòn chờ đợi các anh chị Khối Xả hội của Trung học Ngô Quyền đến thăm. Bao nhiêu năm trôi qua, nhưng ánh mắt rạng rỡ của các em mồ côi ở cô nhi viện năm xưa vẫn soi sáng cả một ký ức của cả nhóm bạn mà sau này lưu lạc từ Đông sang Tây của nước Mỹ, mỗi lần dịp Giáng sinh nghe lại câu chuyện "Yes Virginia" giữa mùa Đông băng giá của nước Mỹ, lòng họ vẫn quay về với các em bé mồ côi ở quê nhà vẫn đang cần được sự giúp đỡ, quan tâm của người lớn để các em lớn lên có đủ niềm tin khi bước xuống cuộc đời.
Nguyễn Trần Diệu Hương Santa Clara , Christmas 2009 - Viết cho các anh chị chs NQ: PKO ở Connecticut, TTS ở Washington, NCP ở California
môn Triết được giảng dạy ở Ngô Quyền lần lượt bởi quý Thầy: Nguyễn Xuân Hoàng, Lưu Ngọc Bích, Nguyễn Văn Lan, Vũ Khánh Thành, Nguyễn Minh Lý, Trương Hữu Chí, và Nguyễn Văn Lục.
Ðặng Vũ Thiên Thanh đang theo chương trình nghiên cứu hậu tiến sĩ tại Ðại Học Harvard và làm việc tại khoa Thần Kinh của bệnh viện Ða Khoa Massachusetts.
Ôi em đã về rồi! trường cũ rêu phong kín nửa đời. Dung đã về rồi! Chiều áo xua vạt áo bay. Thôi đi mắt lệ buồn hãy đếm mưa khuya đổ thật muộn để bóng ai còn bước trên đường vắng trơn. *Xin bấm vào phần audio bên dưới để thưởng thức: DUNG VỀ- Nhạc và lời: Đào Lê Văn - Ca sĩ trình bày: Minh Quang
Sóng đã về từng cơn sóng ru bờ xa vỗ về. Còn lang thang tìm dĩ vãng bên hàng dương liễu cũ. Mình tôi đi tìm con phố quen lặng im hững hờ tà áo bay bao chiều
Thượng tuần tháng giêng trăng dẫn mẹ ra đi Đóa hồng đỏ trên ngực con hóa thành hoa trắng Vu Lan nầy trăng về trong mưa xám Trăng trở lại một mình, hoa vẫn trắng màu tang
Giáo sư Ngô Bảo Châu là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu, trong đó nổi bật nhất là công trình chứng minh bổ đề cơ bản, từng được tạp chí Time, Hoa Kỳ, xếp vào danh sách 10 khám phá khoa học quan trọng nhất của thế giới năm 2009.
Tôi tự nhủ, tôi không là kẻ độc hành từ khi rời mái trường Ngô-Quyền thân yêu. Tôi vẫn có những người bạn thân thiết ở khung trời CA, Orange County và hy vọng ngày nào đó chúng ta sẽ hội họp lại để liên hoan ngày cưới… của con chúng ta.
Dòng Đồng Nai những mùa Hè vui thú Áo trắng Ngô Quyền mơ ước Sông Seine Mộng không thành, chinh chiến đã cách ngăn Sông Seine ơi!. Nhắc chi chuyện tình buồn.
Chắc là có một lúc nào đó bình tâm, mỗi người chúng ta đều tự hỏi không biết mình đã nhận được bao nhiêu chữ từ các Thầy Cô trong suốt những năm dài cắp sách.
Đúng như trình bày trong lần trước (câu trả lời "dễ ẹt"!) đã tiên đoán rằng Tây Ban Nha sẽ " giựt" cúp vàng và Đức sẽ đá thắng Uruguay giải "an ủi" hạng ba ("thà... có còn hơn không").
Bài viết nầy của tôi như là một lời tạ lỗi gửi đến những người bạn đã quen thân từ bao năm nay cũng như những người bạn mới quen. Tạ lỗi vì tôi đã hứa với các bạn mà không thực hiện được lời hứa, tạ lỗi vì đã bỏ mất cơ hội để nói lời “chia tay”, “tạm biệt”, “good bye my friends” hay “Au revoir mon ami”.
Gặp lại Võ Hải Vương, Đặng Văn Toản, Đỗ Cao Thông, Hóa và nhiều bạn cũ của lớp 1968, lòng tôi đầy những xúc cảm nghẹn ngào. Những hình ảnh của trường Ngô Quyền năm xưa bỗng đâu lại hiện về. Những kỷ niệm của ngày tháng cũ tưởng đã yên nghĩ trong một quá khứ xa xôi nào của tiềm thức.
Trong một buổi sáng đầu tháng Bảy đẹp trời và ấm cúng, cùng dịp lễ Độc Lập Hoa Kỳ, ngày họp mặt truyền thống kỳ 9 của hội Ái Hữu Chs Ngô Quyền, Biên Hòa (3 tháng 7, 2010) đã tưng bừng khai diễn với gần 200 thầy cô và cựu học sinh NQ về tham dự
Vào hạ tuần tháng 5/2010, từ Cali em đã gửi email báo trước cho tôi biết tin em sẽ về thăm quê nhà ở Nha Trang khoảng hai tuần lễ kể từ ngày 23/05/2010, nhưng trong email em đã kín đáo không cho tôi biết là thân phụ em vừa mất và mục đích chuyến về Việt Nam lần này của em là để lo tang Cha.
Một trong hai tai nạn lớn nhất đời người vừa xảy ra với chúng tôi khi Ba vĩnh viễn bỏ cuộc đời, bỏ Mẹ và chúng tôi, Những năm gần đây, nhiều người bạn cùng thời với Ba, những người sinh vào cuối thập niên 20s đến cuối thập niên 30s của thế kỷ hai mươi lần lượt bước sang thế giới vĩnh hằng, chúng tôi đã chuẩn bị tinh thần cho ngày Ba về với ông bà, nhưng lòng vẫn đau như cắt.
Cùng với Mẹ, Cha là người có công sinh thành nuôi nấng và dạy dỗ các con dù trải qua nhiều khó nhọc. Nhưng khác với Mẹ, Cha là đàn ông nên tính trầm lặng, ít biểu lộ tình cảm hay gần gủi con cái, nói chung, nên con cái thường ít cảm nhận lòng thương yêu từ Cha như cảm nhận tình thương từ trái tim người Mẹ. Xin bấm vào các tựa bài bên dưới để thưởng thức:
chợt nhớ ba tôi đã qua đời hơn 23 năm qua, tôi chỉ là một đứa con bất hiếu để quảng đời còn lại của tôi bao ân hận và tiếc nuối vì chưa một lần nói với ba rằng “con thương ba lắm ” trong việc làm hay trong tâm tưởng…
Tôi là học sinh trung học Ngô Quyền, BH từ NK 1970-71 đến nay, 2010, cũng 40 năm rồi, nếu có chi tiết nào sai sót về ngày tháng, họ tên xin các anh, chị khóa trước và các bạn cùng khóa 1970 -77 giúp sửa lại cho chính xác.
Những nỗi niềm xếp theo sóng nằm nghiêng Cho cái nhớ rơi theo chiều thẳng đứng Biên Hoà ơi! Làm ơn giữ trường tôi ngàn năm đứng vững Chờ kim đồng hồ quay lui về mái ấm Ngô Quyền.
Phải nói rằng thơ Nguyễn Tất Nhiên là một đóng góp hồn nhiên vào đời sống thi ca của chúng ta, mặc dù chữ nghĩa trong thơ anh - nhiều bài - vẫn còn ở thể quặng mỏ của ngôn ngữ. Nó là một thứ nham thạch ròng chưa bị tính bác học của ngoại lai xâm nhập, thẩm thấu và tác hại như một vài dòng thơ Việt Nam đã và đang chảy ra trong thi ca chúng ta.
Trong biển mịt mùng quên lãng, không một vị thầy nào để thất lạc học trò mà chỉ có những người học trò phũ phàng thổi tắt trong lòng thầy ánh sáng hy vọng.
Mẹ là đề tài xưa cũ nhưng không bao giờ lỗi thời trong Thơ Văn; nhờ thế mà hôm nay, nhân Ngày Lễ Mẹ 9/5/2010, chúng ta có dịp giới thiệu trên Trang Web Nhà những bài viết ngắn qua lời văn chân thật, những vần thơ giản dị mà tràn ngập hình ảnh, hồi ức, kỷ niệm thân thương về Mẹ . Xin bấm các tựa bài bên dưới để thưởng thức:
Ngày nay, má tựa như ngọn đèn dầu trước gió, nếu một mai ngọn đèn tắt đi, e rằng cuộc đời còn lại của tôi sẽ mang nhiều ân hận và tiếc nuối. Ân hận vì không có những giây phút kề cận bên má lúc tuổi già, tiếc nuối vì không còn được một lần ăn lại món thịt nọng kho, cá trê chiên dầm nước mắm mỡ hành và nghe giọng nói của má với “ Hương vị ngọt ngào”.
Đầu thập niên tám mươi, trước những bế tắc không lối thoát, Mẹ thu xếp gởi anh chị em chúng tôi, từng đứa, vượt đại dương để đến một vùng đất tự do, ở đó không có khủng bố tinh thần, ở đó không có trại cải tạo giam giữ những người hoàn toàn lương thiện, và ở đó chúng tôi sẽ được học hành thành người.
Nhưng điều mà tôi ấn tượng về người bạn chốc lát này là lúc anh ngẩng mặt và vung tay về phía cái sân vắng lặng: “Năm ngoái, Nguyễn Tất Nhiên đứng ở nơi đây”.
Ngày đầu bước vào ngưỡng cửa Trung học của tôi không được đẹp và dễ thương như các nhà văn đã miêu tả. Tuy nhiên nó vẫn cho tôi nhiều kỷ niệm khó quên.
Đêm qua thức giấc một mình, nhìn trăng sáng tôi chợt nhớ đến ánh trăng ở VN, nhất là trăng miền biển, trông rất hiền hòa và trong sáng, nơi tôi đã sống 2 năm với nghề “gõ đầu trẻ” sau năm 1975, khi tôi vừa tốt nghiệp trường Sư phạm Sài Gòn, thời gian này đã để lại trong tôi một dấu ấn khó quên.
Thế rồi hoàn cảnh đẩy đưa, vận người đưa đẩy, tôi xa luôn quê nhà, xa luôn cái bàn học con con cạnh cửa sổ đêm đêm được dỗ dành bởi một loài hoa quen thuộc, không vương giả, không quê muà, chỉ đủ làm xao xuyến lòng tôi khi nhớ đến.
Viết bài này, người viết bày tỏ ở đây một sự nuối tiếc là: Bài viết của nhà thơ Du Tử Lê về Nguyễn Tất Nhiên đã không nói lên được tính chất phối hợp đến kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc. Đó là điều quan trọng nhất cần được nói tới.
Xuân Con Cọp lại sắp đến rồi. Mà ở cái nơi "phong trần luân lạc" nầy, Tết nhất cũng chả có gì vui. Thôi thì xin mời bạn cùng tôi nhâm nhi dăm ba câu thơ cũ, để gọi là tạm "mua vui" trong khoảnh khắc chờ đợi đón giao thừa nơi xứ lạ.
Trang WEB Nhà Ngô Quyền, trong niềm hân hoan đón mừng Năm mới Canh Dần 2010, xin trân trọng giới thiệu những vần thơ Xuân của những cây bút thân quen của Trang Nhà qua những đề tài không xa lạ có liên quan mật thiết đến mọi người. Rất mong, trong những lời thơ, câu thơ hay cả bài thơ, những người viết mang đến cho Thầy Cô và Anh Chị Em quý mến những đóa hoa Xuân đầy hương sắc. Xin bấm các tựa bài bên dưới để thưởng thức:
MẸ là hình bóng thân thương theo con suốt đời từ thơ bé đến khi trưởng thành và còn mãi mãi theo thời gian và qua cả bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông của trời đất.
C hưa có “cơ duyên hạnh ngộ” với Thầy Lê Quý Thể ở quê người, nhưng các CHS NQ, nhất là các anh chị đã từng là vận động viên của trường Ngô Quyền luôn nhớ đến ông Thầy trẻ vừa có nhiệt tâm của một nhà giáo, vừa có tinh thần quyết thắng của một người mê thể thao cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 của trường xưa.
Xin tạm biệt Xuân xưa, ngày tháng cũ. Hy vọng những chồi non, lộc mới… mang hết những ưu phiền của tôi đi thật xa, đi vĩnh viễn. Tình yêu của tôi ơi, xin ngủ yên!
Tôi chỉ nhớ mong manh rằng buổi trưa hôm ấy đứng ở sân thượng với gói quầ n áo trong tay nhìn ra phía xa, ngọn đồi huyền bí của tôi nay chỉ còn là một bóng mờ, chập chờn sau những đám khói đen mù mịt.
Vậy khi một nhà thơ, nhà văn nào đã qua đời, thì, làm ơn, nếu không vì nhu cầu nghiên cứu tiểu sử để tìm hiểu cặn kẽ về bối cảnh và điều kiện sáng tác của họ, xin đừng khai thác đời tư của họ để phục vụ cho bất kỳ một mục đích nào khác hơn là góp phần cống hiến cho đời ba điều thật đơn giản, nghe rất nhàm tai, nhưng vô cùng cao quý, đó là: Chân, Thiện và Mỹ.
Tôi nhớ câu nói của một ông anh trong vùng tôi đang sống, rằng sau khi hoàn tất một công việc, bao giờ người ta cũng thấy hai túi áo chứa đầy những lời cảm tạ và những lời xin lỗi.
Tuyết rơi thành thơ – bài thơ tặng anh! Cuộc đời chồng vợ như gió mong manh Cùng trợ lực nhau - trọn thành nguyện ước Tuyết đã tan rồi – như vậy đi anh!
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.