Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Đỗ Trung Quân - Năm Ấy Khai Sinh Trường Trung Học Ngô Quyền Biên Hòa.

03 Tháng Hai 200912:00 SA(Xem: 39186)
Đỗ Trung Quân - Năm Ấy Khai Sinh Trường Trung Học Ngô Quyền Biên Hòa.

 

NĂM ẤY KHAI SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC NGÔ QUYỀN BIÊN HÒA

 

                Đỗ Trung Quân (NQI 1956-1963)

 

 

Tỉnh lỵ Biên Hòa vào giữa thập niên năm mươi, các sĩ tử sau khi đỗ văn bằng Tiểu Học từ trường Nguyễn Du để bước lên Trung Học nếu muốn được tuyển vào trường công  phải đi Saigon dự thi vào trường Petrus Ký hoặc Gia Long với sĩ số đậu rất thấp nên đa số phải tìm một trường tư thục để nối  tiếp việc học. Nổi bức xúc đó thúc đẩy một nhóm giáo sư người Bắc di cư thành lập trường tư thục Phan Chu Trinh nằm trên Quốc Lộ I năm 1954, trường Trần Lãm trên đường Phan Đình Phùng (1955), sau đó thêm trường Khiết Tâm 1956 trong khu Nhà Thờ Biên Hòa cũng không đủ vào đâu, rồi thêm trường Minh Tân trên đường Hàm Nghi (1957), trường Tiến Đức (1961) trên đường Phan Đình Phùng. Trước tình hình đó Chánh quyền, Giáo chức, Phụ huynh học sinh, nhân sĩ nhanh chóng quyết định xin phép thành lập kịp thời trong năm 1956 Trường Trung học Công Lập Ngô Quyền lấy tên vị anh hùng dân tộc đánh đuổi quân Nam Hán. Hội đồng cho tổ chức ngay kỳ thi tuyển lấy 150 học sinh chia làm 3 lớp, 50 cho một lớp nữ B1, 100 cho hai lớp nam B2 và B3 xếp theo thứ tự điểm đậu từ cao xuống thấp.

Chưa có cơ sở, trường phải mượn tạm của trường Nguyễn Du dãy lớp cũ bên trái, có hành lang chạy suốt, đối xứng qua sân cột cờ là dãy lớp mới hơn cho nữ sinh Nguyễn Du, học sinh ra vào bằng một cổng phụ vừa đủ cho một người đẩy xe đạp qua, đến cuối dãy là bãi để xe đạp dưới một tàng cây phượng vĩ, ngăn cách với khu vệ sinh qua hàng rào dâm bụt dưới tàng cây dáy ngựa to lớn tạo bóng mát cho mấy gánh bán hàng ăn vặt cho học sinh Nguyễn Du trong giờ ra chơi. Trường Nguyễn Du từ nay là chiếc nôi của Trường Ngô Quyền. Một năm sau, Trường rời chiếc nôi chuyển sang Trường Nữ Công Gia Chánh đối diện với Bệnh viện Biên Hòa, nằm cạnh Sở Thủy Lâm nhìn ra Công Trường Sông Phố.

Buổi khai giảng diển ra trong niềm phấn khởi của cả tỉnh thật cảm động vào một buổi sáng cuối mùa mưa, Thầy Giám Học Hồ Văn Tam thay mặt Hiệu Trưởng Phan văn Nga trang trọng đọc diễn từ khai giảng cùng giới thiệu Ban Giáo Sư, từng học sinh được gọi tên xếp thành ba lớp, lớp nữ B1 vào phòng trong cùng, kế đến là lớp B2 sau cùng là B3 sát  bên đường Hàm Nghi. Buổi học đầu tiên với sự hướng dẩn của Thầy Bùi Quang Hụê cho lớp B3 chúng tôi, một thời khóa biểu gần như đầy cả sáu ngày hai buổi sáng chiều đầy đủ các môn học do Bộ Giáo Dục quy định, chương trình xem ra quá nặng đòi hỏi học sinh phải cực lưc mới kham nổi nhưng với ánh mắt hiếu học và lòng hãnh diện là những đứa con đầu lòng được chăm chúc từng bước của Thầy Cô đã nhanh chóng vào nề nếp, từ nay không còn bị quở phạt như còn “vị thành niên” như trước kia ở Tiểu Học.

          Mặc dù là một trường Trung Học, nhưng đa số gia đình còn nghèo do chiến tranh vừa kết thúc nên đồng phục chưa có, nam sinh còn mặc quần sọt hay xà lỏn áo sơ mi, đi chân đất, nữ sinh áo bà ba quần lảnh chân đi guốc hoặc dép, riêng lễ phục thì bắt buộc theo mẫu ấn định nam áo áo sơ mi tay ngắn, quần sọt, nữ áo sơ mi tay dài trắng, quần tây dài trắng, tất cả đeo phù hiệu “Hiệu Đoàn Ngô Quyền” bằng kim khí trên túi áo bên trái, đầu đội berret xanh da trời, chân đi giày bata trắng. Nhiều học sinh chưa có xe đạp phải cuốc bộ ngày bốn bận dù nhà xa như  Tân Vạn, Bữu hHòa, Hiệp Hòa, Hãng Dầu, Kỷ Niệm, Máy Cưa, Tân Mai, xa hơn là Tân Uuyên, Tân Ba, Tân Hạnh, Bữu Long, Trị An v.v.

Ban giáo sư đa số được đề cử từ các vị Thầy từ trường Nguyễn Du trước đã tốt nghiệp trường sư phạm Saigon ( École Normal Supérieure) với vài vị đang dạy từ Saigon chuyển về. Hình ảnh những vị Thầy đầu tiên với những bài học đầu tiên không được ghi lại một tấm ảnh nào nhưng vẫn nằm trong ký ức của học sinh Ngô Quyền I.

 Thầy Phạm Văn Tiếng dáng tròn trịa hồng hào với mái tóc bạc, trước Thầy dạy lớp Tiếp Liên ở Nguyễn Du đã bãi bỏ, môn Pháp Văn của Thầy học sinh đã có căn bản từ tiểu học, với những bài texte, grammaire, version, thème, rédaction nhất là récitation với mấy bài La main, Mon village v.v… không bao giờ quên, khi nghĩ hưu Thầy về căn nhà mới cất đối diện trường Phan Chu Trinh, bệnh tiểu đường làm mắt mờ rồi Thầy qua đời đươc hỏa táng khoảng năm 1980. Xin ghi nhớ ơn Thầy  khi đọc một tài liệu Pháp ngữ vẫn còn thông dụng trên Đai Học về sau này. Nối tiếp môn Pháp văn từ lớp Đệ Lục về sau là các Thầy Trương Phan Nam Minh với cách dạy đặc sắc, rất tiếc Thầy chỉ về trường năm Đệ Lục, nửa năm sau dạy thêm môn Lý Hóa và chuyển về Saigon, Thầy Phan Thông Hảo về thay thế cho đến hết năm đệ tứ với quyển “Cours de langue de la civilization francaise” nên được gọi là Monsieur Vincent, sau đó Thầy Huỳnh Quốc Tuấn gốc quân đội về làm Hiệu Trưởng (1959-1961), dạy thêm môn Pháp Văn vài giờ trước khi lớp Đệ Tam được mở ra, Thầy Tuấn cũng đã đề nghị bài “ Ngô Quyền Hành Khúc”với lời ca hùng hồn trước khi Thầy trở về với quân đội:

 

“Hồn non nước đang dục ta tiến lên,

Gắng nghiên bút sách đèn chúng ta xây đời mới

Lòng anh dũng Ngô Quyền xưa chớ quên

Gắng nghiên bút sách đèn  cho vinh danh Rồng Tiên 

Học sinh nâng cao tài ba

Học sinh tương lai về ta

Học sinh tươi thắm như đóa hoa

Học sinh cương quyết gắng công sách đèn vẽ vang người Việt Nam.”

 

Sau năm đó ba lớp đều chọn sinh ngữ Anh Văn làm sinh ngử I vì số học sinh chọn Pháp Văn quá ít, từ Đệ Tam, Pháp văn là sinh ngữ II do Thầy Phan Thông Hảo phụ trách. 

Có khoảng thời gian vài tháng vì phải sửa chữa mái trường cho mùa mưa, các lớp phải tạm mượn vài lớp trên trường Nữ Tiểu học ở Cây Chàm rồi trở về lại sau đó. Cuối năm Đệ Tam (1961) ba lớp mới được dời lên cơ sở mới vừa được xây dựng và cơi thêm lầu đựợc hai dãy, gần đài Kỷ Niệm các chiến sĩ Đồng Minh, đất đai rộng rải khang trang, nhập chung lại với các lớp niên khóa sau đã may mắn về cơ sở mới này trước đàn anh.   

          - Thầy Bùi Quang Huệ với cặp kính trắng và giọng nói lớn đảm nhận môn Việt Văn, từ Cổ văn đến Kim văn, bước vào văn học cổ với nhiều điển tích gốc Hán Việt tới những áng văn mới, tất cả đều cần yếu để hiểu  tiếng Việt đến nơi đến chốn. Thầy hướng dẩn lớp B3 chúng tôi, cũng hăng hái lo lập đội bóng tròn cho học sinh vận động thể dục, Thầy liên tục dạy nhiều năm,  sau 1970 về hưu ở Thủ Đức và mãn phần  tại đó. Xin ghi nhớ công lao tận tâm của Thầy đã truyền đạt sự phong phú của tiếng mẹ đẻ phải mất nhiều công để thông suốt cho suốt học trình sau này. Qua năm sau lên Đệ Lục, Cô Phạm thị Kim Thanh từ Saigon về dạy  được một năm bàn giao lại cho Thầy Hoàng Phùng Võ đảm nhận hai năm Đệ Lục và Đệ Ngũ. Thầy Thân Trọng Hưng tốt nghiệp Văn khoa Việt Hán về dạy Đệ Tứ, chuẩn bị cho các đề thi luận đề văn chương và luân lý trong kỳ thi Trung học Đệ nhất cấp lần đầu tiên tổ chức tại Biên Hòa. Lên đệ nhị cấp có thêm Thầy Phạm Đức Bảo vừa làm Hiệu Trưởng dạy Đệ Tam, Thầy Nguyễn Thế Văn dạy Đệ Nhị, đến lớp Đệ Nhất môn Triết có Thầy Nguyễn Xuân Hoàng vừa tốt nghiệp Sư Phạm Triết Viện Đai Học Đà Lạt về.

          - Thầy Đinh Văn Sái, dáng Thầy cao lớn, nghiêm nghị, Thầy phụ trách nhiều môn : từ môn Vạn Vật về các loài động vật có vú với những con tương cận tới thực vật về các loại hiển hoa bí tử, hiển hoa khỏa tử, môn Vật Lý, Hóa Học về các kim loại và chất vô cơ, môn toán Số Học về các số mã. Xin ghi nhận công ơn nơi Thầy các môn khoa học căn bản cho sau này, nhớ nét nhìn nghiêm khắc của thầy với học trò nào cần khiển trách, bắt lớp học phải luôn chăm chú vào lời giảng .Thầy qua đời tại tư gia đối diện với bệnh viện Đồng Nai. Môn Vạn Vật lên năm Đệ Lục và kế tiếp có Thầy Phạm Văn Quảng đến Thầy Nguyễn Thất Hiệp. Môn Toán có Thầy Dương Quang Lộc đến Thầy Nguyễn Phi Hùng, Nguyễn Bát Tuấn. Với Ban B khoa học Toán về sau nhiều Thầy Toán về tăng cường cho lớp Đệ Nhất mới đủ như Thầy Cù An Hưng, Hoàng Đức Phương, Tôn Thất Long. Môn Lý Hóa ba năm sau được các thầy Trương Phan Nam Minh, Hoàng Quý Nam, Phan Thanh Hoài, lần lượt phụ trách. Lên Đệ nhị cấp có Thầy Trần Tấn Lộc dạy Đệ Tam, Đệ Nhị, Nguyễn Trường Hải dạy Đệ Nhất.

- Thầy Dương Hòa Huân, dáng người mập mạp tươi cười, về thay cho Thầy Hồ Văn Vinh dạy môn Sử Địa liên tiếp  đến năm Đệ Tứ gồm cả Thế Giới Sử và Địa Lý thế giới để thi Trung Học Đệ nhất cấp, môn học tuy hệ số 1 nhưng kiến thức này được dùng suốt đời, với phương pháp hấp dẩn Thầy bắt phải thuộc từng giai đoạn  lịch sữ chống xâm lăng của dân tộc qua các triều đại. Ngoài ra Thầy còn đảm trách môn Công Dân Giáo Dục về các quyền tự do căn bản của công dân một nước tự do dân chủ như quyền tư hữu, quyền tự do cư trú, đi lại, tự do tư tưởng như tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do  tín ngưỡng, tự do kinh doanh, biểu tình đình công bãi thị, tự do lập hội gia nhập hội v.v… Thầy đã mệnh chung năm 2005 vừa qua tại quê nhà. Xin ghi nhớ công ơn những kiến thức vô giá Thầy đã truyền lại cho nhiều lớp Ngô Quyền suốt thời gian dài. Môn Sử Địa lên Đệ nhị cấp có Thầy Đặng Quốc Toản vừa tốt nghiệp Đai Học Sư Phạm về gánh vác,  môn Công Dân Giáo Dục do cô Bùi Thị Ngọc Lan vừa đảm nhận lớp Hiệu Đoàn, đến Thầy Phạm Gia Hưng nối tiếp với chương trình “Cơ cấu chánh quyền trong chế độ tự do dân chủ” với thuyết phân quyền: Lập pháp-Tư pháp- Hành pháp theo Montesquieu và J.J. Rousseau qua hai tác phẩm nổi tiếng Le contrat social và L’esprit de loi.

- Thầy Phạm Văn Mẫn, với dáng nghệ sĩ mảnh khảnh, tóc chải tém ra sau ót, phụ trách môn Vẽ, nổi tiếng với nét chử rất đẹp hiện trên văn bằng Tiểu Học của mỗi người, Thầy cũng là người phác họa ra chiếc phù hiệu kim loại cho trường với chiếc thuyền buồm trên sóng nước Bạch Đằng Giang. Thầy vừa mệnh chung năm vừa qua 2005 tại quê nhà. Xin ghi nhớ ơn Thầy qua những giờ vẽ thoãi mái: vẽ truyền chân, vẽ trang trí, vẽ theo trí nhớ.

- Thầy Trần Văn Lộc phụ trách môn âm nhạc, lúc Thầy đang dạy lớp Nhất E Nguyễn Du nên chỉ dành ngày thứ năm hằng tuần cho Ngô Quyền, nhờ Thầy học trò có được kiến thức về ký âm pháp (solfege) nhưng dể ghi nhớ nhất tiếng đàn violon của Thầy réo rắc những bản nhạc trong tiếng hòa ca những bài tuổi học trò như “Chia tay mùa Hè ” hay những bài chọn lọc như “ Chuyến tàu thống nhất”  hoặc những màn trình diển như vũ điệu “Jambalaya” dí dỏm hay vở hài kịch “Nồi cơm cháy khét” cho tới nay còn phải nhắc tới khi gặp lại Thầy. Sau chuyến du lịch qua Cali năm vừa qua, chúc Thầy luôn bình an sức khỏe nơi quê nhà với nhóm học trò nội địa.

- Thầy Trần Minh Đức, với dáng trẻ trung thường trong chiếc áo carreau khi đứng giảng bài giữa hai dãỵ bàn. Thầy đem về cho học sinh một ngôn ngữ mới, những bài học vỡ lòng lý thú từ quyển “L’anglais vivant cinqième bleu” của Carpentier Fialipp. Thầy dạy thật nhanh bắt hoc sinh phải chạy theo một năm mà tiến bộ không ngờ, theo đà đến hè Thầy tiếp tục mở lớp dạy miển phí tại nhà cho đám học trò quá hiếu học. Hiện nay, Thầy vẫn định cư bên Washington sau thời gian dài làm phóng sự cho đài VOA sau 1975, thầy về hành nghề luật sư. Chúc Thầy vẫn trẻ trung như ngày nào để góp sức bảo tồn truyền thống quý giá của trường Ngô Quyền. Xin ghi nhớ công lao ban đầu Thầy đặt căn bản Anh ngữ vững chắc cho ba lớp Ngô Quyền đầu tiên cho tớí nay cuộc sống tha hương cần đến hơn bao giờ hết. Nối tiếp những năm sau, được các thầy Phan Thanh Hoài về từ Saigon và Nguyễn Hữu Thiệu vừa du học bên Mỹ về. Thầy Hoài còn lại gắn bó và đảm nhận thêm những môn Lý Hóa, Hiệu đoàn cho tới lớp Đệ Tứ và giữ môn Anh Văn cho tới lớp Đệ Nhất với quyển “ La vie en Amérique”(1963).

Càng về sau với cơ sở mới, đội ngũ giáo sư càng hùng hậu, nhất là lúc mở thêm Trường Bán công Trần Thượng Xuyên, đứa em thân thiết nằm bên cạnh, lúc ấy những cánh chim Ngô Quyền I đã tung bay khắp muôn phương (1963). Sau này Trường Trần Thượng Xuyên tách rời về khu trường Khiết Tâm nhường lại toàn bộ cơ sở cho Ngô Quyền. 

Cho đến nay 50 năm trôi qua với bao nhiêu biến động khủng khiếp của lịch sử, được diễm phúc là một học sinh lớp B3 của trường Ngô Quyền thuở sơ khai tôi xin ghi lại đây bằng ký ức của mình và vài bạn trong ba lớp Ngô Quyền I hình ảnh Trường Ngô Quyền chúng ta được khai sanh giữa thời đất nước chuyển tiếp từ chế độ thuộc địa Pháp sang nền Đệ Nhất Cộng Hòa trong hoàn cảnh đất nước bị qua phân. Trường Ngô Quyền lớn lên không ngừng trong bối cảnh đó, từ Đệ Nhất  Cộng Hòa sang  Đệ Nhị Cộng Hòa với chủ trương một nền giáo dục “Nhân Bản và Khai Phóng”. Đến biến cố 1975, bao nhiêu đổi thay xảy đến cho Ngô Quyền, cũng như bao nhiêu trường Trung Học miền Nam, học sinh gốc Ngô Quyền phân tán khắp nơi trên thế giới, số còn ở lại quê nhà với cơ sở vừa xây lại mới, nhưng dù ở nơi nào học sinh Ngô Quyền quyết giữ truyền thống hiếu học với tinh thần “tôn sư trọng đạo” với Thầy Cô, một dạ chân tình với bằng hữu, xin được kính cẩn nghiêng mình thắp nén tâm hương để tưởng nhớ các vị Thầy đã quá vãng, hoài niệm các Bạn đã qua đời của niên khóa đầu tiên 1956-1957. Mãi mãi ghi nhớ công ơn giáo dục của tất cả các vị Thầy đã đem hết lương tâm chức nghiệp từ lớp Đệ Thất đến lớp Đệ Nhất với bao kỷ niệm suốt học trình đã kết tinh thành chuổi hạt kim cương long lanh dưới mái trường Ngô Quyền thân yêu của chúng ta.   

 

                                                Nam Cali Tháng Tư 2006

 

04 Tháng Hai 2009(Xem: 47215)
Một cuộc biển dâu, đổi đời, tang thương đã diễn ra quá nỗi bi đát. Biên Hòa còn đó, mà lòng Biên Hòa đã mất tự bao giờ. Nay tuổi đời đã cao, nghĩ đến thời son trẻ, mà ngậm ngùi tiếc nuối quá khứ. Công đã tạm thành, danh đã tạm toại, nhưng tâm hồn tôi vẫn ngậm ngùi nhớ tiếc những phút giây hạnh phúc đầu tiên, đã qua mất rồi.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 82020)
  Như mây xuống phố chiều nay , Nhớ về trường cũ những ngày xa xưa. Môt mình lê bước trong mưa, Mang theo kỷ niêm trường xưa Ngô Quyền .  
04 Tháng Hai 2009(Xem: 37851)
  Một ngày cuối tháng 5 năm 2004, nhóm CHS/NQ/NCA tề tựu lại làm một cuộc viễn du lên miền Bắc Cali. Trước mắt là để xả hơi sau những ngày vật lộn với miếng cơm manh áo, sau là họp mặt với nhóm CHS/NQ/BCA để cùng ra mắt cuốn Kỷ Yếu CHS/NQ 2004.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 73694)
  Bốn mươi năm lẻ: nửa bóng câu. Em biết đến ta bạc mái đầu. Lầu chiều Hoàng Hạc còn đứng đợi. Mang hết niềm riêng tới muôn sao.    
04 Tháng Hai 2009(Xem: 77500)
Mưa rơi trên phố vắng, Mưa rơi trên đường xưa Ta, nỗi buồn sâu lắng, Ngồi quạnh hiu, nghe mưa!
04 Tháng Hai 2009(Xem: 36139)
  Dù biết rằng viết những lời tán tụng nhan sắc của cô, tôi đã làm một việc quá thừa, nhưng tôi vẫn muốn cô biết những ý nghĩ của tôi và biết đâu của nhiều bạn khác cùng lứa đã “say mê” cô như tôi vậy!    
03 Tháng Hai 2009(Xem: 40388)
Tôi có nhiều kỷ niệm đẹp không nói ra lời. Đối với bạn bè là những điều trân quý và đối với học trò là những kỷ niệm. Đời tôi sinh ra là như thế với nhiều mảnh vụn làm nên cuộc sống hiện sinh. Hiện sinh trong cuộc đời và hiện sinh trong đời người.
03 Tháng Hai 2009(Xem: 75493)
  Gặp nhau truyện cũ vui như tết, Nhắc lại ngày xưa, đẹp tựa hoa.  
03 Tháng Hai 2009(Xem: 34064)
  Tất cả kỷ niệm về trường Ngô Quyền là nỗi ngậm ngùi của những cựu học sinh, vì trường cũ còn đâu!
03 Tháng Hai 2009(Xem: 36882)
  Thế hệ chúng tôi ăn sinh nhật tuổi 18 của mình ngay năm 1975, bài viết này xin dành cho những bạn học, từ lớp 6 đến lớp 12 của trường Ngô Quyền năm 1975. Bao nhiêu người đã như một đàn chim tung cánh, bước ra khỏi cổng trường và bay đi tứ phương. Có những người hạnh phúc và thành đạt, có những người lầm than và khắc khoãi.
03 Tháng Hai 2009(Xem: 69137)
  Ta vẫn là ta tự thủa nào Môi hồng, mắt sáng, mộng trăng sao… Trùng Phùng mở hội, mười phương nhạc , Xuân ngát một trời, tình vời cao !                                
03 Tháng Hai 2009(Xem: 39307)
  . Mười ba năm đi dạy, là mười ba năm tôi sống hạnh phúc nhất đời tôi. Người thầy là con đò chở các em sang bờ khác. Cuộc hành trình không nhàm chán, rất thú vị và “tích lũy” kỷ niệm.
03 Tháng Hai 2009(Xem: 80534)
  Trong những giây phút thiêng liêng ấy, tôi sực nhớ lại hình bóng người Ông khả kính: ông ngoại PHAN VĂN NGA, nguyên Trưởng Ty Tiểu Học tỉnh Đồng Nai (trong chế độ cũ).
03 Tháng Hai 2009(Xem: 74009)
  Tôi bắt đầu lên tỉnh học từ 1960. Ba mất sớm, nhà quá nghèo, anh chị em lại đông. Trong suốt thời gian đi học, tôi đã làm rất nhiều nghề để có tiền sinh sống, nổi bật nhất là nghề dạy kèm.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 65687)
  Tôi chỉ viết về những năm đầu tiên mà ký ức của tôi còn lưu giữ. Sau này, khi tập hợp được các anh em ở những niên khóa sau, lần lượt chúng ta sẽ đúc kết thành một bản danh sách hoàn chỉnh.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 33839)
  Phải chi dòng sông Đồng Nai chảy ngược, có thể tôi đã thấy lại mình trong sân trường ngày trước, thuở học trò vô tư
02 Tháng Hai 2009(Xem: 42888)
Trong đời làm việc của tôi, từ dân tới lính, ông là vị chỉ huy duy nhất mà tôi còn nhớ tới, với lòng kính trọng.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 38584)
  Một ngọn gió dịu mát của mùa Xuân đã đưa tư tưởng tôi bỗng dưng trở về nơi chốn cũ, nơi đó có bày chim con chưa ra ràng nhưng đã muốn tập tễnh bay lượn, vỗ đôi cánh non nớt như muốn tung bay ra khỏi tổ ấm êm đềm và sự che chở thương yêu của chim mẹ, muốn tìm hiểu chân trời ngoài kia bao la rực rỡ muôn màu ra sao .
02 Tháng Hai 2009(Xem: 46352)
Những ngày xa quê hương, lưu lạc xứ người, bận biụ với cuộc sống, tôi luôn luôn nhớ về quê nhà, nhớ về xứ Cù Lao với dòng sông Đồng Nai yêu dấu; gần đây tôi có tìm đọc thêm về xứ Đồng Nai thuở ban sơ cùng sự nghiệp khai sáng miền Nam của Ngài Nguyễn Hữu Cảnh. Nay tôi xin ghi lại những sự kiện, kiến thức tìm học đựơc bằng tấm chân tình cuả người con đất Cù Lao Phố, Đồng Nai.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 71709)
Ngày nay con đã là cô giáo, "Mộng" đã thành rồi!...Mẹ thấy đâu? Đầu xanh bao mái nhòa trong mắt, Vẳng nghe tiếng mẹ ở nơi nao?...
02 Tháng Hai 2009(Xem: 34521)
  Năm đó, tôi về Việt Nam ăn Tết và cũng để mừng má tôi tròn một trăm tuổi. Đó là lần thứ hai tôi về Việt Nam . Kỳ trước về với vợ con nên đi đâu chúng tôi cũng dùng xe nhà của thằng em bà con cho mượn với tài xế (Thằng em này "biết làm ăn" nên bây giờ nó khá lắm). Kỳ này về một mình, tôi định nếu có dịp sẽ dùng xe công cộng một lần cho biết.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 78452)
  "Khi thầy viết bảng, bụi phấn rơi rơi, rơi trên bục gỗ, rơi trên tóc thầy...” Tiếng nhạc từ phòng con gái của tôi vọng sang, làm tôi hồi tưởng lại những bàn ghế cũ, phấn trắng, bảng đen...
30 Tháng Giêng 2009(Xem: 68752)
Cũng nhờ vậy rất nhiều cánh chim NQ lạc loài ở phương trời xa tìm về liên lạc được quý Thầy Cô và bạn học năm xưa. Điển hình chúng tôi ở Âu Châu mừng quá khi nhận và đọc được 2 quyển báo học trò đó, tưởng chừng như thấy lại thời NQ xa xưa.   Đặc biệt tìm thấy trong đó có cả một vườn thơ Tao Đàn đủ sắc hoa rực rở.
29 Tháng Giêng 2009(Xem: 66843)
*   Viết kính tặng thầy Nguyễn Xuân Hoàng với lòng Yêu Thương, Kính Trọng và Cảm Thông sâu xa nhất .  
29 Tháng Giêng 2009(Xem: 76188)
  Hỡi cô Cựu Nữ Sinh Ngô Quyền, hỡi cô bạn hàng xóm của tôi ơi!   Tôi rất cảm phục và trân quí cô.   Nếu giữa cô và tôi không có thứ tình cảm nào khác thì trong tôi sẵn có có một thứ tình keo sơn gắn bó với cô từ lâu, từ thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành, kéo dài cho đến tuổi…sồn sồn bây giờ và tuổi già sắp tới, đó là tình bạn.   Còn cô thì sao?
29 Tháng Giêng 2009(Xem: 38717)
Thôi thì:    “Đã mang lấy Nghiệp vào thân   Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa!” (ND).  
29 Tháng Giêng 2009(Xem: 81415)
(Thân tặng các em cựu học sinh Ngô Quyền, đặc biệt các em Ban Văn Nghệ Hiệu Đoàn thời 69-71 )
29 Tháng Giêng 2009(Xem: 76774)
Từ chia tay ở Tân Mai, tôi không hề biết Th giờ ra sao? Cuộc chiến qua đi thật xa. Bao thăng trầm trãi xuống cho quê hương, cho đời người. Thì thôi, hãy là những lời cầu nguyện bình an cho nhau. Dẫu mai đời có thế nào?