Ngày đầu bước vào ngưỡng
cửa Trung học của tôi không được đẹp và dễ thương như các nhà văn
đã miêu tả. Tuy nhiên nó vẫn cho tôi nhiều kỷ niệm khó quên.
Sau gần một ngày chờ đợi
trước cỗng trường để nghe đọc tên những thí sinh trúng tuyển vào
đệ Thất trường Trung Học công lập Ngô Quyền. Tôi trở về nhà với
nỗi buồn vô tận. Thật uổng công tôi miệt mài đèn sách luyện thi -
ở lớp luyện thi tôi được xếp hạng hai - và uổng công tôi hy vọng
tràn trề trong ngày thi, thày
giám thị phòng thi đã đọc bài luận của tôi và khen khá lắm. Sợ
tôi buồn vì thi rớt, ba tôi luôn an ủi, vỗ về: “học tài thi phận
con ạ!”.
Thủa nhỏ chưa biết ham chơi,
tôi dẹp nỗi buồn và xin vào trường tư thục Khiết Tâm. Đang học ở
đây được gần hai tuần -Mai Hữu- cô bạn nhỏ học cùng lớp nhất ở
trường tiểu học Tân Thành chạy đến nhà tôi báo tin -"Tao thấy
tên mày trong danh sách lớp Thất ba trường NQ, vô đi kẻo trễ”. Rồi
Trần thị Châu cũng báo cho tôi hay kèm theo dặn dò: "nhớ gặp
cô Giám thị Giàu”. Thế là tôi chuẩn bị vào trường một mình bởi
vì ba tôi bận đi làm xa.
Người chị bà con cấp tốc
đặt may thưởng cho tôi ba chiếc áo dài: một chiếc gấm màu xanh và
hai chiếc phin trắng. Lần đầu tiên mặc áo dài, tôi cảm thấy rất
ngượng ngập, khó chịu. Tôi vốn nhỏ con, ốm yếu lại không được
xinh gái chiếc áo dài lại rộng phùng phình làm tôi có cảm tưởng
dị hơn. Trường lúc này không khí rất nhộn nhịp, bận rộn. Tôi phải
chờ hơn nửa tiếng mới gặp được cô Giàu. Sau khi nghe tôi trình bày - cô
ngước lên nhìn tôi với cặp kiếng trắng kéo xệ ngang lỗ mũi-
"Danh sách ở lớp nào?” Chết thật! Tôi chỉ nhớ loáng thoáng
con số ba Huệ báo cho tôi. Ở Khiết Tâm tôi đang học lớp Thất A một.
Nghĩ là trường nào cũng giống nhau, tôi nhanh nhẩu trả lời:
-"dạ lớp Thất A ba”. –“Ở đây không có lớp Thất A ba”. Cô nhấn
mạnh và vội vàng bỏ đi. Lật đật chạy theo cô suýt nữa tôi vấp
ngã vì chiếc ống quần vừa rộng, vừa dài. Tôi đưa cô số ký danh
và họ tên nhờ cô xem lại. Cô dò vào tập hồ sơ -"lớp Thất
ba". Sau đó, cô dẫn tôi lên dãy lầu thứ nhất... lớp cuối cùng.
Lớp học lúc này chưa có giáo sư nên ồn ào như một bầy ong. Khuôn mặt
người nào cũng hớn hở, tươi cười. Tôi nhìn thấy Huệ ở bàn đầu
đang trò chuyện cùng các bạn mới. Cô Giàu dẫn tôi xuống bàn cuối cùng
và bảo: "Đây là chổ ngồi của trò lớp Thất ba ban Pháp văn”. Tôi
buột miệng: - “Thưa cô con xin học ban Anh văn" –“Lớp Anh văn
không còn chỗ trống chỉ còn lớp Pháp văn thôi." Nói xong, cô
bỏ đi. Đang ngỡ ngàng thì một bàn tay kéo tôi ngồi xuống và đẩy
tôi vào bên trong "ngồi đi
còn chọn lựa gì nữa". Nhiều giọng nói khác chen vào
-"Tui cũng xin ban Anh văn nè, rốt cuộc cũng vào đây"
-"Ban nào cũng được miễn vào trường công là ngon rồi". Sau
khi ổn định được chổ ngồi, tôi được biết cô bạn to con kéo tôi
ngồi xuống là Trần thị Lưu, nước da ngâm đen nhưng có duyên. Kế bên
là Trần Lệ Dung miệng mồm liếng thoắng, tóc cột đuôi ngựa trông
có vẽ tinh nghịch hơn. Phan thị Hà ốm yếu như tôi có chiếc mũi xinh
xinh và chiếc răng sún. Cô bạn ngồi bàn trên hay cúi xuống nhìn
tôi cười có tên đẹp cũng như khuôn mặt đẹp là Nguyễn Thu Xuân.
Từ nhà tôi đến trường NQ
bằng xe lam phải đi hai chuyến: một chuyến từ nhà đến chợ và một
chuyến từ chợ đến trường. Tôi quyết định đi học bằng xe đạp. Chưa
bao giờ đạp xe đi xa nên tôi rất hoang mang, lo sợ thứ nhất là sợ
đi qua vòng cua Công trường Sông Phố. Những tuần lễ đầu tôi phải
ngừng xe ở trước trường Mỹ nghệ, dẫn xe đạp qua bên kia đường rồi
mới dám chạy tiếp. Thứ hai là sợ vạt áo dài bị cuốn vào dây
sên, dù tôi đã cẩn thận ràng vạt áo sau vào ba ga còn vạt trước
cầm trong tay. Chiếc xe đạp của tôi loại "cà tàng" nên hay
bị sút sên, do đó tay tôi thường dính dầu nhớt và ống quần
thường bị sên "cạp" te tua. Trong nỗi khổ cũng có niềm
vui nho nhỏ. Mỗi lần tan trường, bọn học trò nhỏ chúng tôi cho xe
đạp thả dốc tự do - con dốc dài từ trường NQ dẫn đến rạp hát Biên Hùng. Có bạn gan dạ còn buông cả hai tay như làm xiếc. Từ từ quen
dần, tôi biết quẹo qua đường Hưng Đạo Vương ngang chùa Tịnh Độ để
đến trường, tránh qua công trường Sông phố lúc nào cũng ồn ào, náo
nhiệt. Giờ ra chơi, bọn tôi hay la cà đến các lớp đàn anh, đàn
chị. Dưới mắt chúng tôi các anh chị ấy là thần tượng. Nhỏ Lưu
lanh lợi nên biết nhiều... Anh X này làm trưởng lớp. Anh A có vợ
một con. Chị B là con ông Z giàu có tiếng ở Biên Hòa. Đến các bậc
giáo sư nó cũng biết nhiều điều mới lạ. Lưu chỉ tôi vợ chồng
thày Nguyễn Xuân Hoàng, nó thì thầm vào tai tôi -"mày biết
không các chị lớp lớn tương tư thày còn các anh trồng cây si cô như
điên". Nhỏ Lưu hay thổi phồng câu chuyện cho hấp dẫn nhưng điều
này tôi tin là có thật. Bỡi vì vợ chồng thày Hoàng rất đẹp. Một
hôm, vừa tan học, Lưu kéo tôi chạy xuống lầu "theo tao đến
lớp...các anh chị làm liên hoan tiễn thày Tôn Thất Long đi Pháp.” Chúng
tôi là những vị khách không được mời chỉ đứng ngoài cửa sổ dòm
ké. Hôm đó, tôi về nhà thật muộn, báo hại mẹ tôi phải ra ngoài
ngõ đứng chờ.
Vốn yêu thích thơ văn từ nhỏ
nên tôi hay tìm đọc báo chí của trường. Tôi đã đọc vỡ kịch Công
chúa Huyền Trân của thày Quýnh và ao ước sẽ viết được vỡ
kịch như thế trong tương lai. Lưu bảo tôi thày Quýnh đạo diễn cho các
anh chị lớp đệ nhất diễn vỡ kịch đó ở rạp hát Biên Hùng trong
dịp Tết. Tôi không được xem nên không biết lời nó đúng hay sai. Bấy
giờ, trước văn phòng trường có một bảng đen dùng để báo cáo
những hoạt động của trường: từ học tập-văn nghệ-thể thao đến
báo chí. Những bản tin ngắn có kèm theo hình ảnh thật sống
động. Thấy tôi dán mắt vào những tấm ảnh về buổi lễ trao giải
thưởng văn chương của trường -giải thưởng được trao cho một người con
gái có khuôn mặt đẹp và nụ cười rạng ngời-, Lưu vội reo
lên:"Tao biết chị này con ông trung úy Công, nhà có ba người
con gái Dung, Ngôn, Hạnh". Sau đó, tôi có gặp chị Dung vài lần ở
cổng trường. Tôi lén nhìn chị và âm thầm ngưỡng mộ chị mà không
ai hay.
Bây giờ, dù đang sửa soạn
bước vào ngưỡng cửa sáu mươi tôi vẫn nghe lòng mình trẻ lại mỗi khi nhớ về thủa ban đầu
vào trường Ngô Quyền. Hình ảnh con bé ốm yếu với chiếc xe đạp cũ -giọng
cười ríu rít như như chim của một đàn tiên áo trắng- tiếng guốc
khua vang trên thang lầu quen thuộc và con dốc dài thân thương thủa
nào...Tất cả dường như còn quanh quẩn bên tôi. Và cho dù nhiều năm
sau này trường Ngô Quyềncó nhiều người đẹp nỗi tiếng -tôi vẫn không bao
giờ quên được nét đẹp của chị Dung... Ôi! nét đẹp thật hồn nhiên,
ngây thơ, man dại...
Tôi rời mái trường đại học Đà Lạt để “xuống núi” hành hiệp giang hồ vào giữa năm1963. Năm với nhiều biến động nhất thời tuổi trẻ của tôi. Vậy mà nay đã ngót nghét non nửa thế kỷ trôi qua.
môn Triết được giảng dạy ở Ngô Quyền lần lượt bởi quý Thầy: Nguyễn Xuân Hoàng, Lưu Ngọc Bích, Nguyễn Văn Lan, Vũ Khánh Thành, Nguyễn Minh Lý, Trương Hữu Chí, và Nguyễn Văn Lục.
Ðặng Vũ Thiên Thanh đang theo chương trình nghiên cứu hậu tiến sĩ tại Ðại Học Harvard và làm việc tại khoa Thần Kinh của bệnh viện Ða Khoa Massachusetts.
Ôi em đã về rồi! trường cũ rêu phong kín nửa đời. Dung đã về rồi! Chiều áo xua vạt áo bay. Thôi đi mắt lệ buồn hãy đếm mưa khuya đổ thật muộn để bóng ai còn bước trên đường vắng trơn. *Xin bấm vào phần audio bên dưới để thưởng thức: DUNG VỀ- Nhạc và lời: Đào Lê Văn - Ca sĩ trình bày: Minh Quang
Sóng đã về từng cơn sóng ru bờ xa vỗ về. Còn lang thang tìm dĩ vãng bên hàng dương liễu cũ. Mình tôi đi tìm con phố quen lặng im hững hờ tà áo bay bao chiều
Thượng tuần tháng giêng trăng dẫn mẹ ra đi Đóa hồng đỏ trên ngực con hóa thành hoa trắng Vu Lan nầy trăng về trong mưa xám Trăng trở lại một mình, hoa vẫn trắng màu tang
Giáo sư Ngô Bảo Châu là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu, trong đó nổi bật nhất là công trình chứng minh bổ đề cơ bản, từng được tạp chí Time, Hoa Kỳ, xếp vào danh sách 10 khám phá khoa học quan trọng nhất của thế giới năm 2009.
Tôi tự nhủ, tôi không là kẻ độc hành từ khi rời mái trường Ngô-Quyền thân yêu. Tôi vẫn có những người bạn thân thiết ở khung trời CA, Orange County và hy vọng ngày nào đó chúng ta sẽ hội họp lại để liên hoan ngày cưới… của con chúng ta.
Dòng Đồng Nai những mùa Hè vui thú Áo trắng Ngô Quyền mơ ước Sông Seine Mộng không thành, chinh chiến đã cách ngăn Sông Seine ơi!. Nhắc chi chuyện tình buồn.
Chắc là có một lúc nào đó bình tâm, mỗi người chúng ta đều tự hỏi không biết mình đã nhận được bao nhiêu chữ từ các Thầy Cô trong suốt những năm dài cắp sách.
Đúng như trình bày trong lần trước (câu trả lời "dễ ẹt"!) đã tiên đoán rằng Tây Ban Nha sẽ " giựt" cúp vàng và Đức sẽ đá thắng Uruguay giải "an ủi" hạng ba ("thà... có còn hơn không").
Bài viết nầy của tôi như là một lời tạ lỗi gửi đến những người bạn đã quen thân từ bao năm nay cũng như những người bạn mới quen. Tạ lỗi vì tôi đã hứa với các bạn mà không thực hiện được lời hứa, tạ lỗi vì đã bỏ mất cơ hội để nói lời “chia tay”, “tạm biệt”, “good bye my friends” hay “Au revoir mon ami”.
Gặp lại Võ Hải Vương, Đặng Văn Toản, Đỗ Cao Thông, Hóa và nhiều bạn cũ của lớp 1968, lòng tôi đầy những xúc cảm nghẹn ngào. Những hình ảnh của trường Ngô Quyền năm xưa bỗng đâu lại hiện về. Những kỷ niệm của ngày tháng cũ tưởng đã yên nghĩ trong một quá khứ xa xôi nào của tiềm thức.
Trong một buổi sáng đầu tháng Bảy đẹp trời và ấm cúng, cùng dịp lễ Độc Lập Hoa Kỳ, ngày họp mặt truyền thống kỳ 9 của hội Ái Hữu Chs Ngô Quyền, Biên Hòa (3 tháng 7, 2010) đã tưng bừng khai diễn với gần 200 thầy cô và cựu học sinh NQ về tham dự
Vào hạ tuần tháng 5/2010, từ Cali em đã gửi email báo trước cho tôi biết tin em sẽ về thăm quê nhà ở Nha Trang khoảng hai tuần lễ kể từ ngày 23/05/2010, nhưng trong email em đã kín đáo không cho tôi biết là thân phụ em vừa mất và mục đích chuyến về Việt Nam lần này của em là để lo tang Cha.
Một trong hai tai nạn lớn nhất đời người vừa xảy ra với chúng tôi khi Ba vĩnh viễn bỏ cuộc đời, bỏ Mẹ và chúng tôi, Những năm gần đây, nhiều người bạn cùng thời với Ba, những người sinh vào cuối thập niên 20s đến cuối thập niên 30s của thế kỷ hai mươi lần lượt bước sang thế giới vĩnh hằng, chúng tôi đã chuẩn bị tinh thần cho ngày Ba về với ông bà, nhưng lòng vẫn đau như cắt.
Cùng với Mẹ, Cha là người có công sinh thành nuôi nấng và dạy dỗ các con dù trải qua nhiều khó nhọc. Nhưng khác với Mẹ, Cha là đàn ông nên tính trầm lặng, ít biểu lộ tình cảm hay gần gủi con cái, nói chung, nên con cái thường ít cảm nhận lòng thương yêu từ Cha như cảm nhận tình thương từ trái tim người Mẹ. Xin bấm vào các tựa bài bên dưới để thưởng thức:
chợt nhớ ba tôi đã qua đời hơn 23 năm qua, tôi chỉ là một đứa con bất hiếu để quảng đời còn lại của tôi bao ân hận và tiếc nuối vì chưa một lần nói với ba rằng “con thương ba lắm ” trong việc làm hay trong tâm tưởng…
Tôi là học sinh trung học Ngô Quyền, BH từ NK 1970-71 đến nay, 2010, cũng 40 năm rồi, nếu có chi tiết nào sai sót về ngày tháng, họ tên xin các anh, chị khóa trước và các bạn cùng khóa 1970 -77 giúp sửa lại cho chính xác.
Những nỗi niềm xếp theo sóng nằm nghiêng Cho cái nhớ rơi theo chiều thẳng đứng Biên Hoà ơi! Làm ơn giữ trường tôi ngàn năm đứng vững Chờ kim đồng hồ quay lui về mái ấm Ngô Quyền.
Phải nói rằng thơ Nguyễn Tất Nhiên là một đóng góp hồn nhiên vào đời sống thi ca của chúng ta, mặc dù chữ nghĩa trong thơ anh - nhiều bài - vẫn còn ở thể quặng mỏ của ngôn ngữ. Nó là một thứ nham thạch ròng chưa bị tính bác học của ngoại lai xâm nhập, thẩm thấu và tác hại như một vài dòng thơ Việt Nam đã và đang chảy ra trong thi ca chúng ta.
Trong biển mịt mùng quên lãng, không một vị thầy nào để thất lạc học trò mà chỉ có những người học trò phũ phàng thổi tắt trong lòng thầy ánh sáng hy vọng.
Mẹ là đề tài xưa cũ nhưng không bao giờ lỗi thời trong Thơ Văn; nhờ thế mà hôm nay, nhân Ngày Lễ Mẹ 9/5/2010, chúng ta có dịp giới thiệu trên Trang Web Nhà những bài viết ngắn qua lời văn chân thật, những vần thơ giản dị mà tràn ngập hình ảnh, hồi ức, kỷ niệm thân thương về Mẹ . Xin bấm các tựa bài bên dưới để thưởng thức:
Ngày nay, má tựa như ngọn đèn dầu trước gió, nếu một mai ngọn đèn tắt đi, e rằng cuộc đời còn lại của tôi sẽ mang nhiều ân hận và tiếc nuối. Ân hận vì không có những giây phút kề cận bên má lúc tuổi già, tiếc nuối vì không còn được một lần ăn lại món thịt nọng kho, cá trê chiên dầm nước mắm mỡ hành và nghe giọng nói của má với “ Hương vị ngọt ngào”.
Đầu thập niên tám mươi, trước những bế tắc không lối thoát, Mẹ thu xếp gởi anh chị em chúng tôi, từng đứa, vượt đại dương để đến một vùng đất tự do, ở đó không có khủng bố tinh thần, ở đó không có trại cải tạo giam giữ những người hoàn toàn lương thiện, và ở đó chúng tôi sẽ được học hành thành người.
Nhưng điều mà tôi ấn tượng về người bạn chốc lát này là lúc anh ngẩng mặt và vung tay về phía cái sân vắng lặng: “Năm ngoái, Nguyễn Tất Nhiên đứng ở nơi đây”.
Đêm qua thức giấc một mình, nhìn trăng sáng tôi chợt nhớ đến ánh trăng ở VN, nhất là trăng miền biển, trông rất hiền hòa và trong sáng, nơi tôi đã sống 2 năm với nghề “gõ đầu trẻ” sau năm 1975, khi tôi vừa tốt nghiệp trường Sư phạm Sài Gòn, thời gian này đã để lại trong tôi một dấu ấn khó quên.
Thế rồi hoàn cảnh đẩy đưa, vận người đưa đẩy, tôi xa luôn quê nhà, xa luôn cái bàn học con con cạnh cửa sổ đêm đêm được dỗ dành bởi một loài hoa quen thuộc, không vương giả, không quê muà, chỉ đủ làm xao xuyến lòng tôi khi nhớ đến.
Viết bài này, người viết bày tỏ ở đây một sự nuối tiếc là: Bài viết của nhà thơ Du Tử Lê về Nguyễn Tất Nhiên đã không nói lên được tính chất phối hợp đến kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc. Đó là điều quan trọng nhất cần được nói tới.
Xuân Con Cọp lại sắp đến rồi. Mà ở cái nơi "phong trần luân lạc" nầy, Tết nhất cũng chả có gì vui. Thôi thì xin mời bạn cùng tôi nhâm nhi dăm ba câu thơ cũ, để gọi là tạm "mua vui" trong khoảnh khắc chờ đợi đón giao thừa nơi xứ lạ.
Trang WEB Nhà Ngô Quyền, trong niềm hân hoan đón mừng Năm mới Canh Dần 2010, xin trân trọng giới thiệu những vần thơ Xuân của những cây bút thân quen của Trang Nhà qua những đề tài không xa lạ có liên quan mật thiết đến mọi người. Rất mong, trong những lời thơ, câu thơ hay cả bài thơ, những người viết mang đến cho Thầy Cô và Anh Chị Em quý mến những đóa hoa Xuân đầy hương sắc. Xin bấm các tựa bài bên dưới để thưởng thức:
MẸ là hình bóng thân thương theo con suốt đời từ thơ bé đến khi trưởng thành và còn mãi mãi theo thời gian và qua cả bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông của trời đất.
C hưa có “cơ duyên hạnh ngộ” với Thầy Lê Quý Thể ở quê người, nhưng các CHS NQ, nhất là các anh chị đã từng là vận động viên của trường Ngô Quyền luôn nhớ đến ông Thầy trẻ vừa có nhiệt tâm của một nhà giáo, vừa có tinh thần quyết thắng của một người mê thể thao cuối thập niên 60, đầu thập niên 70 của trường xưa.
Xin tạm biệt Xuân xưa, ngày tháng cũ. Hy vọng những chồi non, lộc mới… mang hết những ưu phiền của tôi đi thật xa, đi vĩnh viễn. Tình yêu của tôi ơi, xin ngủ yên!
Tôi chỉ nhớ mong manh rằng buổi trưa hôm ấy đứng ở sân thượng với gói quầ n áo trong tay nhìn ra phía xa, ngọn đồi huyền bí của tôi nay chỉ còn là một bóng mờ, chập chờn sau những đám khói đen mù mịt.
Vậy khi một nhà thơ, nhà văn nào đã qua đời, thì, làm ơn, nếu không vì nhu cầu nghiên cứu tiểu sử để tìm hiểu cặn kẽ về bối cảnh và điều kiện sáng tác của họ, xin đừng khai thác đời tư của họ để phục vụ cho bất kỳ một mục đích nào khác hơn là góp phần cống hiến cho đời ba điều thật đơn giản, nghe rất nhàm tai, nhưng vô cùng cao quý, đó là: Chân, Thiện và Mỹ.
Tôi nhớ câu nói của một ông anh trong vùng tôi đang sống, rằng sau khi hoàn tất một công việc, bao giờ người ta cũng thấy hai túi áo chứa đầy những lời cảm tạ và những lời xin lỗi.
Tuyết rơi thành thơ – bài thơ tặng anh! Cuộc đời chồng vợ như gió mong manh Cùng trợ lực nhau - trọn thành nguyện ước Tuyết đã tan rồi – như vậy đi anh!
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.