Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Nguyễn Trần Diệu Hương - Bên Kia Đồi.

02 Tháng Bảy 200912:00 SA(Xem: 76037)
Nguyễn Trần Diệu Hương - Bên Kia Đồi.

blank

 

Bên Kia Đồi

 

Nguyễn Trần Diệu Hương

 

 

 

 Bên kia đồi, sườn dốc thoai thoải, người ta xuống dễ dàng và nhanh hơn lúc trèo lên đồi. Bên kia đồi, đôi lúc thật đẹp như trong một câu hát của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang “Bên kia đồi cỏ hoa đan lối”. Nhưng trong khái niệm tuổi tác của người Mỹ thì “bên kia đồi” chỉ sự xuống dốc khi người ta bước qua tuổi bốn mươi, tuổi đã “biết người biết ta” như trong quan niệm nho giáo “tứ thập nghi bất hoặc”.

Đến lần họp mặt thứ bảy của hội Cựu Học sinh Ngô Quyền ở Mỹ thì hầu hết Thầy và Trò của chúng tôi đã qua “bên kia đồi”. Một số rất ít chúng tôi đang đứng ở đỉnh đồi của đời người, mắt vẫn còn tinh tường để đọc sách báo chưa cần đến kính viễn thị, tóc vẫn còn màu đen, dù là ở Mỹ vì dùng máy sấy tóc mỗi ngày nên tóc dù đen, nhưng không phải là màu đen tuyền nhờ gội đầu bằng nước bồ kết có pha một vài giọt nước chanh như thời nhỏ dại ở quê nhà, mà là màu đen nâu, đậm hơn màu nâu brunette của người Mỹ một chút. Nhưng dù đứng ở phiá nào của ngọn đồi tuổi tác, tất cả chúng tôi đều thấy được sự cố gắng không ngừng của quý Thầy Cô giáo thời Trung học, đặc biệt là những Thầy Cô di tản từ năm 1975, rất đột ngột, và không có một chuẩn bị nào cho đời sống quê người, không còn quê hương nên cũng không còn học trò, không còn bảng đen, không còn bục giảng trắng mầu bụi phấn…

 

Khi Thầy Long đến camp Fort Chaffee ở Arkansas những ngày đầu tháng 5 năm 1975 thì Thầy vừa bước vào tuổi ba mươi, vẫn còn ở “bên này đồi”, chưa đến tuổi 40 “down of the hill” như lời nói của người Mỹ. Nỗi bàng hoàng vì vận nước chưa nguôi, Thầy đã có nỗi lo mọi thứ phải làm lại từ đầu, và chắc là không còn được dậy bầy học trò Trung học những bài Toán Quỹ tích, những vecto tịnh tiến mà bọn học trò đứng sau “quỷ và ma” của chúng tôi vẫn đọc thành vecto “tính tiền”. Nhưng Thầy còn may mắn hơn rất nhiều người “di tản buồn” lúc đó ở chỗ Thầy có đủ Bố Mẹ, các anh chị bên cạnh Thầy. Đặc biệt là Thầy có được một vài người học trò cũ ở trại tỵ nạn lúc đó, dù trường xưa đã xa mù tít tắp, ngăn cách bằng cả một đại dương, dù khoảng cách Thầy trò không còn rõ ràng như chiều cao của cái bục giảng có kê bàn thầy cô giáo đến mặt đất có hai dãy bàn học trò đặt song song, nhưng sự tương kính vẫn như xưa, những anh chị học trò vẫn giữ nguyên sự kính trọng đối với Thầy. Điều đó nâng đỡ tinh thần Thầy Long rất nhiều trong những ngày đầu lưu vong. Rồi Thầy rời camp Fort Chaffee theo chương trình bảo trợ của một Hội từ thiên Thiên Chúa giáo ở tận Wisconsin miền Đông Bắc nước Mỹ. Qua đến cái tiểu bang gần giáp giới với Canada giữa năm 1975 thì gặp được một người Việt Nam cũng khó như trúng số, gặp lại đồng nghiệp hay học trò ở Wisconsin gần như là chuyện không tưởng. Vậy là dù có yêu nghề “bán cháo phổi” đến độ nào đi nữa, Thầy Long cũng đành phải học ngành khác để bắt đầu cuộc sống mới ở một nơi không có một dấu tích Việt Nam nào ngoài chuyện mỗi tối sau một ngày dài bốn tiếng lao động chân tay, và bốn tiếng trở lại thời sinh viên, với một ngôn ngữ khác, Thầy quay về nhà với Bố Mẹ và các anh chị của Thầy nói tiếng Việt, ăn thức ăn Việt Nam nấu bằng vật liệu mua từ chợ Mỹ không đậm đà nhưng dù sao vẫn phảng phất hương vị quê nhà. Dù là một người dạy Toán, không sống bằng kỷ niệm nhiều như các Thầy Cô dạy Văn, mỗi lần đeo một cái backpack đựng đầy những quyển sách giáo khoa bìa cứng của Mỹ đi từ parking lot vào giảng đường, Thầy vẫn chạnh lòng nhớ ngôi trường Đại học Sư phạm ngày xưa ở đường Thành Thái Saigon. Lúc đó, tiếng Mỹ của thầy Long chưa nhuần nhuyễn lắm nhưng Thầy vẫn được các ông bà giáo sư người Mỹ quý vô cùng vì một lẽ đơn giản là thầy Long học giỏi, đặc biệt là môn Toán và đối xử với họ rất lễ độ như truyền thống Việt Nam giữa thầy và trò. Dĩ nhiên Thầy không nói ra nên những ông bà giáo sư người Mỹ không thể tưởng tượng người học trò Việt Nam thông minh, chăm chỉ đó đã có một thời đứng trên bục giảng ngày còn ở trong nước. Trước khi trở lại trường học, Thầy còn ham vui, theo một người bạn về Washington DC  làm busboy trong những quán ăn loại sang mà thực khách thường là khách ngoại quốc hay gia đình của những chính trị gia, những người làm trong ngoại giao đoàn. Nhiệm vụ của busboy là phải lau chùi những cái bàn trong quán ăn thật bóng loáng để xứng đáng với những khoản tiền khá cao trên các hoá đơn cuối mỗi bữa ăn. Dù phải làm việc tay chân vì vừa chân ướt chân ráo đến Mỹ, thầy Long vẫn còn nguyên khiếu khôi hài, nên vẫn đùa với anh bạn Việt Nam cùng làm:

 

- Tụi mình làm nghề “đánh bóng bàn” mà chẳng bao giờ dám nghĩ đến chuyện có huy chương.

 

Đến khi làm thêm cuối tuần cho một tiệm ăn khác, Thầy lại khôi hài tiếp:

 

- Càng “đánh bóng bàn” càng thông thạo, nên bây giờ “đánh” cho hai hội cùng một lúc vẫn không thấy mệt.

 

Thế nhưng khi bà chị của Thầy bay về DC thăm em, thấy cậu em út đã học hành xong xuôi ở Việt Nam, đã đi dạy Toán một vài năm ở trường Trung học mà bây giờ lại phải đi làm busboy suốt ngày đi dọn dẹp, lau chùi bàn ở quán ăn thì quả là phụ công ơn sinh thành dưỡng dục của ông bà cụ thân sinh. Bà dùng quyền chị cả, “áp tải” thầy Long về lại Wiscosin với “phán quyết” đầy uy lực của “quyền huynh thế phụ”:

 

- Về ngay Wisconsin với Bố Mẹ và các anh chị, quay lại trường học ngay. Mày còn trẻ đừng phí phạm thời gian như thế em ạ!

 

 Vậy là thầy Long vĩnh viễn bỏ nghề busboy chuyên lau chùi, đánh bóng bàn… ghế ở những quán ăn, về với “mái nhà xưa” ở “quê hương mới” và trở lại thời sinh viên không phải là ở trường Đại học Sư phạm Saigon mà là trường University of Wisconsin ở Stevens Point.

 

Dạo đó, ở tuổi ba mươi, vẫn còn ở phía “bên này đồi” nên thầy Long không buồn lắm, vì thật ra không có thì giờ để nghĩ ngợi lung tung, để nhớ lại quá khứ để bùi ngùi và buồn bã. Và cũng vì còn trẻ nên Thầy đủ sức chịu đựng cái lạnh của Wisconsin, một trong những tiểu bang lạnh nhất ở miền Đông Bắc nước Mỹ, một nơi mà vào mùa đông mặt đất phủ tuyết có khi dày đến nửa thước. Những ngày tháng đứng trên bục giảng trắng mầu bụi phấn có những lần vẽ các vecto tịnh tiến bằng phấn màu cứ nhạt nhoà , nhạt nhòa dần khi thầy Long ra trường với bằng cử nhân về Electrical Engineering và về làm việc ở miền Tây Nam đầy nắng ấm của Mỹ.

 

Tưởng nước chảy bèo trôi, mọi chuyện đã là dĩ vãng xa xăm, vậy mà ở tiểu bang vàng có khí hậu tương tự Đalat của Việt Nam, Thầy gặp lại học trò xưa, đồng nghiệp cũ. Và do vậy một quá khứ của thời còn rất trẻ, ở những bước đầu của “bên này đồi” chợt sống dậy, rõ nét tưởng như mới hôm qua thầy vẫn còn dậy Hình học, môn toán Quỹ Tích cho các cô cậu học sinh ở ngôi trường Trung học lớn nhất miền Đông Nam phần, đã đào tạo cho cả hai đất nước Việt Nam và Mỹ rất nhiều nhân tài. Ở đó, Thầy gặp lại một vài đồng nghiệp ngày còn ở trong nước, nhưng chỉ có cuối tuần mới gặp lại được nhau để ôn lại chuyện ngày còn rất trẻ, và để nâng đỡ tinh thần nhau trong những năm đầu lưu vong. Thầy đặc biệt thân với thầy Toàn, một đồng nghiệp dạy Lý hoá cùng trường thời trước năm 1975. Lúc đó, cả hai Thầy đều chưa lập gia đình, và đều phải khởi đầu sự nghiệp ở tuổi không còn trẻ. Thầy Toàn rời quê nhà chậm hơn Thầy Long vài năm, mất một vài năm ở các trại tỵ nạn, rồi Thầy đến Mỹ chỉ một thân một mình, không có một thân nhân nào bên cạnh, giống như một người phải bơi giữa sóng to mà không có một cái phao nào để bám. Là cả một sự khác biệt lớn khi người ta phải xây dựng mọi thứ từ khởi điểm số không ở tuổi sắp vào thời 40, sắp xuống con dốc của đời người như lối nói của người Mỹ “down of the hill”. Có đầy đủ Bố Mẹ và anh chị bên cạnh, thầy Long hiểu điều đó hơn ai hết, và ra sức giúp bạn “lội giòng nước ngược” như mình đã làm từ vài năm trước. Hai Thầy vẫn chia xẻ với nhau mọi cay đắng ngọt bùi của đời sống ly hương như ngày còn ở quê nhà, chỉ có điều khác biệt là ngày xưa các Thầy đã nhiều lần chở nhau trên cái vespa mầu trắng ngà trên đường Duy Tân cây dài bóng mát, ở đường Thành Thái dẫn vào cổng trường Đại học Sư phạm, thì ngày đó , những ngày đầu lưu vong, chiếc Toyota Celica mầu nâu nhạt đã đưa hai Thầy ngược xuôi ở quê người có những tên đường bằng tiếng Mỹ được các thầy dịch ra bằng tiếng Việt gợi nhớ cả một quê nhà đã bỏ lại sau lưng: đường “Mùa Thu”, đường “Lá vàng”, đường “Cánh đồng mùa Xuân”, “thị trấn giữa đường”, “ngọn đồi mù sương”, “tầm nhìn của núi”…

 

Nước Mỹ rộng mênh mông, vậy mà trong những tình cờ của đời sống, Thầy Long vẫn gặp lại một số học trò cũ của mình. Phần đông họ vẫn giữ được nề nếp Việt Nam nhờ những bài học về Công dân giáo dục trước năm 1975 vẫn còn rõ nét. Nhưng đâu đó, có một hai người không hiểu trí óc đã bị nhạt nhòa theo năm tháng, hay bị quay như chong chóng bởi đời sống đầy bận rộn, những bài học về Công dân giáo dục đã bị đẩy khỏi tâm tưởng, đã đối xử với Thầy không đúng với lễ nghĩa thầy trò. Dạo đó, thầy Long cũng buồn, nhưng chỉ thoáng qua một chút rồi thôi, vì Thầy vẫn chưa đến tuổi bốn mươi, vẫn còn sống với tương lai nhiều hơn là quá khứ. Nhưng từ dạo đó, cách nhìn của Thầy về học trò cũ đã không còn như xưa. Đó là thập niên đầu của đời sống lưu vong, cộng đồng Việt Nam không lớn mạnh, đông đảo như bây giờ. Vả lại, mọi người đều đang phải mải mê làm việc, học hành như một đàn ong thợ cần cù xây một cái tổ mới, nên chưa có các hội ái hữu của các trường học trước năm 1975, mọi người, kể cả thầy Long nếu có những điều không vui thì cũng giữ lại rất riêng ở một góc tâm tưởng. Mãi về sau này, khi năm tháng lặng lờ trôi qua, Thầy không còn trẻ như những ngày đầu lưu vong, sự nghiệp và gia đình riêng đã ổn định, Thầy đỡ vất vả hơn những ngày đầu lưu lạc. Nhưng đến lúc đó, Thầy cũng đã bước gần đến tuổi về hưu, đã qua tuổi “down of the hill” của Mỹ, và đã ở “bên kia đồi” theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Những con chữ mầu đen trên sách báo đã biến thành những đốm đen nhạt nhoè, chi chít nếu Thầy không đeo kính viễn thị. Thầy đã phải đi khám bệnh nhiều hơn thay vì mỗi năm một lần đi khám sức khoẻ tổng quát như những người dưới bốn mươi tuổi, vẫn còn ở “bên này đồi”. Nhưng dù sức khoẻ có hao mòn đôi chút, Thầy vẫn còn làm việc hăng say, dù không còn vất vả, tất bật như những ngày còn trẻ. Lúc này, Thầy đã phải thăm viếng các ông bà Bác Sĩ thường xuyên hơn. Đúng theo tiêu chuẩn của Mỹ, mọi thứ đều được chuyên môn hóa, Thầy đã phải đi gặp rất nhiều Bác sĩ chuyên khoa theo đề nghị của ông Bác sĩ tổng quát của Thầy. Có lần phải đi một Bác sĩ chuyên khoa về mắt, có cái tên Nguyễn Lạc Việt đầy âm hưởng quê hương, Thầy kiên nhẫn ngồi ở phòng đợi, chờ đến lượt mình. Dòng tư tưởng của Thầy lúc đó không phải là hoài niệm quê nhà mà là những lo toan về sức khoẻ và cả tinh thần của tuổi “bên kia đồi” sức khoẻ mỗi ngày mỗi xuống. Đến phiên Thầy, cô y tá theo Thầy vào phòng khám, hướng dẫn Thầy đến chiếc ghế đặc biệt của bệnh nhân, đẩy cái khung đo mắt đến trước mắt Thầy, điều chỉnh một cách thuần thục cho hợp với chiều cao của Thầy rồi lặng lẽ quay ra sau khi đã khép cửa cẩn thận. Ông Bác sĩ nhãn khoa mải mê đọc hồ sơ của Thầy, cũng chưa nhìn rõ mặt Thầy. Nhưng khi ông nhìn vào mắt thầy qua tròng kính đặc biệt của cái máy đo mắt, ông kêu lên bằng một giọng vừa kinh ngạc vừa ẩn chứa niềm vui:

 

-Thầy, thầy có phải là Thầy Nguyễn Phi Long hồi xưa dạy ở Ngô Quyền không Thầy? Em là học trò của Thầy năm lớp 8/1, Thầy nhớ không?

 

 Thầy Long chưa kịp trả lời, cũng chưa kịp nhìn kỹ ông Bác sĩ nhãn khoa, người học trò cũ ở vào những năm cuối của tuổi 30, chắc là đang ở “trên đỉnh đồi của tuổi tác” hăm hở tiếp lời:

 

- Hồi đó em ngồi đầu bàn nhất cạnh cửa ra vào đó Thầy, Thầy nhớ em chưa? Qua tròng kính của máy đo mắt, em vẫn nhận được ánh mắt của Thầy, dĩ nhiên đổi thay theo năm tháng, nhưng không khác thời em còn học với thầy ở Ngô Quyền nhiều.

 

 Thầy Long trầm tĩnh:

 

- Bác Sĩ chuyển cái máy đo mắt ra khỏi tầm nhìn của tôi, tôi mới có thể nhìn kỹ lại Bác Sĩ được.

 

 

Ông Bác sĩ Nhãn khoa vừa chuyển cái khung của máy đo mắt ra khỏi mắt Thầy, vừa vồn vã:

 

- Em xin lỗi Thầy, Thầy nhận ra em không? -

 

 

Thầy Long quan sát kỹ khuôn mặt của người đối diện nhưng trí nhớ của Thầy vẫn nhạt nhoà:

 

- Chịu thôi, ngày tôi dạy các cô các cậu, các cô các cậu còn nhỏ quá. Vả lại, ký ức của tôi bây giờ đôi lúc mờ ảo như sương mù. 

 

 Vậy mà “ký ức sương mù” của thầy Long in rất rõ nét lần gặp lại người học trò cũ hôm đó. Thầy vui cả ngày, không phải vui vì nhận được cả một bao thuốc nhỏ mắt, thuốc bổ mắt loại “sample” từ các viện bào chế vẫn thường biếu để giới thiệu thuốc mới hay quảng cáo thuốc cũ trên thị trường, mà vui vì sau hơn hai mươi năm gặp lại, người học trò mười ba tuổi ngày xưa đã nên người và vẫn không quên câu ngạn ngữ Việt Nam “Công Cha, nghiã Mẹ, ơn Thầy”. Từ đó, lâu lâu Việt, người học trò cũ ở Trung học Ngô Quyền xưa, thỉnh thoảng vẫn đến tham gia đình Thầy đều đặn với sự kính trọng như khi anh còn ngồi ở ghế trường Trung học. Ở tuổi sắp về hưu, bên này triền đồi của đời sống, sức khoẻ mỗi ngày một yếu đi như một cái xe cũ đã cao mileage, cũng như những người cùng thời, Thầy Long sống bằng quá khứ nhiều hơn là tương lai. Rải rác đâu đó khắp nước Mỹ, thảng hoặc Thầy vẫn gặp lại những người học trò cũ, hầu hết họ đều thành công ở xứ người, và vẫn nhớ những bài học năm xưa. Lâu lâu Thầy vẫn nhận được điện thoại của một vài học trò cũ, có người ở tận Châu Âu hay Châu Úc, có người cũng đã ngấp nghé tuổi năm mươi, vậy mà nói chuyện với Thầy, họ vẫn lễ độ, vẫn còn nhắc nhở những giờ học năm xưa. Những lúc như vậy, Thầy vui lắm, và vẫn nghĩ về những năm tháng đi dạy ở trong nước, ngày còn trẻ, dù ngắn ngủi, nhưng đã để lại môt hệ quả rất qúy mà không một khoản tiền nào có thể mua được. Một lần khác Thầy phải nằm bệnh viện vài tuần vì một cuộc giải phẫu không quan trọng lắm, nhưng một người học trò cũ khác từ Canada bay về tiểu bang Thầy đang ở dự một hội thảo của ngành y đúng vào thời điểm đó, vẫn chịu khó vào thăm Thầy tận giường bệnh mỗi ngày. Điều đó hình như là một liều thuốc có hiệu quả nhất giúp thầy Long hồi phục sức khoẻ rất nhanh chóng làm kinh ngạc rất nhiều nhân viên ở bệnh viện. Ấy vậy mà có lần đi lang thang một mình trên đường phố ở Mỹ, Thầy đã lặng người khi nghe một người đàn ông trung niên hỏi Thầy: - Anh có phải là anh Long không? Hồi xưa anh dạy chúng tôi môn Hình học. Tối hôm đó, về nhà, thầy Long cứ xoè bàn tay, nhìn những ngón tay của mình và nhớ đến câu ngạn ngữ  “bàn tay có ngón dài ngón ngắn”. Khi còn trẻ, ở tuổi dưới 40, người ta sống bằng tương lai vì không có quá khứ, hoặc quá khứ quá ngắn ngủi. Ở tuổi bốn mươi, quá khứ đã có chiều dày và tương lai vẫn còn rộng mở, chừng như đang ở đỉnh đồi của đời sống. Và qua khỏi tuổi “tứ thập nghi bất hoặc”, tương lai mỏng dần, quá khứ thì mỗi ngày một dày, cho nên người càng già thường chỉ sống bằng quá khứ. Điều may mắn nhất cho những người đã một thời đứng trên bục giảng như Thầy là tình nghĩa thầy trò vẫn còn, và quá khứ của những người đi dạy vẫn thường ngọt ngào, thi vị hơn những người làm các ngành nghề khác. Cho nên, chừng như những nhà giáo tuy nghèo nhưng thường sống thọ hơn vì có nhiều niềm vui hơn những người ở các ngành nghề khác. Họ còn được so sánh với những người lái đò vẫn cặm cụi chèo thuyền mỗi năm đưa rất nhiều người từ bờ này đến bờ kia. Có những người đến bên kia bờ, mất dạng biệt tăm. Nhưng cũng có nhiều người khách trở lại bến đò cũ thăm người lái đò, vẫn với cái nhìn kính trọng như ngày xưa họ vẫn còn thơ dại, được đưa qua dòng sông nhỏ đầu đời hướng về biển học mênh mông. Ở bên này đỉnh đồi của đời sống, có liều thuốc nào hiệu nghiệm hơn là niềm vui tinh thần đến từ mọi phiá, đặc biệt là đến từ những người học trò cũ bé dại ngày nào nay đã thành người nhưng vẫn theo đúng những điều căn bản về đạo đức, luôn nhớ đến công cha nghiã mẹ ơn thầy. Nếu có khiếu về âm nhạc, Thầy sẽ viết nên bài hát “xin được làm người đưa đò”, chắc hẳn là sẽ cảm động hơn “xin được làm người hát rong” . Nhưng điều cảm động đó, Thầy chỉ nhận ra được rất rõ ràng khi đã ở phía bên này của ngọn đồi tuổi tác… 

 

 

Mountain View, tháng 8 /08

 

Với lòng biết ơn của Cựu HS Ngô Quyền với những “người lái đò” xưa đã đưa chúng em đến bến bờ thành công

Kính tặng Thầy Nguyễn Phi Long, kính tưởng nhớ Thầy Phùng Thái Toàn

 

 

 

NGUYỄN TRẦN DIỆU HƯƠNG

(học trò lớp 8/1 NQ xưa)

 

22 Tháng Mười 2010(Xem: 112475)
Có phải chiều nay mưa hắt hiu Sương mù tỏa kín khắp buổi chiều Gió mơn man tung làn tóc rối Mắt nhạt nhòa giọt lệ buồn thiu
21 Tháng Mười 2010(Xem: 125183)
Một năm thoáng chốc trôi qua Nhớ anh em cảm xót xa trong lòng Dòng thơ rưng rức não nùng Từng đêm nước mắt lưng tròng lại rơi
21 Tháng Mười 2010(Xem: 58084)
một nhóm cựu học sinh Ngô Quyền đã góp mặt trong Dạ Tiệc Gây Quỹ 2010 của cựu học trường Trung học Saint Paul, vào chiều chủ nhật 26 tháng 9 năm 2010, tại nhà hàng Diamond Seafood Palace
20 Tháng Mười 2010(Xem: 124265)
Lá vàng rụng cánh đầu tiên Mùa Thu thức dậy nửa đêm tháng Mười Mây còn đang mãi rong chơi Gọi nhau về nhuộm sắc trời vàng êm
17 Tháng Mười 2010(Xem: 52005)
Từ những tình cảm đầy ấp tình người bên cạnh Thầy Cô, gia đình Ngô Quyền đã có buổi họp mặt chiều thứ sáu, ngày 8 tháng 10 năm 2010 với anh chị Nguyễn Quý Hy, khóa 7 đến từ Việt Nam.
16 Tháng Mười 2010(Xem: 120895)
trăng không còn huyền thoại chú cuội xưa đã già chỉ còn ta ngắc ngoải mắt mỏi chờ xa xa bán dạ... đêm nay say ta chờ suốt kiếp này vàng hoa thu một đoá tình nẩy mầm đâu đây
14 Tháng Mười 2010(Xem: 34830)
Thúng này rau non xanh Thúng kia hoa rực rỡ Đường làng đầy nắng hanh Bé theo bà đi chợ. Lúa vẫy tay chào gió Bé vẫy nón chào tre Bay lả dăm cánh cò Khuất dần sau lối rẽ.
14 Tháng Mười 2010(Xem: 110478)
Hôm nay mùa Thu sang Lá xanh đang chuyển vàng Mây Trời chiều tím ngắt Con nhìn mẹ võ vàng
12 Tháng Mười 2010(Xem: 132290)
Nắng thu buồn ngắm lá vàng Cung thương xa vắng lẫn làn mưa bay Giot sầu còn đọng mi ai Nghe như trong gió vương hoài thở than
10 Tháng Mười 2010(Xem: 46663)
Thu Về đây Theo ngọn gió heo may Sầu lay Khung trời xám mây bay Vàng phai Vùng xa xưa nẻo ấy
10 Tháng Mười 2010(Xem: 47783)
Có tiếng gió thu buồn hắt hiu trong đêm âm thầm Có tiếng hát tan hồn viễn du với bao niềm nhớ
09 Tháng Mười 2010(Xem: 33066)
Áo em xưa ấy trắng tinh Dài bay theo gió cho vành nón nghiêng Đạp xe lên dốc Ngô Quyền Giọt mồ hôi đẫm thắm duyên má hồng
09 Tháng Mười 2010(Xem: 41790)
Bây giờ là mùa thu sương mù giăng giăng trên làn tóc rối. Em ngồi nhìn xa xôi bâng khuâng rồi thầm nhớ ai
09 Tháng Mười 2010(Xem: 124755)
anh bỏ rơi nỗi buồn bên bờ hồ một buổi chiều georgia không nắng em lượm về làm quà chớm thu còn anh hoài vo tròn mộng trắng
08 Tháng Mười 2010(Xem: 216525)
Đêm thu trầm lắng Đang phủ vây khắp trời Đêm quạnh vắng Mong manh giọt sương rơi
08 Tháng Mười 2010(Xem: 68166)
Thu vào đây rồi, trong suốt mắt thủy tinh Nghe mát rượi bình trà xanh sủi bọt Một chút Thu thôi, đã gọi đàn chim hót Ngàn Thu chảy về, chắc nước lọc tràn ly!
08 Tháng Mười 2010(Xem: 117828)
Một chiều cuối Thu năm 1965, tôi đang học Đệ Tam B trường Trung Học Ngô Quyền được tin T. lấy chồng. Lòng buồn da diết!
07 Tháng Mười 2010(Xem: 119965)
Lang thang... đồi vắng... một mình... Mưa Thu hay tiếng thì thầm gọi nhau Lá vàng theo gió về đâu??? Cho ta gửi chút nỗi sầu về ai...
05 Tháng Mười 2010(Xem: 116577)
WEB NHÀ Ngô Quyền hân hoan đón nhận những sáng tác với Chủ Đề THU của quý Thầy Cô và Anh Chị Em...
05 Tháng Mười 2010(Xem: 129867)
Thuyền đi theo con nước Sóng về vỗ bờ xa Mây đi làm chiều nhớ Gió về sông chan hòa .
04 Tháng Mười 2010(Xem: 40223)
Mời các chs NQ (nhất là các anh chị khóa 11, đã mang phù hiệu NQ từ năm 1966 đến năm 1973) cùng trở về Ngô Quyền xưa như chúng ta chưa từng có trên dưới bốn mươi năm ngăn cách mình với thời mới lớn
29 Tháng Chín 2010(Xem: 53838)
Thơ Tưởng Dung - Phổ Nhạc Đào Lê Văn - Hòa Âm Hoàng Anh- Ca Sĩ Tịnh Uyên.
25 Tháng Chín 2010(Xem: 115563)
Mến tặng Tuấn, một người bạn ở cùng dãy phố Nhất.
25 Tháng Chín 2010(Xem: 108571)
Giọt nắng vàng rớt xuống Trên giàn mướp lung linh Hoa vàng cười sung sướng Đón ánh sáng bình minh.
25 Tháng Chín 2010(Xem: 119974)
Là một trong những học sinh xuất sắc của trường Ngô Quyền, Phạm văn Xuân cùng các bạn của lớp B2 như Hồ Chí Tường, Đỗ Thái Hùng đã là niềm tự hào của các cựu học sinh khóa 7.
25 Tháng Chín 2010(Xem: 125786)
Tôi bẻ cong nỗi nhớ thành vòng tròn Chia mỗi đứa một cung tròn phân nửa Mỗi bên có Thầy Cô, bạn bè trang lứa Có cánh phượng hồng lẫn tiếng ve ngân
20 Tháng Chín 2010(Xem: 111109)
Thêm một sinh nhật buồn Lệ ướt mưa sầu tuôn Tìm về phương trời cũ Có người mãi vấn vương
15 Tháng Chín 2010(Xem: 41233)
nhưng trong lòng tôi cái hình ảnh người thầy giáo tất tả dắt chiếc xe đạp cũ, không thắng, không vành che sên đi băng qua đường, đầu cúi thấp… vẫn còn nguyên vẹn trong tôi như một dấu ấn.