Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Lê Anh Tuấn Và Nguyễn Kim Quang - Một Thời Để Nhớ.

03 Tháng Hai 200912:00 SA(Xem: 74241)
Lê Anh Tuấn Và Nguyễn Kim Quang - Một Thời Để Nhớ.

 

 

 

Một Thời Để Nhớ

 

                         Lê Anh Tuấn và Nguyễn Kim Quan

 

 

            Tôi bắt đầu lên tỉnh học từ 1960. Ba mất sớm, nhà quá nghèo, anh chị em lại đông. Trong suốt thời gian đi học, tôi đã làm rất nhiều nghề để có tiền sinh sống, nổi bật nhất là nghề dạy kèm.

Lúc thầy Mai Kiến Phúc rầy rà đuổi tôi ra khỏi lớp, lý do không thuộc bài năm lớp 11, thầy có biết không, em đâu có được như các bạn, đi học về nhà là có cơm ăn, có thời giờ để học bài. Còn tôi, tan học, bụng lại đói, còn phải đi dạy tối khuya mới về, rồi lấy nồi nấu cơm ăn. Một số bạn trai A2, A1 có đến chỗ tôi ở, thấy nó chỉ là một mái che bằng thiếc độ 8m2, nắng thì nóng như lửa đốt, còn mưa thì ướt át như ở ngoài trời, xung quanh ván vách hư nát.

Bước đầu đi dạy không phải là dễ. Bạn tôi Lê Anh Tuấn xuống trường Minh Tân đứng trước cổng, em nào đi vào tôi cũng tự giới thiệu, mời mọc, chúng nghe xong rồi đi luôn…Ngày này qua ngày nọ, tôi hỏi thiệt có em nào bây giờ dám làm như chúng tôi không? Trời không phụ người nghèo, được 2 em Nguyễn Thị Thanh và Ngọc Bích nhận lời (cô Thanh hiện là Hiệu Trưởng và là thầy vỡ lòng con tôi, em Ngọc Bích có tiệm tạp hóa Hiệp Lợi). Khi đến nơi, hai em thấy chỗ tôi ở quá tầm thường, có lẽ vì lòng thương hại muốn giúp tôi hơn là đi học thêm.

Về phần tôi, phải học cấp tốc các sách Toán, Lý Hóa từ lớp đệ Thất trở lên, soạn cẩn thận, nhét vô bụng, phải giải hết các bài toán đính kèm, kẻo học trò nó hỏi mà không giải được thì mất uy tín. Về lớp học, nhờ anh Phạm Hùng sang giúp mua ván, đóng thành bàn dài và hai cái băng, thế là xong. Riêng tấm bảng, tôi lấy nước sơn, sơn luôn cả vách hè, trên đó tôi viết câu: “Không thi đỗ, không về xứ”. Mấy em đến học, chúng chọc quê tôi, viết trên bàn: “Không thi đỗ, không lấy chồng”. Còn em Đỗ Văn Bụng, quê Lái Thiêu, cũng viết một câu trên chỗ ngồi để lấy lòng người đẹp, “Không thi đỗ, không cưới em”. Về tư cách, phải có bản lãnh đứng đắn, đứng xìu xìu, ển ển, học trò nó xem thường. Tôi noi gương thầy Nguyễn Thất Hiệp, học trò không làm bài, cảnh cáo, và sẵn sàng chưởi thẳng tay. Chính nhờ cái khó đó, người này giới thiệu người kia, mời về nhà dạy con cái của họ.

Về học phí, lúc đó Minh Tân lấy 120 $, tôi lấy 100$, có em nghèo tôi không lấy. Có em cho nhiều hơn, nhận luôn. Được một thời gian ngắn, số em lên đến chín đứa, lớp học quá tải, anh Phan Thành Nam (tiệm mộc Phan Thành) bảo tôi đến nhà dạy cho 3 đứa em của anh (Lân, Long, Dũng). Tôi phải mời Lê Anh Tuấn dạy thêm giờ lớp ở ngoài hè… và tôi bắt đầu chạy show. Không biết ai mách thầy Nguyễn Thất Hiệp, tan học thầy hỏi tôi:

- “Bộ em dạy Toán Lý Hóa hả?”

-“Thưa thầy đói quá làm càng.” Tôi đáp lại.

Tưởng thầy rầy …không…thầy khuyến khích, ủng hộ, động viên. Thầy còn nói:

          -“Có gì khó khăn, cho thầy biết”, chúng tôi lên tinh thần.

         Có vong hồn bà T. T. Phạm Văn Bê (ông làm Quận Trấn Trưởng Long Khánh khóa 10 SQVB), tôi dạy 3 đứa con của bà (Mỹ Huệ, Hoàng Anh, Anh Tuấn). Bà trả tiền rất hậu, bà còn mời tôi ăn cơm với bà và 3 em trước khi về, lần nào cũng vậy. Rồi tiệm vàng Kim Châu (Minh, Kim Châu, và Hoàng), bà Chín Nga bán vải (Tuấn, Phụng), tiệm thuốc tây Hàm Nghi (Hân), cô giáo Mua (Phương Lan, Phương Mai), con chủ lò gạch (Thời), cô giáo Nghiêm và Nguyễn Thị Giàu (hiền thê tôi bây giờ), hai em (quên tên) con của thầy giáo Nhất và cô Hoàng, và một vài chỗ lâu quá không nhớ hết.

            Sắp đến ngày thi, phải ngừng dạy, nếu không: Anh rớt tú tài, anh đi trung sĩ…

            Sau kỳ thi đó, chúng tôi đỗ trong vinh quang: bác Phan Thành may cho bộ đồ veston, ông bà Kim Châu, bà Thiếu Tá, những nơi tôi dạy đều…tặng tiền và quà rất hậu.

Nhớ nhất là ông bà Kim Châu, bán vàng ở đầu chợ Biên Hòa, buổi cơm tối, có đầy đủ nhân viên, và 3 học trò, ông nâng ly chúc mừng, ông nói: “Thầy Quan nhà nghèo, vừa đi học, vừa đi dạy, còn đỗ tú tài , các con lấy đó làm gương (tôi không biết ông bà ở đâu để có dịp thăm viếng). Riêng anh Tuấn, mỗi lần có tiền học phí, tôi chia đôi với anh, anh chỉ lấy một ít thôi.

            Thừa thắng xông lên, tôi bắt đầu dạy thi tú tài (điếc không sợ súng). Ngũ long công chúa (Năm, Nhơn, Thu, Thuận, và Mùi), chúng tôi nói: “Thầy Phúc, thầy Hiệp dạy Toán Lý Hóa cho chúng anh như thế nào, chúng anh chỉ lại cho tụi em như vậy”. Lớp này có 3 người dạy, Anh Tuấn dạy hình học, anh Giang-Hưng dạy lượng giác, còn tôi bao chót (anh Giang Hưng người Hoa, bán hủ tiếu ở chợ Biên Hòa, sau đó anh qua Hong Kong, quí vị nào biết xin chỉ hộ, đa tạ.)

            Lớp dạy ở nhà ông giáo Trọng (Thuận, con ông Giáo, em Thu sau nầy là em dâu của anh Tuấn, em Ngô Mùi, tiệm Hòa Phát, sau khi chị đỗ tú tài, ba cho chị làm chủ tiệm vàng đường Lý Thường Kiệt). Mùa thi năm sau, 5 trò và 3 thầy đều đỗ. Công ơn này là do các thầy ở Ngô Quyền, chúng tôi được tiếng thơm lây.

            Nghề dạy kèm không phải để ăn tiền như tôi trình bày, cũng nhiều đắng cay, nhiều khi rớt nước mắt. Có những em chịu học, dù chậm hiểu cũng giúp cho mình hăng hái. Có những em lười biếng không chịu làm bài…nói 1, 2 lần không nghe, dạy lấy tiền mà con chủ nhà không biết gì mang tiếng, tôi xin nghỉ. Có những em học cho lấy lệ, tôi cũng không dạy, dù rất cần tiền. An ủi, có những em xuất sắc, Ngọc, em anh Xuân kỹ sư công chánh, Thu Hằng…tất cả còn ở trong tim tôi. Có những em, tôi đến nhà dạy mà vô lễ, tôi chưởi và tôi bỏ dạy (lành cho sạch, rách cho te tua luôn). Có những bài toán khó, các em phải cầu cứu cha giải hộ, chẳng hạn Mỹ Huệ, gọi phone xuống nhờ ba làm dùm.

            Còn một điều nữa tôi xin dặn cho thế hệ sau tôi. Khi chủ nhà mời dạy, xin yêu cầu có một tấm bảng, giữa thầy và trò phải có một khoảng cách, đừng bao giờ ngồi chung một bàn để đụng chạm, dễ sanh lòng tà tâm. Cũng có bao nhiêu anh đi dạy kèm thân bại danh liệt, nên cần lưu ý.

            Khi tôi vào đại học, thật là khổ sở. Lúc đầu sáng đi chiều về, dạy tại nhà anh Tuấn. Khuya 4 giờ, mẹ anh Tuấn thức dậy nấu cơm cho tôi ăn, rồi giở một gô mang theo ăn trưa, ngày này qua ngày nọ, làm sao trả được ân nghĩa này.

            Cô Dung bán chè trước rạp hát Biên Hùng, có đứa em tên Hạnh, học nơi tôi, cô Dung hàng tháng ngỏ ý giúp tôi tiền ăn học rồi sau này ra trường trả lại. Tôi cũng muốn nhận nhưng thấy cô Dung quá vất vả, bán từng ly chè, có bữa mưa gió bán không được, không đành, tôi xin nhớ trọn đời tấm lòng hào hiệp này.

            Trong lúc đó, Tuấn đã xuống học ở dưới Long Xuyên. Anh trở về thấy cái sinh hoạt của tôi quá bất tiện, mới tìm một phương khác giúp tôi. Lê Anh Tuấn đi hỏi vợ cho Nguyễn Kim Quan. Như tôi trình bày ở trên, cô giáo Nghiêm, cô đi học dự thính ở nhà em Thời, cô nói với Tuấn, bảo tôi đi hỏi cô em gái của chị, chị sẽ giúp tiền về Sài Gòn học và đừng về Biên Hòa nữa. Tôi lúc đầu không bằng lòng, Tuấn cắt nghĩa lợi hại, cuối cùng tôi nhận lời.

 

 

            Tôi và Tuấn xuống ngã ba Long Định đi Vĩnh Kim, tôi hẹn bà chị từ Cái Bè lên cho đúng phần lễ nghi. Nói có vong hồn Tuấn, anh lo đủ mọi thứ… Xuống tới nhà đằng gái ở Vĩnh Kim, nhà chị lót gạch tàu, nền cao tới ngực, thân nhân đằng gái đã tựu họp, vài ba chục người, tôi nói với Tuấn, “Lớn chuyện rồi”. Tuấn động viên, đừng lo, để tao đối đáp. Như quí vị cũng biết, tôi và Tuấn cũng muốn trông thấy giai nhân như thế nào… Nàng từ trong nhà bước ra, chị Nghiêm nói nàng kìa. Tôi và Tuấn chào, cô vợ tương lai hoảng hồn chạy cái vù, mất tiêu luôn…

            Sau khi về, chị Nghiêm hàng tháng cho tôi 500$, tôi xuống Sài Gòn, ở đại học xá Minh Mạnh do thầy Nguyễn Huy cấp… Ở được 5 tháng thì tới tuổi phải đi lính.

            Sau khi đi tù về, tôi có ghé thăm chị và người yêu quá bé nhỏ (lúc đó cô mới học lớp 7). Tuấn ơi là Tuấn.

            Nghề dạy kèm chưa chấm dứt, khi tôi vào trong quân đội năm 1972, chúng tôi đi chiến dịch ở quận Đức Dục Quảng Nam, lúc ký hiệp định Paris. Chủ Nhật dạy thêm học sinh ở trường trung học, dạy miễn phí, tập vở do ông Quận Trưởng cho. Đang dạy lớp 9, buổi học đầu tiên, ông Quận Trưởng, ông T.T. Triều vào lớp (1994 gặp lại ở San Jose). Các ông ngồi nghe, còn tôi ào ào trên bảng…như mới ngày nào. Tối đến, ông Quận Trưởng hỏi:

            -“Anh Quan, sao anh rành quá vậy?”

            -“Thưa Trung Tá, lúc còn đi học, tôi chuyên môn đi dạy kèm.”

            Đêm Noel 72, chúng tôi mừng Chúa Giáng Sinh tại quận Đức Dục, sáng 25 về Đà Nẵng dự thánh lễ và trực thăng đáp ở Hội An (Faifo), nơi đây chỉ có một đêm, nói sơ về cách học cho các em: Lài, Mai, Cúc, Trung, và Xuân ở tiệm bánh mì Tân Hương, đường Bạch Đằng đã để lại lòng tôi một kỷ niệm và nhiều thương nhớ.

            Mùa thi năm đó, theo lời cô Lài, nhờ sự động viên và khuyến khích của tôi, cô đã đỗ tú tài I và II. Sau này cô thường lên Đà Lạt, chúng tôi rất thương yêu nhau, nếu đừng có ngày ấy, chúng tôi chắc sẽ nên duyên:

            Biết chi một đêm, tha thiết chi một đêm, rồi xa nhau ngàn trùng.

            Chiếc trực thăng chở toán sinh viên chúng tôi rời quận Đức Dục. Lượn một vòng, rồi hai vòng…tất cả học trò, các thầy, cô Hiệu Trưởng Trịnh Thị Thu (người ở Đà Nẵng) rời khỏi lớp, ra sân trường tiễn chúng tôi. Chiếc phi cơ mất hút trên bầu trời xanh thẳm của mùa Xuân năm ấy…nhìn xuống những cái vẫy tay…biết bao giờ tôi trở lại quận Đức Dục thân yêu…âm thầm nhớ lại một bài thơ của em Trần Thị Ngọc An, lớp 9 viết tặng cho tôi ngày nào:

            Đây xứ Quảng quê tôi yêu dấu

            Có Thu sang soi bóng nước trong xanh

            Đèo Ải Vân non cao vút mây tầng…

            Tất cả là những hình ảnh đẹp nhất trong cuộc đời đi dạy kèm của chúng tôi. Các hậu duệ nên suy nghĩ về nghề này.

 

                               Tennessee, những ngày của mùa Xuân năm Bính Tuất 2006

                                                           

 

 

04 Tháng Sáu 2009(Xem: 70427)
Buồn vui là những đóm lửa. Những đóm lửa nhen nhóm hồn tôi. Tro tàn là những bài thơ này. Làm sao khơi dậy những đóm lửa rực rỡ bằng chút tro tàn đong đầy niềm đam mê, chung thủy của một thời đã xa xôi không thể tìm lại được.
03 Tháng Sáu 2009(Xem: 70246)
Tình đầu sương khói mong manh Nhặt gom kỷ niệm để dành tặng nhau...
03 Tháng Sáu 2009(Xem: 70150)
Nơi đây cũng có dòng sông Tình em chỉ chảy trong lòng sông xưa...
02 Tháng Sáu 2009(Xem: 18529)
Xe đã về bến…chợ ABC bình yên vào lúc 9 giờ tối Chúa Nhật 19 tháng 8. Cám ơn quý Thầy Cô và Ban Tổ Chức Hội CHS Ngô Quyền đã tạo được một chuyến đi “làm nên lịch sử” nối kết hai miền Nam Bắc về chung một mối, một nhà.
02 Tháng Sáu 2009(Xem: 37789)
Ba mươi năm sau, bên đời lưu lạc, ở tuổi nửa đời người, các cô, các bé ngày xưa mới biết một số Thầy Cô cũ đã từng là học trò Ngô Quyền như mình. Dù muộn màng, “Một góc Thầy Trò” xin được giới thiệu “Những CHS NQ trên bục giảng” để vinh danh các CHS NQ cũng là các Thầy Huỳnh Quan Phận, Diệp Cẩm Thu; các Cô Hà Thị Nhung, Liêng Tuấn Tài, Phạm Thị Hạnh.
27 Tháng Năm 2009(Xem: 87020)
  Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập trường, chúng ta quả thực rỏ ràng thấy được: Gốc cây trường trung học Ngô Quyền đã có nhiều cành ngọn và Nguồn trường xưa đã tỏa rộng khắp nơi.
26 Tháng Năm 2009(Xem: 37600)
Dưới đây là lá thư của CHS NQ Võ Thị Tuyết Mai, và những bạn bè, đồng nghiệp đã gửi cho Cô Ma Thị Ngọc Huệ, khi được tin Thầy Nguyễn Phong Cảnh từ trần vào ngày 4 tháng 1 năm 2006 tại California.
23 Tháng Năm 2009(Xem: 32740)
Trong đại gia đình Ngô Quyền hầu như ít nhiều ai cũng biết đến Thầy Vũ Khánh Thành. Thật vậy, ngoài lãnh vực giáo dục, từng là Giáo sư dạy môn Triết học tại trường Ngô Quyền chúng ta năm xưa. Từ lúc định cư tại Anh Quốc đến nay, Thầy không ngừng tích cực dấn thân hoạt động trên bình diện xã hội, văn hóa và chính trị cho cộng đồng Việt Nam tại đây.
17 Tháng Năm 2009(Xem: 67728)
Tình ta như đóa hoa quỳnh Đêm về chớm nở cuộc tình phai mau
17 Tháng Năm 2009(Xem: 67918)
Giáo đường xưa em theo anh xin lễ Nhưng bây giờ đường vắng chỉ mình em
15 Tháng Năm 2009(Xem: 77712)
Ở Việt Nam, mùa hè bắt đầu với những cành phượng đỏ nở rực cả góc trời, với tiếng ve kêu ra rả buồn xót xa, thì ở đây chỉ có hoa “jacaranda” và nắng ấm. Không biết từ bao giờ tôi đã yêu thích màu hoa “jacaranda”, thích ngang qua những con đường có trồng hoa rợp bóng, nhìn những cánh tím nhỏ li ti trải đầy trên đất, thêu từng mảng trên không, tôi cảm thấy dường như mình đang đi trong một giấc mơ.
14 Tháng Năm 2009(Xem: 75135)
Cha tôi cũng thường nói nhiều người trên đời này ưa làm anh hùng đến nỗi quên rằng mình có một bà mẹ. “Úi trời, làm anh hùng mà không có mẹ thì làm anh hùng mà chi!”
07 Tháng Năm 2009(Xem: 82238)
Kính mời Thầy Cô, mời anh chị, mời bạn cùng đọc thư của anh Trương Đức Hoàng để thấy tình nghĩa Thầy Trò (chắc đã trở thành “đồ cổ” ở Việt Nam hiện nay), và để tìm lại hinh ảnh “con dốc Ngô Quyền trần ai khoai củ” mà hầu hết chúng ta đã gò lưng đạp xe mỗi ngày để đến ngôi trường Trung học Ngô Quyền thân yêu, bây giờ chỉ còn trong trí tưởng…
30 Tháng Tư 2009(Xem: 37351)
Được sự đồng ý của tác giả – CHS NQ Nguyễn Ngọc Xuân - một bức thư rất cảm động gởi cho Thầy giáo cũ (Thầy Nguyễn Văn Phố) , “ Một góc Thầy Trò ” xin mời bạn cùng đọc lời tâm tình của một học sinh rất giỏi với Thầy giáo dạy Toán thời anh Xuân còn ngồi ghế NQ.
21 Tháng Tư 2009(Xem: 64547)
Biên Hùng xa vắng đã lâu Về đây bổng nhớ còn đâu thuở nào...
19 Tháng Tư 2009(Xem: 70682)
Buồn ơi, sao chẳng nên lời Mà trong đáy mắt một trời thương đau! Kiếp sau xin giữ đời nhau, Thay ân tình đã đi vào thiên thu…
19 Tháng Tư 2009(Xem: 68230)
Có đôi khi, tôi nằm nghe tiếng khóc buồn rầu như lời kinh vực sâu rót vào lòng, thương đau!
14 Tháng Tư 2009(Xem: 88303)
Cám ơn trận mưa đêm nay, đã đưa tôi trở về thăm lại những nhánh sông đời đã từ lâu rẽ nguồn, khuất lối. Mưa ở quê người chắc không sao bằng mưa ở quê nhà, nhưng dù là kẻ lạ, cũng xin được tri ân những giọt mưa đã làm tươi mát, rực rỡ thêm phần đất mà biết bao người Việt tha hương đã chọn làm nơi trú ẩn và làm một cõi để đi về.
08 Tháng Tư 2009(Xem: 70203)
SÁNG Thức giấc buồn thiu. Mưa rơi hiu hắt Người qua đìu hiu Lòng vắng tiêu điều!
08 Tháng Tư 2009(Xem: 65580)
Tình cứ đến, cứ như chồng vở cũ, Mở từng trang là từng chữ… yêu người. Cho ta viết bài hoan ca vô tận, Cho người về nhớ mãi phút thanh xuân!
07 Tháng Tư 2009(Xem: 66461)
Anh làm sao hiểu được. Những cánh buồm ký ức có thể mang chở tình yêu của chúng ta trở về, nguyên vẹn, tràn đầy .
06 Tháng Tư 2009(Xem: 71985)
Mưa rơi! mưa rơi! Đường chưa quên lối Sao nghe lạc loài Nhịp chân bối rối Theo mưa tìm ai?
06 Tháng Tư 2009(Xem: 67873)
Tháng ba hương bưởi thơm nồng Bỗng tha thiết nhớ một dòng sông xưa. Công viên dưới bóng hàng dừa Em, anh tình tự buổi trưa thuở nào.
06 Tháng Tư 2009(Xem: 67690)
Lần cuối gặp em lúc lập Đông, Đồn anh đóng mãi tận Bình Long. Thân trai chinh chiến đâu ai biết, Em ở Đồng Nai mãi ngóng trông.
31 Tháng Ba 2009(Xem: 69803)
Nắng reo bài tháng ba Lên bát ngát hoa vàng Trong khu vườn êm ả...
30 Tháng Ba 2009(Xem: 71746)
Ngày đầu một năm giở tờ lịch mới lòng như lá rơi chờ cơn bão nổi.
29 Tháng Ba 2009(Xem: 67632)
Biên Hòa giờ này còn đâu trường cũ. Một thuở hồn nhiên, ấp ủ tình đầu! Em ở bên này, tìm trong ký ức, Khung cửa, bậc thềm, góc lớp…chìm sâu!
29 Tháng Ba 2009(Xem: 66228)
Ở một góc đời em đã có, Những ô cửa nhỏ, bậc thềm quen. Sân nắng giờ chơi, trường lớp cũ. Quay lưng, còn nhớ thuở êm đềm?