Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS Nguyễn Văn Lục - Những Chuỗi Ngày Không Quên...

03 Tháng Hai 200912:00 SA(Xem: 40410)
GS Nguyễn Văn Lục - Những Chuỗi Ngày Không Quên...

 

 

Những Chuỗi Ngày Không Quên…

 

 

hinh_1-content


 GS Nguyễn Văn Lục

 

 

 

Mãi đến năm 1970, tôi mới được đổi về Biên Hòa. Kể là trễ. Trễ đủ thứ. Trễ cho chính bản thân mình và trễ vì thời cuộc đã đến giờ Hồi chuông báo tử. Bởi vì, thật ra từ niên khóa 1966, tôi đã được đổi về Sài gòn rồi. Vậy mà chỉ vài tháng sau tôi nhận được lệnh ra Nha trang, trở về nhiệm sở cũ với một lý do chính trị, rất vu vơ. Thêm 4 năm nữa.

Nhưng 4 năm đã cho tôi có dịp được chứng kiến những xáo trộn chính trị đủ thứ suốt dọc từ 1964 đến 1966, rồi tết Mậu Thân 1968. Và ít hay nhiều cũng là vốn sống để tôi chuẩn bị viết các bài sau này như vụ thảm sát tết Mậu Thân.

Đất nước chúng ta khổ lụy nhiều, nhưng dáng đứng đau thương và tủi nhục nhất vẫn là từ miền Trung. Nó có tên là Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, ngay cả Huế. Xin hứa với lòng mình, với bạn bè và giới trẻ của tôi là tôi sẽ viết lại cảnh đời này. Với những cảm nghiệm mà đến quá nửa đời người đến bây giờ vẫn thế. Vẫn đeo đẳng mình. Vẫn vật vờ như đùa cợt.

Cảm tưởng về Biên Hòa như một giải thoát khỏi những ám ảnh chiến tranh và một lịch sử đọa đầy sắp đến hồi chung cục. Miền Trung là nơi mà cuộc sống có muốn vui, cũng không vui cho trọn. Người và thiên nhiên toa rập với nhau làm khó người. Miền Trung cho dù là Nha trang đi nữa, không khí đôi khi vẫn thấy ngộp.

Nhưng ở đây, một cuộc đời mới đã mở ra. Sáng sáng lên Biên Hòa. Từ Sài gòn qua ngã tư Hàng Xanh như một cửa ô thông ra bên ngoài. Từng đám người đủ thành phần ùa ra về ngã Thủ Đức, Biên Hòa. Nào lính Không Quân, nào dân làm sở Mỹ, nào giáo sư các trường trung học. Nào xe nhà binh phóng bạt mạng, nào xe chở hàng, đặc biệt, xe đò Minh Trung, nhãn hiệu Citroen chạy đường Sàigòn-Đàlạt mà đứng xa có cảm tưởng nó sắp rã ra từng mảnh. Xe vespa, một biểu tượng mức sống cao thành thị. Cứ như thế như xô lấn nhau đi ra khỏi thành phố.

Sài gòn như chỗ để trú ẩn, chỗ để về. Và Biên Hòa như chỗ để làm việc, chỗ trả nợ áo cơm, chỗ tạm dung.

Cái hình ảnh từng đoàn xe cộ đủ loại nối đuôi nhau chạy về hướng Thủ Đức hay Biên Hòa kể là khó quên. Nó rất đặc biệt mà cũng rất là ấn tượng chẳng nơi đâu có. Nó cho thấy hai mặt của một cuộc chiến: cái thanh bình giả tạo, ồn ào về đêm của một thành phố chiến tranh là Sàigòn và đổ về bên kia dốc cầu Thị Nghè, Hàng Xanh là không khí chiến tranh với những trại nhà binh Mỹ ở phía tay phải xa lộ. Chạy dài chẳng biết mấy cây số chỉ thấy những trại lính là trại lính. Bộ óc chiến tranh với những kế hoạch hành quân nằm ở đó. Lẽ thua được cũng nằm ở đó.

Dù rằng sự có mặt đông đảo của những trại lính Mỹ với hàng 10 ngàn công nhân Việt làm cho họ. Hình ảnh khốc liệt của cuộc chiến vẫn không rõ mặt. Mà ngược lại nó cho người ta cảm tưởng chiến tranh có đó, nhưng vẫn như ở nơi nào khác. Cũng vậy, hàng chục ngàn binh sĩ Việt Nam đủ loại của quân đoàn 3, của căn cứ không quân Biên Hòa. Nhưng nó cho ta cái cảm tưởng an bình của một hậu cứ mà chẳng bao giờ người ta có một ý niệm, dù là mơ hồ của một cuộc thua trận sắp tới.

Khắp nơi là lính, đi đâu cũng thấy họ như thể một thứ lính công chức, đánh nhau như có giờ, có thời khóa biểu nhất định. Sáng đi chiều về. Không thấy những bộ đồ trận rằn ri bám bụi. Không nón sắt hay súng ống lỉnh kỉnh với đôi giầy bốt cố hữu. Người lính chiến là không có ở đây. Chỉ có một hậu cứ an toàn nhất, ổn định nhất và đáng tin tưởng nhất.

Cứ nhìn các cô nữ giáo sư có chồng sĩ quan để thấy rằng đời lính là cuộc đời lên hương lắm. Trong số đó, chưa có nữ giáo sư nào là góa phụ. Và biết đâu chừng còn gói nhẹm một niềm hãnh diện là vợ sĩ quan cấp tá trở lên.

Quần áo các sĩ quan là phẳng phiu, gương mặt người nào cũng đóng khung một đôi kính đen trùm lấy mặt, súng lục đeo bên hông lủng lẳng như một món trang sức cho đàn ông, biểu dương phái tính hơn là vũ khí giết người. Nhiều người gọi đùa là lính kiểng.

Trong các quán ăn buổi trưa ở một thành phố hậu cứ, rất nhiều lính tráng có mặt. Phần đông là một đám sĩ quan Không Quân mặc đồ bay. Có cái đẹp và hấp dẫn của bộ đồ ấy, từ những túi là túi với nhiều fermeture. Sao nhiều túi đến thế, túi trên, túi đầu gối, túi trước ngực. Với mầu xám xanh rất là Không Quân. Họ đi lại như những tài tử ciné đóng phim trở về hơn là sau một trận đi ném bom. Họ cố tạo ra cái vẻ hào hùng, trẻ trung. Nơi họ, bản chất chiến tranh với hùng khí của nó đi liền với nam tính.

 

 *

Chẳng ai nói ra, nhưng tại ngôi trường này, tự nhiên ai cũng thấy là có hai thành phần Giáo Sư. Giáo Sư tại chỗ và Giáo Sư tại Sàigòn. Hiệu Trưởng cũng ở Sài gòn. Hình ảnh đó cũng là hình ảnh của nhiều Giáo Sư mỗi sáng thứ hai. Khi thì đi cùng các bạn như Kiều Tiên, lúc nào cũng với cặp mắt kính mầu và chiếc áo dài màu xanh lốm đốm hoa. « Long con », tên gọi vui đùa và trìu mến, hay đi với cha Yến, Hiệu Trưởng trường Khiết Tâm.

Tôi đã hội nhập rất nhanh vào đám bạn bè ấy. Nhanh đến độ chẳng hiểu từ lúc nào, tôi trở thành là họ. Buổi sáng Biên Hòa, vẫn còn đủ thì giờ để ghé làm một tô hủ tiếu khô «rất Biên Hòa» trước khi vào lớp học. Bát nước dùng mùi dầu mè, có chút hành lá điểm trang húp một cái trước khi ăn tiếp. Buổi trưa thì kéo cả đám đi ăn. Hôm nào mắc xoa mạt chược thì vội vã một miếng bánh mì thịt.

Những bữa ăn trưa là vui nhất. Cái vui nhộn một thời nay khó tìm lại. Tôi không thể quên được những món canh chua cá bông lau và cá kho tộ Biên Hòa. Thêm tí tiêu rắc hoang phí một chút và điểm trang vài miếng ớt. Cũng như những buổi tối thứ ba ở lại nhậu với Lê Quý Thể. Khó tính một chút, cầu kỳ một chút thì lái xe sang Chợ Đồn ăn thịt bò nướng ngói, ăn gà với sôi nếp phồng lên như cái nồi. Thịt rừng cũng chả chê được. Ăn nhậu ở Biên Hòa vẫn có thi vị hơn ở Sàigòn.

Đi về lại buổi chiều thì lỉnh kỉnh hơn. Có khi có thêm cả một bầu đoàn thê tử kéo nhau về như Nguyễn Thế Văn, l’homme qui en savait trop. Một Lê Quý Thể cả đời không sắm nổi đôi giày. Kiều Vĩnh Phúc, beau trai và sau này nổi tiếng một thời ở hải ngoại khi làm trưởng ban Việt Ngữ đài BBC. Và cứ mỗi lần hỏi thăm Long con thì câu trả lời vẫn là: nó vẫn thế. Lần này, chắc tôi phải xem, nó vẫn thế là thế nào. Lâm Tấn Văn khinh khỉnh, cười tủm tỉm. Trịnh Hồng Hải «Thủ Đức» bắt tôi nghĩ đến một Stanley Karnow, rất rành rẽ những truyện hành lang chính trị. Hà Tường Cát, chạy trời không khỏi nắng nên mặt cứ đen như nhọ nồi. Thật ra không hiểu tại sao, tôi thân nhiều với cái đám giáo sư từ Sài gòn lên thay vì ở tại chỗ như Mai Kiến Phúc, Dũng «con» v.v...

Cùng lắm, giáo sư tại chỗ có Nhã Ý như một bông hoa rừng ở Biên Hòa. Hoa rừng không phải để hái vì đã có chủ nên trở thành đối tượng để chúng tôi trêu chọc và để thấy mặt trời mọc lên ở phương đông. Cái hay và cái quý nhất của anh Vương Tú Toàn, chồng của Nhã Ý, anh VTT là một bác sĩ ở Biên Hòa, sống như một hiền triết bên cạnh một bông hoa rừng. Mà hoa rừng thì đâu cần chăm sóc. Mà đã là hoa rừng thì ai ngắm chả được.

Nghĩ lại cái không khí bạn bè này, tôi có cảm tưởng thật dễ chịu, mặc dầu phần lớn tôi không có dịp quen biết và nói chuyện. Bởi vì cách sắp xếp giờ thuận tiện cho Giáo Sư đi về đã đưa đến trình trạng có vị cả năm, tôi không hề gặp.

Đó là cái dở, cái thiếu của loại giáo sư Sàigòn. Cái thiệt thòi này còn thấy rõ, vì ít có cơ hội sống gần học trò. Thầy trò gặp nhau gói gọn trong 55 phút, rồi mỗi người mỗi ngả. Điều này vẫn là một trăn trở đối với tôi sau này. Một tuần có những khi 55 tiếng dạy. Chạy trường như chạy show.

Càng nổi tiếng, càng không còn là người Thầy.

Ông Hiệu Trưởng Bảo thì cũng dân Sàigòn lên mà tôi còn nhớ trong suốt những năm dạy học chưa hề tới nhà một lần. Vì bận, vì đủ thứ, vì đủ cớ để không đến thăm ông được. Sêu tết cũng không có đến là thất kính. Nghĩ lại sau này đến là ngượng. Mà cũng đến là hay. Gặp thì chào hỏi đôi câu. Nhưng vẫn có một dây liên lạc tốt đẹp bất thành văn giữa Hiệu Trưởng và Giáo Sư. Đó là thứ liên lạc bạn bè, đến độ tôi có cảm giác nó vượt khuôn khổ hành chánh. Tôi chẳng bao giờ ké né, hoặc giữ lễ với ông cả. Tôi tự nhiên và bình đẳng trong giao tiếp. Đối với các vị Giám Học, Giám Thị thì tôi lại giữ lễ nhiều hơn. Chẳng hiểu sao nữa.

Ông là người cởi mở, bỏ qua, không chấp nhiều chuyện nhỏ.

Nhưng ghi lại đây như một kỷ niệm đẹp để thấy cái đời đi dạy chẳng phải luồn cúi ai, chẳng phải biếu xén phiền hà, chẳng trên dưới bao nhiêu.

 

*

Đời Giáo Sư là tự do nhất so với tất cả các ngành nghề công chức khác.

Bởi vì một lẽ đơn giản, công chức mà không phải công chức. Bởi vì không hề có mảy may trong đầu nghĩ đến chức tước, nghĩ đến ngạch trật. Có chức tước, có quan quyền, con người dễ đâm hèn. Là có quỵ lụy, là có mất cá tính người.

Giáo Sư là Giáo Sư, suốt đời là giáo sư. Nói ra thì nó buồn cười như thế đấy. Và tất cả uy tín người Thầy nằm trong việc giảng dạy. Tất cả cái uy tín nằm trong đôi mắt của học trò.

Nói chi đến những giờ rảnh. Tuần 15 tiếng dạy chính thức, có thể gói trọn hai ngày. Còn lại là tự do. Ôi tự do, ta quý ngươi!

Sau này, khi tuổi đã nghiêng. Đã nhiều lần. Nói cho đúng hơn, nhiều đêm, tôi vẫn có những giấc mơ đi dạy. Sáng ra lại tiếc. Và lần nào mơ cũng thấy mình dạy hay cả.

Cuộc đời ông Thầy gắn liền vào thế giới học trò. Đó là cái may mắn thứ hai cho ông Thầy và đó là nguồn vui bất tận. Chả bao giờ múc cho cạn. Cho nên, làm Thầy mà không tìm thấy ở đó một niềm vui thì đó là một điều bất hạnh.

Tôi đã chẳng bao giờ nếm mùi bất hạnh cả. Và đến tuổi này, không chắc còn tuổỉ nghiêng nữa mà có thể là tuổi ngả. Tôi cảm nghiệm được rằng cái biên giới giữa Thầy trò. Quá đẹp. Tôi chả có thể nói khác được. Tôi có nhiều kỷ niệm đẹp không nói ra lời. Đối với bạn bè là những điều trân quý và đối với học trò là những kỷ niệm. Đời tôi sinh ra là như thế với nhiều mảnh vụn làm nên cuộc sống hiện sinh. Hiện sinh trong cuộc đời và hiện sinh trong đời người. Nói cho cùng, có đôi chút mơ mộng, chút tuổi trẻ, chút gửi gắm, chút nhắn nhe, chút nghịch ngợm, chút tạm dung, chút tạm thời, chút gần nhưng cũng thật xa.

Cũng vừa đầy mà cũng vừa trắng tay.

Bây giờ thì điều quan trọng không còn là lúc để tỏ bày mà cùng ngồi với nhau mà nhắc lại. Nhắc lại cả những chuyện nhỏ đến không đáng nhắc. Càng không đáng nhắc lại càng là chuyện. Chả có gì xa hoa cả, chả có gì là không cảm động.

Lúc ấy là thường, là không cảm động. Bây giờ không là thường nữa và là cảm động. Cái gì cũng làm mình cảm động hết. Lúc trẻ thì để cười, bây giờ thì rơm rớm. Đừng xua đuổi những kỷ niệm ấy, vì đôi khi, đó là những gì đẹp nhất trên đời còn lại.

Chúng ta giầu là ở chỗ đó và ai nghèo thì cũng ở chỗ đó. Và ai muốn giầu thì bây giờ vẫn có thể giầu trong cái ngày hội ngộ, trùng phùng sắp tới. Và lúc ấy, chúng ta có thể ngớ ngẩn, ú ớ: cuộc đời đẹp quá, cuộc đời ơi!

Chúc mọi người những ngày đoàn tụ vui tươi và hạnh phúc từ khắp nơi trở về.

 

 

 

05 Tháng Năm 2011(Xem: 117466)
Khói trắng làn hương như tóc trắng Nấm mồ chưa kịp phủ màu xanh Con đốt hưong bay trong đêm vắng Nửa gởi quê xa, nửa cho mình!
05 Tháng Năm 2011(Xem: 41405)
Hôm nay, con viết vội vần thơ Khóc Mẹ một chiều gió Thu mưa Mong Mẹ từ đây đời thanh thản Nương cửa Từ Bi cõi Niết Bàn….
05 Tháng Năm 2011(Xem: 48109)
Cảm ơn người đã ghé thăm Mẹ tôi Tiếc đã trễ rồi, Mẹ tôi vừa mất Trễ một chút thôi mà vườn cau thôi xanh ngắt Lá trầu trải vàng một sắc nhớ Mẹ xưa!
05 Tháng Năm 2011(Xem: 129241)
Cảm ơn người đã ghé thăm Mẹ tôi Tiếc đã trễ rồi, Mẹ tôi vừa mất Trễ một chút thôi mà vườn cau thôi xanh ngắt Lá trầu trải vàng một sắc nhớ Mẹ xưa!
29 Tháng Tư 2011(Xem: 133563)
Chưa một lần gặp lại Đã vĩnh biệt muôn đời Lời tạ từ chưa nói Đã vội vàng chia phôi.
26 Tháng Tư 2011(Xem: 67432)
xin mời đến xem phim Bolinao 52 để thấy chị Trịnh Thanh Tùng, một chs NQ đã có mặt trong phim tài liệu Bolinao 52, kể lại kỷ niệm hãi hùng của chị trên đường tìm tự do năm 1988.
20 Tháng Tư 2011(Xem: 131064)
Nhớ không mày, trường Ngô Quyền xưa mình học, Thầy Bảo uy nghi, Hiệu trưởng cũ của mình, Giờ Thầy yếu rồi, bệnh nhiều, thương... thương lắm,
20 Tháng Tư 2011(Xem: 121800)
Quá khứ, kỷ niệm vẫn đeo đuổi tôi như hình với bóng. Quá khứ sẽ tan biến đi khi tôi không còn hiện diện trên cỏi đời nầy nữa. Buồn ơi! chào mi. Niềm vui ở lại.
16 Tháng Tư 2011(Xem: 142831)
Nuôi nuôi nấng nấng Từ đất mọc lên Không dễ gì quên Hoa bâng khuâng tím
10 Tháng Tư 2011(Xem: 137143)
Mụ ao ước nó cưới cho Mụ một cô gái cùng làng để Trâu ta ăn cỏ làng ta, trai làng lấy gái làng ta mới bền. Vậy mà thằng con đích tôn của dòng họ lại phải lòng một cô gái Biên Hòa.
10 Tháng Tư 2011(Xem: 113518)
Trong đêm trường tĩnh lặng, người phụ nữ đau khổ khóc nấc lên: “…Tại sao con tôi ra nông nổi này!? Tại… sao!?...”
10 Tháng Tư 2011(Xem: 127708)
Bài thơ tặng cậu bé Aisawa, nạn nhân của tai nạn sóng thần tại Nhật đã được phổ nhạc và dịch sang Anh ngữ, Nhật ngữ để phổ biến.
06 Tháng Tư 2011(Xem: 52542)
XIN HÃY ĐỢI AISAWA – Thơ Tưởng Dung - Phổ nhạc Phạm Trung – Ca sĩ Minh Quang
04 Tháng Tư 2011(Xem: 146857)
Buổi sáng mù sương rơi đọng đầy tay Xin tỏa ấm người đang lên con dốc Xin bụi đỏ xếp hàng thành ca khúc Mở lời yêu như đã phải lòng nhau
01 Tháng Tư 2011(Xem: 68174)
Anh như tia nắng xuân nồng ấm Nghiêng chiếu đời em vạt cỏ non
01 Tháng Tư 2011(Xem: 122251)
Mây trắng buồn trôi, mây viễn xứ Gió ơi! xin gió chở dùm ta Một chút tâm tư người ở lại Gửi cho bè bạn ở phương xa
27 Tháng Ba 2011(Xem: 133956)
Nhìn lên ảnh Mẹ những ngậm ngùi Nhớ lằn roi nhẹ nhớ không nguôi Con vẫn đi theo đường mẹ dẫn Tạ ơn roi Mẹ giúp nên người.
24 Tháng Ba 2011(Xem: 155780)
Em mơ có một ngày Bên đàn con cháu ngoan Ôn từng trang Sử cũ Rất kiêu hùng VIỆT NAM
21 Tháng Ba 2011(Xem: 132359)
Cả nhà nắng nhạt dần Lẫn vào thung lũng sâu Mặt trời gom nắng lại Khuất xuống chân trời xa .
12 Tháng Ba 2011(Xem: 70534)
Nhạc và lời: Phạm Chinh Đông – Hòa Âm: Đỗ Hải – Ca sĩ: Quốc Duy
11 Tháng Ba 2011(Xem: 72950)
- Thơ Trần kiêu Bạc - Hồng Vân diễn ngâm.