Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Đã một thời sinh viên Triết Đại học Đà Lạt

14 Tháng Chín 201012:00 SA(Xem: 44056)
GS. Nguyễn Văn Lục - Đã một thời sinh viên Triết Đại học Đà Lạt

Đã một thời sinh viên Triết Đại học Đà Lạt


nguyenvanluc_1-content

 GS. Nguyễn Văn Lục

 

Tôi rời mái trường đại học Đà Lạt để “xuống núi” hành hiệp giang hồ vào giữa năm1963. Năm với nhiều biến động nhất thời tuổi trẻ của tôi. Vậy mà nay đã ngót nghét non nửa thế kỷ trôi qua.

Thi cử hồi ấy gay go lắm. Mười người vị tất lấy được một. Vậy mà không hề nghe nói có chuyện chạy chọt đút lót. Đấy là những nét son của chế độ. Đấy là cái miền Nam của chúng ta đấy.

Phải nói chính phủ Ngô Đình Diệm đặt vấn đề giáo dục lên hàng đầu.

Trợ cấp của chính phủ cho sinh viên là 1500 đồng một tháng - bằng lương một người lính đánh giặc ngoài mặt trận-.

Cứ nghĩ như thế mà tôi chỉ còn biết ơn miền Nam đã nuôi dưỡng, giáo dục tôi thành một người trí thức.

Với 1500 đồng, tiền thuê phòng ở học xá hết 200 đồng. Tiền ăn 5 đồng một bữa ở quán cơm xã hội. Ngày 2 bữa hết 10 đồng. Vị chi ăn ở hết 500 đồng. Buổi tối đói thì mua thêm bánh mì nóng hổi mới ra lò giá hai đồng một ổ. Trét thêm mỡ Shortening, hộp mỡ của Mỹ viện trợ cỡ hơn hai kilô một hộp rồi rắc thêm chút đường. Ngon ơi là ngon! Chẳng ai thắc mắc vớ vẩn về cholesterol gì cả? Cũng không thấy một sinh viên nào ăn chay cả!

Cuộc sống sinh viên đạm bạc thật. Nhưng vẫn còn dành được chút tiền để cà phê, cà pháo và phần tôi còn chắt chiu hà tiện mua sách từ bên Tây về. Sách về chưa đọc mà chỉ giở ra ngắm và hít hà mùi thơm từ sách.

Cả cuộc đời sinh viên, tôi chỉ ước mơ mua một bộ veste để diện mà không dám mua. Phải chăng vì không có bạn gái? Cũng có. Và lần đầu tiên, bạn bè hai ba đứa xúm vào cho mượn bộ veste, cả cravate - dĩ nhiên phải cho mượn cả đôi giầy tây – dĩ nhiên cả bít tất luôn thể.

Nhưng những lần hẹn sau, thấy “phức tạp” quá, tôi trở về với cái “bản thể” nguyên thủy của tôi. Chân đi dép, tôi khoác cái áo nhà binh 4 túi mà một năm không nhớ giặt được mấy lần?

Đó là cái xì tin của tuổi trẻ. Chút ngang tàng, chút tự hào, chút bất cần đời.

Tuy vậy, tôi cũng biết dành dụm chút tiền để mua quà tết về cho bố mẹ. Phải nói hãnh diện và sung sướng lắm - tôi mua một bao tải nặng nào xú phơ, nào dâu tây khệ nệ vác. Chắc là không giống ai. Các nữ sinh viên thì thường nấu mứt dâu rồi để dành mang về.

Tôi thấy mẹ cười hả hê, đon đả ra mặt và hãnh diện về đứa con út lắm.

Mẹ tôi chỉ có một cái tật xấu nho nhỏ. Số là tôi có một cô bạn gái tên Huy, xinh và rất “đầm” thường đến thăm tôi, đến 9 giờ tối chưa chịu về. Đối với mẹ tôi, quá 9 giờ là có thể “hư” rồi, trước 9 giờ thì không sao. Mẹ áp dụng “chiến thuật” đuổi khéo, cụ cứ đi ra đi vô ở phòng khách và đọc kinh to tiếng. Phải ngượng mà ra về thôi. Tổng giám mục Kiệt sau này có áp dụng chiến thuật này mà không thành công, vì cộng sản trơ trẽn quá.

Sau 30 tháng tư 1975, tôi đã viết như thế này về mẹ tôi. Mất miền Nam, tôi mất luôn mẹ.

Mẹ tôi không nói ra, nhưng có vẻ héo hắt đi. Đôi mắt hõm sâu thêm vì những đêm không ngủ. Nụ cười úa tàn không còn oang oang như trước nữa. Bố tôi thì bề ngoài thấy như vẫn vậy. Thói quen của mẹ giấu diếm những điều cho riêng mình đã thành tật. Do đó, nó khoét sâu vào tâm klhảm, đục khoét cơ thể lúc nào không hay. Người mẹ cứ nhẹ đi như bấc. Có những buổi trưa bất ngờ sang thăm mẹ. Mẹ ngồi ngủ gục, ẻo lả một bên. Tôi ngỡ ngàng kinh ngạc xót xa. Con rể đi học tập, con trai thứ lang thang, lếch thếch ngoài Vũng Tầu tìm đường đi. Con cả ở ngoài Bắc vẫn biệt tăm, vẫn mù mịt không biết sống hay chết. Đã mấy chục năm rồi sao chưa về. Nỗi đau quá khứ trộn thêm nỗi lo hiện tại. Các con tứ tán. Mẹ vẫn không một lời ca thán.

 Mà mẹ biết trách ai bây giờ.

Chẳng bao lâu sau, mẹ từ giã cõi đời vì gánh nặng cuộc đời không gánh nổi”.

Nghĩ lại cuộc đời tôi trôi nổi và vất vưởng lắm. 7 tuổi “du học” Hà Nội vào mùa hè. Chưa học gì thì chiến tranh. Dân Hà Nội sơ tán. Mình tôi ở lại “chiến đấu” không phải với Tây mà với đói và lạnh. Mãi đến khoảng 1950, mới liên lạc được với gia đình và đi học lại.

Lớn lên, nhiều lúc tôi tự hỏi mình, tại sao mình sống còn? Tại sao mình không thành “du côn” mà lại có ngày cầm phấn viết bảng?

1954 vào đến miền Nam sớm lắm theo anh rể ở trong quân đội. Người ta đi học lại. Còn tôi làm phu “lục lộ” ở Đà Nẵng. Trôi dạt về trại di cư Củ Chi, ông anh họ con nhà bác “rước” tôi lên miệt cao su Dầu Tiếng để học nghề thợ may cho có tương lai. Chỉ một chút xíu nữa tôi có may mắn lấy con gái ông chủ thợ may thì nay tôi làm chủ tiệm may ở đồn điền cao su rồi.

Cho đến 1956, tôi mới chính thức được đi học lại và vì “giỏi quá” nên nhảy lớp lia chia. Từ lớp 5ème trường tây, nhảy luôn đệ tứ, rớt đệ tứ nhảy đệ nhị cho lẹ. Mất căn bản, nhất là toán và cho đến bây giờ phải thú thực trình độ toán của tôi tương đương với đại số phương trình bậc nhất. Khựng lại 3 năm tú tài một, tôi trở thành “trí thức” tối ngày trốn vào thư viện quốc gia đọc hết, đọc tất cả.

Đỗ tú tài một là một “phép lạ Hy Lạp” và kể từ đó, đường học vấn của tôi thênh thang vào Đại Học Đà Lạt bằng cửa lớn.

Nhưng thực tế lúc ban đầu bước chân lên Đà Lạt thì mọi chuyện đều trở thành ngỡ ngàng.

Hãy bắt đầu từ những việc nhỏ nhặt như:

Từ chiếc xe đò Minh Trung, 200 đồng một vé đến những địa danh như Định Quán, Blao cho đến những rừng thông, những núi đồi, những con dốc, những ngồi nhà thấp dựng dưới măt đường, những đồi xanh mướt cỏ với những ngôi nhà xinh xắn. Tất cả đều như “xa lạ”.

Tất cả nó toát ra một khung cảnh khoáng đạt, dâng cao, trang nghiêm và trí thức.

Cái cảm giác đầu tiên khi bước qua cổng viện Đại Học Đà Lạt cho thấy nơi đây mới đích thực là chốn để tu luyện trong hành trình trí thức của tuổi trẻ. Phải chăng nơi đây mới xứng danh trường “Académie” mà Platon đã sáng lập ở Athènes, năm 387, trước kỷ nguyên?

Người sinh viên phải làm quen, theo truyền thống triết học bao giờ cũng có thói quen coi những buổi đầu của việc học tập Triết là “Nhập môn” triết học. Nói nôm na là “dẫn vào triết học”. Nó còn có nghĩa bộ môn này có kén chọn, coi như cửa đóng, không thể tự mình sồng sộc vào ra tùy ý được.

Triết học hình như có một “cái cửa để vào” cho những ai theo nó.

Sau khi vào rồi thì đụng với chữ nghĩa phải “lầm than” cặm cụi những năm tháng sau đó!

Bởi vì học Triết những ngày đầu chỉ là những giờ khai tâm, mới đầu như một cuộc “vỡ đất”. Nó cày sới lên, ngổn ngang, chỗ này một câu, chỗ kia một ý, dàn trải bao la. Cho nên, học triết chỉ là “hiểu lõm bõm” mà theo tôi đó là bước đầu quan trọng nhất của một khai sáng trí tuệ!

Tuy lúc đầu lõm bõm, bập bẹ, nhưng đến một lúc nào đó không ngờ, nó “lóe lên”, nó “khai mở.” Nó giống như tâm cảnh của một người tù suốt đời nhìn vào phía trong bức tường của hang động và lúc được giải thoát được nhìn ra thế giới bên ngoài, ánh sáng chói chang mới hiểu được sự thật là cái gì.

Nói theo nhà Phật thì đó là “Ngộ”

Nhưng trước mắt thì mỗi ngày cours của các thầy như Gaultier, Tchen 1, Tchen 2, Raguin hay bất cứ ai khác như Palacios, Pineau, Larre thì chữ như “được nén chặt”, đọc mà như đụng vào bức tường.

Bài học vỡ lòng lúc đó là phải biết “giở sách” và từ đó hiểu được những danh từ theo nguyên thủy của nó. Chẳng hạn như từ Mauvaise foi chỉ có nghĩa luân lý là có ý xấu. Nhưng chữ ấy rơi vào tay J. P. Sartre mang ý nghĩa “siêu hình” được dịch ra là ngụy tín. Nhưng ngụy tín là gì nhỉ? Dài dòng lắm...

Có thể nói không hiểu được danh từ triết, không hiểu được triết học.

Vì thế phải đọc, phải nghiền ngẫm, phải vật lộn ăn nằm với chữ nghĩa để hiểu thế nào là Philosophie existentialiste của J.P Sartre nó khác với Philosophie existentielle của Gabriel Marcel và Karl. Jaspers và rồi nó cũng khác với Philosophie existentiale của Heidegger. Hiện nay, vẫn chưa có ai dịch nổi những từ này ra tiếng Việt.

Nào đã hết, một dây chuỗi danh từ xuất hiện như: Hiện-thực, ý niệm ngoại cảm, dịch biến, thác tạo tính, hủy thể tính, thân phận hữu hạn, hò hẹn với tuyệt đối, thách thức siêu hình v.v…

Hiểu hết những từ này, phải ăn chay nằm mộng thôi...

Triết học thật khó. Tôi phải thú thực như vậy. Nó chỉ dễ với những ai không biết nó, những người ngoài cuộc hiểu biết thứ “triết học vĩa hè” như trong bài tham luận “Những người con hoang của Nguyễn Văn Trung”, Nguyễn Trọng Văn đã nặng tay viết:

Ngay cả những sinh viên chịu khó đi học và học bài, 100 người đã chắc 10 người hiểu được tới nơi, tới chốn Dasein, Hư vô, Dự phóng, Ngụy tín, Hiện hữu là gì, nhưng khi viết văn thì làm như mình đã hiểu hết, đã nắm mọi vấn đề. Họ dùng chữ một cách chát chúa để vượt mặt người khác và chính họ, coi việc làm dáng [tri’ thức] là làm văn nghệ, là sáng tác đích thực »

Trích lại trong bài viết: 20 năm triết lý Tây Phương ở miền Nam Việt Nam 1955-1975, Nguyễn Văn Lục, Tân Văn số 3, trang 7, 2007.

Phần Bùi Văn Nam Sơn, dịch giả và chú giải bộ sách đồ sộ, kinh điển của Emmanuel Kant, nguyên bản tiếng Đức: Emmanuel Kant, Phê phán lý tính thuần túy [Kritik Der Reineen Vernunft], dày 1260 trang.

Bùi Văn Nam Sơn khiêm tốn và đầy lòng biết ơn thầy dạy bằng những ý từ sau đây:

Tôi không hiểu hết những lời Thầy dạy về Kant… dù nhờ thầy mà lần đầu tiên được nghe những từ đầy “mê hoặc” như siêu nghiệm, võng luận, Antinomie...[..] khi dịch và chú giải cuốn Phê phán Lý tính thuần túy của Kant, tôi đã trộm phép thầy Trần Thái Đỉnh sử dụng lại một số thuật ngữ tiếng Việt quan trọng được Thầy dùng để dịch Kant mà đến nay, tôi vẫn chưa tìm thấy cách dịch nào tốt hơn: “Niệm thức” [Schema],”Ý thể” [das Ideal], “Phân tích pháp” [Analytik] v.v… để chỉ xin đơn cử một vài thí dụ.”

Trích “Triết Học Kant”, Hồi niệm và viễn cảnh, Bùi Văn Nam Sơn, tạp chí Tân Văn, 39-40.

Chỉ tiếc rằng sau khi rời khỏi “khung trời đại học” thì những người bạn cùng lớp như Nguyễn Trọng Văn, Dương Văn Ba, Lê Mạnh Thát (Thích Trí Siêu học sau một lớp) và cả những người như Lữ Phương, (bỏ triết để học Việt hán), Bùi Văn Nam Sơn đã có những lý do riêng để “chia tay ý thức hệ”.

Phải nói rằng cái mối liên hệ giữa cầm phấn viết bảng và cầm bút rất là gần. Nhiều người trong anh em chúng tôi là những cây viết sáng giá.

Trong số những người bạn ấy có Nguyễn Xuân Hoàng cái gì cũng hơn tôi một bước. Trẻ hơn tôi mà học trước tôi. Trông thấy ông ấy đi sánh đôi với một trong những người con gái đẹp nhất trường ngó mà thèm. Đẹp trai mà hào hoa, tôi thì lôi thôi, lếch thếch. Ông trở thành nhà văn rất sớm có tên mà chưa đợi tuổi. Còn tôi thì có tuổi mà chưa có tên.

Đến nỗi nhà văn Uyên Thao khi phải giới thiệu cuốn sách: Hai mươi năm miền Nam không biết phải gọi NVL là gì? Nhà văn không phải, sử học cũng không, phê bình văn học cũng không.

Có lẽ cái danh xưng đúng nhất thì tôi là người cầm bút muộn.

Một điều an ủi nhất là tuyệt đại đa số những bạn bè khác như Hồ Công Hưng, Hồ Công Danh, Vĩnh Đễ, Nguyễn Đồng, Tô Văn Lai, Huỳnh Phan Anh, Phạm Phú Minh và hằng trăm người khác thì tự chọn đứng trong hàng ngũ những người chống lại những người cộng sản.

Và đến một lúc nào đó tình bạn bị sứt mẻ vì chính kiến bất đồng. Trong một bữa ăn họp mặt năm 2005 đầu 2006, tại Sài Gòn. Một người bạn đã nhân cơ hội này đứng lên vạch mặt một người bạn khác hài cái tội “gài bẫy” anh em.

Bữa ăn họp mặt đó tưởng đã đủ là một bài học cho ai đó. Vậy mà bằng một lý do tiềm ẩn nào sau đó, Nguyễn Trọng Văn bắn phát súng lệnh mở màn phê phán nặng nề thày cũ của mình.

Tôi đã buộc lòng viết những bài báo đáp trả nặng nề lại Nguyễn Trọng Văn, Lữ Phương. Hầu như không có phản hồi. Ngưng bắn.

Cho đến bây giờ, tôi vẫn nghĩ đó là một bổn phận người cầm bút. Và cái tội danh ấy cuối cùng phải nhìn thấy nguyên do là ở chính quyền cộng sản.

Cộng sản đã phá nát tất cả mọi giá trị con người trong đó có tình thầy trò, tình bạn và tình người.

Hóa cho nên, học cùng một trường, cùng một lề lối đào tạo mà tiêu chí của đại học là tinh thần tự do tư duy và tinh thần nhân bản trong sự tôn trọng con người chưa đủ để nối kết chúng tôi lại. Thời thế gay go, hoàn cảnh chính trị khuynh đảo đã là nguyên cớ tách rẽ một vài người bạn trở thành những kẻ đối đầu. Như Lê Mạnh Thát mang án trọng tội tử hình một lúc nào đó đổi chiều trở thành “người của thời thế” làm trung gian giữa thế quyền và thần quyền để rồi cũng mai danh, ẩn tích?

Nhưng trong buổi họp tháng bảy vừa qua, tại California với một số bạn bè cùng trường Đà Lạt, chúng tôi đã chẳng hề nhắc tên những người bạn ấy.


thu_nhan-content

Thầy Nguyễn Văn Lục gặp gỡ bạn bè cùng lớp ĐH ĐàLạt tại Cali - Tháng 7/2010


Tình bạn bè vẫn là yếu tố chính nối kết nối con người mà những nhân tố khác như chính trị tạm thời được “để trong ngoặc” hay đi chỗ khác chơi.

Vì thế chúng tôi chỉ nhắc lại những kỷ niệm vui buồn thời tuổi trẻ để mà cười như vỡ nhà.

Câu chuyện được kể lại và làm mọi người thích thú của Tô Văn Lai (Paris by night) kể là vào khoảng tháng 11, 12 gì đó, vào lúc gần nửa đêm, chẳng hiểu tại sao Tô Văn Lai thách: đứa nào bơi qua được hồ Hồ Xuân Hương với một tay thôi thì TVL mất cái Radio-Cassette. Trong lớp lúc ấy có ba Minh thì Minh “heo” nhận lời. Nửa đêm, sinh viên học xá ùn ùn kéo nhau chạy ra hồ để coi.

Phần tôi cũng choàng vội cái áo nhà binh 4 túi như thường lệ chạy theo ra coi. Đêm tối, trời lạnh quả là một lũ điên khùng mới làm như vậy… mọi người lo lắng hồi hộp theo dõi bóng của Minh. Đến giữa hồ, Minh heo sợ kêu to: cứu tôi với, cứu tôi với... Nhiều tiếng hét từ trên bờ kêu hắn quay trở lại, bơi vào bờ. Nguyễn Trọng Văn cũng to và mập cởi quần áo bơi hộ tống. Phần Minh, kêu thì vẫn kêu, nhưng anh ta vẫn cứ thế với chỉ một tay bơi vào bờ bên kia bằng mọi giá để chiếm cái Radio, một vật sở hữu không phải ai cũng có.

Nghĩ lại Tô Văn Lai nói, tại sao mình lại ngu thế: Nhỡ hắn bị syncope, cứng đơ chết đuối thì mình mang tội giết người mà nếu hắn bơi được vào bờ thì tư nhiên mình mất cái Radio! Khùng ơi là khùng! Cả thằng thách đố lẫn thằng nhận thách đố đều khùng.

Phải chăng đó là cái làm nên tuổi trẻ chúng tôi –Những nghịch phá ngây ngô và khờ dại-!!!

Câu chuyện thứ hai là vụ tranh chức chủ tịch sinh viên giữa Nguyễn Trọng Văn và Nguyễn Ngọc Thạch. Thạch nhỏ người so với Nguyễn Trọng Văn, biết là thua cuộc, lừa lúc NTV đang chải đầu trong nhà tắm, lấy gậy quất túi bụi vào lưng NTV rồi bỏ chạy...

Vậy mà lúc tôi đang viết những dòng này đây thì Nguyễn Trọng Văn đã bị tai biến mạch máu não, ngồi xe lăn từ mấy năm nay. Phần Nguyễn Ngọc Thạch thì nay lâm trọng bệnh khó qua khỏi.

Phải chăng đó là những kiếp người!!!

Đứng giữa những sinh hoạt dù là học hành hay sinh hoạt chính trị đôi lúc là cớ sự cho những “chia rẽ” vẫn là bóng dáng linh mục viện trưởng Nguyễn Văn Lập.

Ông là linh hồn của đại học Đà Lạt và chữ Thụ Nhân là do chính ông đặt cho huy hiệu sinh viên Đà Lạt trong vai trò “Trồng Người” theo tinh thần: trồng lúa thì một năm, trồng cây 10 năm và trồng người thì 100 năm.

Khi chúng tôi rời khỏi trường Đà Lạt và bung tỏa đi khắp nơi trên mọi nẻo đường đất nước. Nghĩ lại, chúng tôi là như những kẻ “gieo trồng” đem gieo hạt giống tư tưởng Triết đi khắp nơi, cho tất cả thế hệ trẻ miền Nam.

Trường Đại Học Đà Lạt sau đó thay hình đổi dạng như “mặc bộ áo mới” với hàng ngàn thanh niên trẻ “lên núi” học trường Chính Tri, Kinh doanh. Tại sao họ lại leo núi, tại sao họ chọn lựa phân khoa Chính Trị, Kinh Doanh? Câu trả lời về phía họ...Chỉ biết rằng, nhất là sau 1975, họ trở thành “nên ông nên bà”, có vai trò trong xã hội. Cả một lớp người mới mà sau này họ trở thành những nhà quản trị, những chủ nhân ông, những giám đốc xí nghiệp v.v…

Có lẽ đó là cách đánh giá quý giá nhất của viện Đại Học Đà Lạt.

Được như thế, như trên đã viết, không thể quên một người: linh mục viện trưởng Nguyễn Văn Lập mà sau này các anh em cựu sinh viên chính trị kinh doanh các khóa đầu đã đối đãi trong tình tôn sư trọng đạo.

Trong số những người mở đường cho phân khoa này, còn có giáo sư Trần Long có mặt trong kỳ họp cựu sinh viên Thụ Nhân, năm 2010.

Xin chia xẻ niềm vui và hân hoan với các cựu sinh viên CTKD, Đà Lạt .

Các anh, các chị “đã làm nên chuyện”.

Phần những cựu sinh viên như chúng tôi trở thành những thế hệ trót được đào tạo triết học trong bối cảnh miền Nam đang đi vào những nóng bỏng của thời cuộc.

Nhìn lại cả quãng đời tuổi trẻ theo nghĩa “Trở về” trong triết học thì hành trình nhân thế Đi là để Về, không thể Đi mà không Về... như bước Đi và bước Nghỉ, như thân phận Người...

Cái ý nghĩa của cuộc đời (raison d’être) là cảm thấy đã làm được một điều gì -dù có thể chưa hoàn tất- đi nữa. Dù có đôi chút tình tự lãng mạn:

“Hôm sau vào lớp

Nhìn em ngại ngần”

(Phạm Thiên Thư)


Nhưng điều chính là chúng tôi phải tự hào về những năm tháng ấy như những người thợ gieo gặt trên mảnh đất miền Nam- từng ngày- từng năm tháng- từng thế hệ thanh thiếu niên.

Chúng tôi đã “cấy” những luồng tư tưởng mới, cấy niềm tin, gieo vào vào đầu óc những thế hệ thanh niên những giá tri tinh thần với niềm xác tín. Bởi vì dạy học mà không có xác tín, không cấy được niềm tin thì không có giáo dục.

Chính ở điểm then chốt này từ sau 75, chúng ta mới có dịp so đo để thấy đâu là giáo dục, đâu là không giáo dục!

Và đây cũng là lời gửi nhắn đến các thế hệ sinh viên đàn em CTKD Đà Lạt, các học trò khắp nơi. Chúng ta có thể thua cuộc. Chúng ta có thể đã để mất miền Nam. Văn học của chúng ta bị Cộng sản vùi dập, phần thư.

Nhưng chúng ta vẫn có thể tự hào và đừng bao giờ để mất cái niềm tự hào ấy là sau 35 năm rồi, chưa bao giờ thế hệ con em chúng ta đã được thừa hưởng một nền giáo dục như thế!

Thụ Nhân là Trồng Người, nào có thể trao vào tay những tên bạo chúa của thời đại bây giờ. Chẳng lẽ chúng ta vẫn ngồi yên nhìn cái sa lầy và cái ngu dốt của một chế độ đang trên đà tan rã? Và đối với những ai đang tham gia vào quá trình “cách mạng” là tự tham gia vào một quá trình tự tiêu diệt chính mình!

28 Tháng Tư 2011(Xem: 98620)
Bao nhiêu năm dù trùng khơi đằng đẵng Giờ xa xôi nghe vạn nỗi bồi hồi Bâng khuâng buồn nhớ một thời áo trắng Gửi Ngô Quyền trăm hoài niệm tinh khôi.
28 Tháng Tư 2011(Xem: 105411)
Tháng Tư, bạn có ngậm ngùi không? 35 năm về trước bạn đã thấy gì, bạn đã làm gì? Bây giờ bạn đang làm gì cho ngày 30 tháng Tư lịch sử.
26 Tháng Tư 2011(Xem: 67387)
xin mời đến xem phim Bolinao 52 để thấy chị Trịnh Thanh Tùng, một chs NQ đã có mặt trong phim tài liệu Bolinao 52, kể lại kỷ niệm hãi hùng của chị trên đường tìm tự do năm 1988.
25 Tháng Tư 2011(Xem: 169082)
"Khép một vầng trăng" hẹn kiếp sau Người về tan tác cuộc bể dâu Ngọc lan hương vẫn nồng trong gió Hiên vắng, tìm em biết chốn nào?
25 Tháng Tư 2011(Xem: 31662)
Nhạc & Lời : Phạm Chinh Đông Hòa Âm : Đỗ Hải Ca Sĩ : Minh Trí
23 Tháng Tư 2011(Xem: 117291)
Đến tháng tư hàng năm, các cháu càng phải nhớ điều đó hơn bao giờ hết, các cháu nhé! Rồi sẽ có một ngày, chất xám Việt Nam thôi chảy ra ngoại quốc...
20 Tháng Tư 2011(Xem: 131044)
Nhớ không mày, trường Ngô Quyền xưa mình học, Thầy Bảo uy nghi, Hiệu trưởng cũ của mình, Giờ Thầy yếu rồi, bệnh nhiều, thương... thương lắm,
20 Tháng Tư 2011(Xem: 33060)
* Tiêu đề: Nhớ * Artist: Ngô Càn Chiếu * Composer: Ngô Càn Chiếu * Harmonist: Ngô Càn Chiếu * Lyricist: Ngô Càn Chiếu * Length: 5:33 minutes (5.09 MB)
16 Tháng Tư 2011(Xem: 142818)
Nuôi nuôi nấng nấng Từ đất mọc lên Không dễ gì quên Hoa bâng khuâng tím
14 Tháng Tư 2011(Xem: 107060)
Áo trắng trường xưa giờ nơi đâu? Lật trang lưu bút đã phai màu Ngô Quyền chung lớp còn mãi nhớ
10 Tháng Tư 2011(Xem: 108806)
Tháng tư nào em lang thang xứ lạ Mưa đổ hoài những giọt nhớ năm xưa Em quay đầu ngó lung về hướng biển...
09 Tháng Tư 2011(Xem: 102816)
anh mệt mỏi với một điều lập lại rất chán chường là: nỗi nhớ nhau ngày mở cửa nhớ râm ran trong nắng
07 Tháng Tư 2011(Xem: 37965)
Bác sĩ Nguyễn Xuân Nam chuyên khoa về giải phẫu trẻ em vừa được trường đại học Harvard bình chọn là một trong những bác sĩ giỏi nhất nước Mỹ.
04 Tháng Tư 2011(Xem: 146831)
Buổi sáng mù sương rơi đọng đầy tay Xin tỏa ấm người đang lên con dốc Xin bụi đỏ xếp hàng thành ca khúc Mở lời yêu như đã phải lòng nhau
02 Tháng Tư 2011(Xem: 35306)
Dưới đây, được trích từ những bài văn có thật, và được đăng trên Phụ san Làng cười, Xuân Tân Mão 2011.
01 Tháng Tư 2011(Xem: 68149)
Anh như tia nắng xuân nồng ấm Nghiêng chiếu đời em vạt cỏ non
01 Tháng Tư 2011(Xem: 133388)
Dẫu lưu lạc nơi xứ mình hay xứ người, tất cả các cựu HĐS Biên Hòa sẽ không quên một thời ...
01 Tháng Tư 2011(Xem: 34811)
* Artist: Ngô Càn Chiếu * Composer: Ngô Càn Chiếu * Harmonist: Ngô Càn Chiếu * Lyricist: Ngô Càn Chiếu
24 Tháng Ba 2011(Xem: 155744)
Em mơ có một ngày Bên đàn con cháu ngoan Ôn từng trang Sử cũ Rất kiêu hùng VIỆT NAM
21 Tháng Ba 2011(Xem: 31279)
Nhạc & Lời : Phạm Chinh Đông Hòa Âm : Đỗ Hải Ca Sĩ : Thanh Hoa
12 Tháng Ba 2011(Xem: 70522)
Nhạc và lời: Phạm Chinh Đông – Hòa Âm: Đỗ Hải – Ca sĩ: Quốc Duy
11 Tháng Ba 2011(Xem: 72939)
- Thơ Trần kiêu Bạc - Hồng Vân diễn ngâm.
10 Tháng Ba 2011(Xem: 162737)
Tháng ba có một ngày Của bà, mẹ và em Đếm gần hết ngón tay Số tám tròn rực rỡ.
27 Tháng Hai 2011(Xem: 24997)
(Xin bấm vào giữa bất cứ hình nào để xem cho rõ)
18 Tháng Hai 2011(Xem: 143032)
Sông ngưng trôi mà đêm chẳng ngừng trôi Đêm qua hết, sông vẫn dòng sông cũ Nước vẫn nước xưa, gió vẫn qua lối nhỏ Chỉ có ngày thơ đi mất theo dòng đời!
16 Tháng Hai 2011(Xem: 32078)
# Tiêu đề: Anh trao em # Artist: Ngô Càn Chiếu # Composer: Ngô Càn Chiếu # Harmonist: Ngô Càn Chiếu # Lyricist: Ngô Càn Chiếu # Length: 4:36 minutes (4.22 MB)
11 Tháng Hai 2011(Xem: 57850)
Xin lòng chỉ bâng khuâng Tim chớ nên thổn thức Xưa ta dại, ta khờ Nay ta mãi còn ta!?
05 Tháng Hai 2011(Xem: 133150)
Và khi biết anh tuổi Mẹo, Duyên suýt bật cười vì chợt nhớ đến câu “thần chú” của mẹ ngày xưa: “Hợi Mẹo Mùi, là duyên tam hạp”. Mình là tuổi Mùi. Anh ấy là tuổi Mẹo, vậy là tốt duyên rồi!
02 Tháng Hai 2011(Xem: 30662)
# Tiêu đề: Khúc Hát Mùa Xuân # Artist: Ngô Càn Chiếu & bạn hữu # Composer: Ngô Càn Chiếu # Harmonist: Cao Ngọc Dung # Lyricist: Ngô Càn Chiếu
31 Tháng Giêng 2011(Xem: 130662)
Anh biết không? Hương vị Tết bên này chỉ mới vừa phảng phất đôi chút chưa kịp đọng lại thì đã bay biến đi đâu mất rồi...
29 Tháng Giêng 2011(Xem: 29573)
ĐÔNG TÀN - Nhạc và lời: Đào Lê Văn – Ca sĩ: Thành Nguyên. Em về mau nhé! Cơn mưa đã tàn Mùa mưa lũ nguôi ngoai từ em Về đi em!
25 Tháng Giêng 2011(Xem: 48560)
... ông ước ao đám mây trắng ngang trời kia sau khi bay vòng quanh... quả đất tròn sẽ lại bay về đây!
20 Tháng Giêng 2011(Xem: 138337)
Bây giờ muôn nẻo hoàng hôn Ánh trăng vàng võ ngõ hồn xanh xao Trả anh âu yếm ngày nào Bước chân lầm lỡ lạc vào lối yêu.
19 Tháng Giêng 2011(Xem: 127036)
Cám ơn và hẹn gặp lại các thân hữu nhé ! Mây trắng ngang trời đã quay về và sẽ quay về nữa… , rồi mây trắng lại bay đi…
17 Tháng Giêng 2011(Xem: 138570)
Mãi cho đến bây giờ, mỗi tuần chị đều ăn khoai lang, không phải vì thích loại củ ngọt bùi mầu vàng cam, không vì phải ăn độn...
14 Tháng Giêng 2011(Xem: 212398)
biển về trãi cát em nằm giao thừa sóng hát thì thầm ca dao ru em giấc mộng xuân đầu một nhành hoa biển lộc vào tay em
14 Tháng Giêng 2011(Xem: 156203)
Xuân áo bay trên triền sông bát ngát Rợp hoa vàng nắng đổ hát say mê Chiếc đò ngang rẽ nước sông xanh mát Chở yêu thương, chở trọn vẹn câu thề.
12 Tháng Giêng 2011(Xem: 169355)
Tựa Đề: Đôi Tay Mùa Đông. Nhạc & Lời : Phạm Chinh Đông Hòa Âm : Đỗ Hải Ca Sĩ : Quang Sáng
07 Tháng Giêng 2011(Xem: 128548)
Đối với tôi, môn học nào với thầy – cô nào lại không để lại những kỷ niệm khó phai trong lòng của một người học trò.
07 Tháng Giêng 2011(Xem: 128789)
Hôm nay lại dự tiệc nhà anh chi Kiệt Chung, ngoài Thầy Cô và bè bạn lại có sự tham dự số đông đồng hương Biên Hòa và thân hữu.
06 Tháng Giêng 2011(Xem: 59253)
Anh lại đi trời đông mưa lay lắt Giot nhớ thương giăng mờ mịt sông chiều Ba nhịp cầu đìu hiu hoàng hôn vắng Một mình em trở lại đếm sầu rơi.
31 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 26531)
Trăng mơ hồ, nước mơ hồ Thuyền ai thấp thoáng ven bờ sông khuya Sương bàng bạc đêm ảo huyền Miên man theo gió tiếng đàn xa xưa
31 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 32010)
# Artist: Ngô Càn Chiếu # Composer: Ngô Càn Chiếu # Harmonist: Ngô Càn Chiếu # Lyricist: Ngô Càn Chiếu # Length: 5:09 minutes (4.72 MB)
31 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 120724)
Từ quê nhà Việt Nam, ở Miền Trung giữa mùa mưa bão lạnh lùng , tôi rất vui và cảm thấy rất ấm lòng khi nhận được email thăm hỏi của bạn gửi cho tôi từ nước Mỹ xa xôi.
30 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 172375)
Cảm ơn người đã vui gieo hạt Trên đất phì nhiêu tuổi thơ nầy Thương từng đôi mắt tròn trong vắt Giữ được hồn quê trong tuyết bay.
22 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 58170)
Mây nhớ mùa đông bay lang thang Buồn ủ ê theo lá úa vàng Giăng hờ hững chờ đông phong lạnh Thả sương chiều rơi xuống mênh mang.
21 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 30441)
# Tiêu đề: Đêm lung linh # Artist: Ngô Càn Chiếu # Composer: Ngô Càn Chiếu # Harmonist: Ngô Càn Chiếu # Lyricist: Ngô Càn Chiếu
18 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 136949)
Ngày xưa ấy tôi và các bạn còn rất trẻ, hầu hết các Thầy Cô cũng rất trẻ. Ngày xưa ấy cách nay hơn năm mươi năm. Tuổi học trò, thời thơ mộng, thời gian đẹp nhất của con người nay còn đâu.
17 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 49769)
có phải em vừa say rượu thánh? vì anh, đôi mắt tỏ nghìn câu có phải tiên thiên đang chớp cánh? tháng chạp huy hoàng rợp ánh sao
17 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 71706)
Cùng cất tiếng hát với tôi người ơi, cho mưa thôi rơi trên đường đời, về nơi có quê hương nắng ấm tươi đẹp mãi
16 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 173511)
Xin em giữ giùm một tiếng chuông ngân Rúc vào chăn êm còn vang chuông đổ Cất cho anh chút chuông lùa qua khe cửa Chuông của Nhà Thờ, chuông của tim anh!
11 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 49834)
Những bông hoa cuối mùa, dường như vẫn giữ lại trong lòng Ngọc biết bao kỷ niệm một thời tuổi trẻ dễ thương nhất của cuộc đời, mà những kỷ niệm ấy như những tiếng chuông mùa Giáng Sinh, vẫn ngân nga trong lòng nàng mỗi mùa Giáng Sinh trở lại.
10 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 30825)
BÊN BỜ NHÂN GIAN - Thơ Hà Thu Thủy - Phạm Chinh Đông phổ nhạc– Ca sĩ Thanh Duyên trình bày. Em tóc ngắn lay buồn như lá cỏ, mắt nâu hiền cho nắng ấm đời anh.
09 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 55569)
Mình chia tay nhau chắc lần sau cùng Đã biết được gió đi không trở lại Cớ sao đêm đêm nhớ em anh vẫn thấy Em trở về trong mây xám mùa Đông!
04 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 54725)
Nhân dịp nghi lễ Tạ Ơn, BCH Hội AHNgô Quyền và BCH Hội AHBiên Hòa, California đã nhận lời mời của anh Nguyễn Quý Đoàn khoá 6 Ngô Quyền tham dự tiệc thân mật với gia đình ngày chủ nhựt 28 tháng 11 năm 2010.
30 Tháng Mười Một 2010(Xem: 62832)
Cô Trần Thị Hương, nguyên giáo sư dạy môn Quốc văn ở Trung học Ngô Quyền từ năm 1966 đến năm 1973, đã đột ngột qua đời ngày 26 tháng 11 năm 2010 ở Santa Clara, California,
28 Tháng Mười Một 2010(Xem: 47744)
Mỗi khi chán đời, chờ hoài không thấy cơn buồn tan biến, nhìn mặt mình trong gương ủ rũ, thảm thương hơn chiếc lá nằm lay lắt bên bờ cỏ, chờ gió chiều thổi xuống dòng đường lắm xe, tôi thường ghé nghĩa địa tìm người chết.
27 Tháng Mười Một 2010(Xem: 124590)
“Ngày xanh tóc hãy còn xanh Bóng chim qua cửa tóc đành điểm sương Ngày xanh tươi trẻ đến trường Giờ đây sao biết người thương nơi nào?!”
26 Tháng Mười Một 2010(Xem: 24344)
Bao nhiêu năm trôi qua, nhưng ánh mắt rạng rỡ của các em mồ côi ở cô nhi viện năm xưa vẫn soi sáng cả một ký ức của cả nhóm bạn mà sau này lưu lạc từ Đông sang Tây của nước Mỹ,
18 Tháng Mười Một 2010(Xem: 31302)
Mỗi năm vào dịp Lễ Tạ Ơn ờ Mỹ, chs NQ nhắc nhau cùng bày tỏ lòng biết ơn các đấng sinh thành, quý Thầy Cô đúng như tinh thần lễ giáo Đông phương...
18 Tháng Mười Một 2010(Xem: 30190)
TẠ ƠN NGƯỜI - Nhạc và Lời Phạm Chinh Đông – Hòa âm: Đỗ Hải - Ca sĩ Thanh Hoa
17 Tháng Mười Một 2010(Xem: 30368)
* Tiêu đề: Tạ ơn đời * Artist: Ngô Càn Chiếu * Composer: Ngô Càn Chiếu * Harmonist: Ngô Càn Chiếu * Lyricist: Ngô Càn Chiếu
15 Tháng Mười Một 2010(Xem: 34961)
# Tiêu đề: Mênh Mông Chiều Thu # Artist: Ngô Càn Chiếu # Composer: Ngô Càn Chiếu # Harmonist: Ngô Càn Chiếu # Lyricist: Ngô Càn Chiếu
12 Tháng Mười Một 2010(Xem: 26279)
Thơ: Trần Kiêu Bạc Nhạc: Phạm Chinh Đông Hòa Âm: Đỗ Hải Ca Sĩ: Châu Thùy Dương
04 Tháng Mười Một 2010(Xem: 64348)
Ly cà phê buổi sáng Nhìn đời trôi theo ngày cùng tháng Bao tiếc nuối cũng đành Còn bên ta ngàn nỗi muộn màng
02 Tháng Mười Một 2010(Xem: 135120)
Mẹ đã thay cha buổi sớm chiều Dạy con cao cả một chữ YÊU Dạy con hiếu đạo tròn ân nghĩa Cơm cha, áo Mẹ buổi kinh chiều
01 Tháng Mười Một 2010(Xem: 48816)
Thầy Cô ơi! Bạn ơi! Giờ ở nơi đâu Có lượm được chút nào công thức Toán? Đời không cộng thêm vui, đời trừ đi hy vọng Hạnh phúc chẳng nhân lên, buồn khổ lại chia đều
01 Tháng Mười Một 2010(Xem: 117030)
Huỳnh văn Huê vào đệ thất Ngô Quyền năm 1963, đệ nhất B1 năm 1970, học cùng với Ng.x.Quang, Ph.t.Thừa, Tr.h.Phúc, Tô.a.Dũng và nhiều bạn khác nữa…
28 Tháng Mười 2010(Xem: 95694)
Và hạt giống thương yêu lan nhanh, phát tán xa hơn, vượt qua mọi biên giới của chủng tộc, mọi khác biệt cùa màu da…
27 Tháng Mười 2010(Xem: 281404)
... để thấy mùa Thu năm nay khởi sắc, lãng mạn và nồng ấm hơn bao giờ hết với đất trời vàng ươm màu áo mới và lòng người như vương vấn chút heo may... Xin bấm vào tựa bài muốn đọc:
23 Tháng Mười 2010(Xem: 57873)
Sao rơi hay đom đóm? Chớp tắt suốt đường quê Bìm bịp kêu thắc thỏm Đêm bỗng dài lê thê. Đom đóm hay sao rơi? Chập chờn theo cánh gió Hương hoa khế bồi hồi
21 Tháng Mười 2010(Xem: 58084)
một nhóm cựu học sinh Ngô Quyền đã góp mặt trong Dạ Tiệc Gây Quỹ 2010 của cựu học trường Trung học Saint Paul, vào chiều chủ nhật 26 tháng 9 năm 2010, tại nhà hàng Diamond Seafood Palace
17 Tháng Mười 2010(Xem: 33251)
Anh muốn nói với em Hôm nay trời thật xanh Có chiếc lá thu mong manh Bay bay trong gió xa cành
17 Tháng Mười 2010(Xem: 52005)
Từ những tình cảm đầy ấp tình người bên cạnh Thầy Cô, gia đình Ngô Quyền đã có buổi họp mặt chiều thứ sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010 với anh chị Nguyễn Quý Hy, khóa 7 đến từ Việt Nam.
08 Tháng Mười 2010(Xem: 216525)
Đêm thu trầm lắng Đang phủ vây khắp trời Đêm quạnh vắng Mong manh giọt sương rơi
08 Tháng Mười 2010(Xem: 68166)
Thu vào đây rồi, trong suốt mắt thủy tinh Nghe mát rượi bình trà xanh sủi bọt Một chút Thu thôi, đã gọi đàn chim hót Ngàn Thu chảy về, chắc nước lọc tràn ly!
29 Tháng Chín 2010(Xem: 124146)
Cầu mong Cô đi an bình, thanh thản. CHS NQ khóa 15, 16 và 17 luôn nhớ đến Cô
29 Tháng Chín 2010(Xem: 53838)
Thơ Tưởng Dung - Phổ Nhạc Đào Lê Văn - Hòa Âm Hoàng Anh- Ca Sĩ Tịnh Uyên.
25 Tháng Chín 2010(Xem: 115564)
Mến tặng Tuấn, một người bạn ở cùng dãy phố Nhất.
25 Tháng Chín 2010(Xem: 119974)
Là một trong những học sinh xuất sắc của trường Ngô Quyền, Phạm văn Xuân cùng các bạn của lớp B2 như Hồ Chí Tường, Đỗ Thái Hùng đã là niềm tự hào của các cựu học sinh khóa 7.
25 Tháng Chín 2010(Xem: 125786)
Tôi bẻ cong nỗi nhớ thành vòng tròn Chia mỗi đứa một cung tròn phân nửa Mỗi bên có Thầy Cô, bạn bè trang lứa Có cánh phượng hồng lẫn tiếng ve ngân
25 Tháng Chín 2010(Xem: 100374)
Tinh mơ chạy lên đồi Cỏ cây vừa thức giấc Trời cao xanh vời vợi Sương ngàn giọt giăng giăng.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 42793)
Triết lý giáo dục tìm ở đâu ra? Thưa nó nằm ngay trong bộ Sách Dân Tộc, gọi là KINH ĐIỂN tức là Lĩnh nam Trích Quái, Việt Điện U Linh, Ca dao tục ngữ, Tứ Thư Ngũ Kinh.