Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Lê Văn Đông - Hoài Cảm.

24 Tháng Giêng 200912:00 SA(Xem: 75526)
Lê Văn Đông - Hoài Cảm.

 

 

Hoài Cảm

 

                                       LÊ-VĂN-ĐÔNG

                                            (Niên khóa 1957-1966)

 

Sau buổi họp mặt các CHS Ngô Quyền Hải Ngoại kỳ V vào 2 ngày 29-30/5/2004 tại thành phố San Jose miền Bắc California, về nhà rảnh rỗi giở tờ Kỷ Yếu NQ ra xem, trong lòng chợt dâng lên nhiều cảm xúc.

Trước hết, xin có lời khâm phục và cảm ơn Ban Chấp Hành và Ban Biên Tập với tinh thần “Ăn cơm nhà, vác ngà voi”, đã không quản thì giờ công sức gởi đến thầy cô bạn bè NQ cũ một “tuyệt tác” để đời. TẬP SAN KỶ YẾU NGÔ QUYỀN 2004, qua tuyển tập này, chúng ta đã có được khoảnh khắc thả hồn về dĩ vãng, nhớ lại một thời thư sinh áo trắng học trò xưa. Qua những hình ảnh, các bài viết của thầy cô bạn bè, chúng ta đang thấy lại từng khuôn mặt, dáng hình, tính cách của các ân sư, đưa chúng ta trở về con đường phát triển của mái trường xưa. Qua đó, câu nói “Cơm Cha-Áo Mẹ-Công Thầy” càng mang ý nghĩa sâu đậm hơn!

 

Trường được thành lập năm 1957, trải qua hai địa điểm “ăn nhờ ở đậu” để cuối cùng “an cư lập nghiệp” trên con dốc Huỳnh Của (gọi theo tên quán cháo lòng nem nướng ngon có tiếng ở đây), nằm cạnh Quốc Lộ 1 trên đường xuôi ra miền Trung. Tôi có vinh hạnh được đi học tại trường từ 1959 đến 1966. Sau khi thi xong bằng Tú Tài ÌI, khoảng thời gian ở đây đã khắc ghi trong tôi rất nhiều kỷ niệm buồn vui lẫn lộn.

 

Bốn năm đầu tiên bậc Đệ I cấp (từ đệ Thất đến đệ Tứ tức là từ lớp 6 đến lớp 9) chúng tôi học với các thầy: thầy Tiếng (Pháp Văn), thầy Huệ (Việt Văn), thầy Vinh (Sử Địa), thầy Sái (Toán, Vật Lý) là các giáo viên từ trường tiểu học Nguyễn Du đưa sang, vì trường mới thành lập còn thiếu giáo sư. Hiệu trưởng lúc này là ông Thanh Tra Giáo Dục Phan Văn Nga, sau là ông Đốc Học Hồ Văn Tam. Cũng có thêm những giờ học Nhạc (thầy Tỵ), Vẽ (thầy Mẫn) hoặc các giờ học Nữ Công Gia Chánh cho các nữ sinh. Các lớp đệ nhất cấp này nam nữ sinh học riêng, chia ra một tuần gồm 3 buổi sáng và 3 buổi chiều. Bốn năm đệ I cấp trôi qua êm ả nhẹ nhàng, các môn học không quá khó, chỉ nhằm mục đích khơi rộng những kiến thức đã thu thập ở bậc Tiểu Học. Lớp có khoảng 40 đến 50 học sinh, có 1 bạn làm trưởng lớp. Hai bạn tôi nhớ nhất trong các năm học này là Phan Văn Mau, viết chữ rất đẹp, thường lên bảng chép bài cho thầy, và Huỳnh Quan Danh, hiền lành học giỏi, làm trưởng lớp (Danh là anh của bác sĩ Huỳnh Quan Minh ở San Jose). Ngoài ra, tôi còn nhớ một số khuôn mặt thời này như: Trần Kim Đôn, Thái Tấn Phước, Nguyễn Văn Hoàng, Đào Duy Minh, Trần Quốc Bửu, Tô Hồng Dũng v.v…

 

Thi xong trung học đệ I cấp, học tiếp đệ II cấp (từ đệ Tam đến đệ Nhất). Trường bây giờ đã dời về địa điểm mới, khang trang rộng rãi, có sân chơi, nhà để xe đạp, phòng thí nghiệm cho các giờ Hóa Học, Vật Lý. Thầy cô cũng lần lượt được bổ nhiệm về nhiều hơn, phần đông đều trẻ trung, sinh động. Lớp tôi học, môn Anh Văn (sinh ngữ chính) với các thầy Phan Thanh Hoài, Đào Mạnh Đạt, và cô Nguyễn Thị Thu. Môn Toán với các thầy Nguyễn Sơn, Nguyễn Thất Hiệp, Nguyễn Bát Tuấn (hiện ở Úc). Môn Việt Văn với các thầy Phạm Đức Bảo (Hiệu Trưởng), Thân Trọng Hưng, cô Vương Chân Phương (ái nữ của cụ Vương Hồng Sểnh). Môn Pháp Văn với cô Nguyễn Thị Luông, Trần Liên Chi (phu nhân thầy Nguyễn Xuân Hoàng). Môn Vạn Vật với thầy Lê Tiến Đạt (với “nick name” là Đạt Phật Bà vì thầy rất đẹp trai và hiền lành), cô Tiên Quý Huê (chị của bạn Tiên Nguyên cùng lớp). Môn Sử Địa học với các thầy Dương Hòa Huân, Hà Tường Cát. Môn Vật Lý với thầy Thân Trọng Bình (thầy vào với tác phong rất chững chạc, luôn đeo cravatte đàng hoàng nhưng đến khi giảng bài, thầy đem hết tâm huyết say sưa với bài giảng, đến nỗi sau khi kết thúc buổi học … tay áo xắn cao, quần áo dính đầy bui phấn!). Đến môn Hóa là môn tôi sợ nhất vì quá rắc rối với các phương trình Hóa Học khó nhớ, thì lại là giờ tôi mong đợi nhất vì gặp lại thầy Hoàng Quý Nam, một sư phụ rất đẹp trai ăn mặc “đúng mốt” (xin được vô phép nhắc lại một sự việc vui vui là hồi đó, lũ học trò chúng tôi thường “cáp đôi” thầy Nam với cô Đặng Thị Trí vì hai vị trông rất xứng đôi).

 

            Chúng tôi còn học môn Triết với thầy Tâm, là một giáo sư còn rất trẻ; môn nhạc với thầy Lê Hoàng Long (tác giả bản “Gợi Giấc Mơ Xưa”).  Môn Công Dân Giáo Dục với cô Đinh Thị Hòa và hai thầy Phạm Gia Hưng, Hoàng Phùng Võ (đặc biệt môn này được xếp giờ từ 12 giờ đến 1 giờ trưa là giờ đã đói bụng mệt mỏi, nên chúng tôi thường cúp cua môn này. Biết tẩy lũ quỷ nên cứ đến giờ này là thầy Hiệu Trưởng hay cô Giám Thị Múi hoặc Cô Giàu thường đến lớp để điểm danh, nhờ đó mới duy trì được sĩ số của lớp học).

 

            Về phần bạn bè, qua năm đệ II cấp này, chúng tôi đã chững chạc vì đã ra vẻ thanh niên tuy vẫn còn những suy nghĩ, hành động, lời nói mang đậm bản sắc “thứ ba học trò!” Lúc này, theo đà tăng trưởng của chiến tranh, quân đội Mỹ đã đến Việt Nam và đặt căn cứ ở khắp nơi. Lối sống Mỹ cũng dần xâm nhập vào cuộc sống của lớp trẻ, mà điển hình là chiếc quần JEAN (còn gọi là quần Bò!). Lũ chúng tôi rất mê được mặc loại quần này, nhưng kỷ luật nhà trường rất nghiêm khắc, chỉ được mặc áo sơ mi trắng, quần ka ki xanh với phù hiệu trường trên ngực áo. Hôm nào “mốt” quá, muốn lấy le với bạn bè, liền mặc đại đi vào trường, là gặp ngay thầy Giám Thị hoặc thầy Hiệu Trưởng đã chờ sẵn, thế là đành tiu nghỉu quay về nhà thay lại chiếc quần ka ki truyền thống, chưa kể vào lớp trễ lại còn bị phạt cấm túc!

 

            Bạn cùng lớp với tôi ở các lớp đệ II cấp còn ghi nhớ có: Lê Xuân Hàm (mất năm 2002 ở San Jose), Nguyễn Văn Dũng (mất ở Việt Nam trước 1975), Trần Thành Ba, Lê Văn Cồn (đá banh rất khá mà chúng tôi đặt nick name là Cồn Lê, Cồn Lừa!) cùng Lê Văn Nhóm, Lê Đức Việt, Nguyễn Văn Tấn, Nguyễn Văn Lư, Nguyễn Văn Định, Nguyễn Hữu Dụng. Cũng phải kể đến các bạn Bắc Kỳ Hố Nai như: Nguyễn Văn Tần, Nguyễn Văn Hợi, Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Văn Đĩnh …đã dạy cho tôi nếm mùi thịt cầy từ dạo ấy. Cũng cần nhắc tới ban đại diện trường vẫn do Huỳnh Quan Danh đứng đầu, sau là Hồ Văn Bền, ban văn nghệ có 2 tay đàn Tây Ban Cầm là Nguyễn Trung Tâm, Nguyễn Đình Nguyên (ở San Diego) và các ca sĩ học trò: Trang Liên, Kim Liên, Jacque Liên … cùng tay solo nam Nguyễn Mạnh Xoa rất xuất sắc khi hát đơn nam trong hợp ca trong dịp phát thưởng Hè 1963 tổ chức tại rạp Biên Hùng.

 

            Năm lớp đệ Nhị, nữ và nam sinh bắt đầu học chung. Tôi chọn ban A nên trong lớp nữ sinh chiếm đa số. Bạn gái cùng lớp tôi còn nhớ: Bùi Thị Hảo (dược sĩ ở San Jose), Bùi Thị Duyên, Lê Thị Mỹ (con ông Hội Trưởng hội Phụ Huynh Học Sinh Lê Văn Nhơn), Dương Thị Bê, Phạm Thị Lớn (con ông Quận Trưởng quận Châu Thành Phan Văn Đời), Trần Thị Oanh (nha sĩ ở LA), Lâm Hồng Hoa, Liên Nữ Dung, Lê Thị Phượng, Trương Thị Yến, Huỳnh Ngọc Ánh (con ông chủ nhà sách Huỳnh Hiệp), Huỳnh Ngọc Mai (xướng ngôn viên đài truyền hình QLVNCH). Đặc biệt nhớ đến chị Thanh (bị người yêu bắn chết mà tác giả Trần Kim Vy có nhắc đến trong Kỷ Yếu NQ 2004). Thời gian này, tỉnh Biên Hòa chưa tổ chức kỳ thi tú tài nên chúng tôi phải “khăn gói quả mướp, lều chỏng: xuống thi ở Sài Gòn.

           

            Thắm thoát đã 50 năm kỷ niệm ngày thành lập mái trường NGÔ QUYẾN thân yêu. Qua bài viết này, xin được gợi đến quý thầy cô lòng biết ơn chân thành cùng những tình cảm với bạn bè cùng lớp năm xưa, hẹn gặp gỡ dịp HỘI NGỘ TRÙNG PHÙNG giữa năm 2006 này.

 

                                                San Jose, mùa Xuân 2006

                                                           

 

07 Tháng Giêng 2010(Xem: 74942)
Vạn dặm đường xa, vạn dặm xa Khói chiều vương vấn bóng quê nhà Lòng nặng lòng nghe hoàng hôn xuống Một khối tình em, một mẹ già
07 Tháng Giêng 2010(Xem: 71368)
Cho tôi nhìn thấy nụ cười, Ở trên môi những cuộc đời tối tăm. Cho mây về phố trưa nằm, Làm mưa trôi hết lỗi lầm ra sông.
27 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 75974)
Cúi xuống bờ dậu nghe nao nao Mẹ ngày hè cũng như tháng giá Ngẩng lên thấy mồ hôi ướt áo Vai mẹ gầy như cánh hạc xa
26 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 74153)
Nhắc lại năm xưa tuổi còn thơ dại Áo trắng tan trường kẻ đón người đưa Một thoáng thầm yêu giấu trong sách vở Ấp ủ lâu ngày hoa mộng thành thơ
26 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 75175)
Mùa xuân nghiêng bờ vai Ngắ m đào mai rực rỡ Trắng tinh chùm hoa đại Tỏa ngan ngát mùi thơm
19 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 32571)
Có những cá tính, những sở thích hôm nay bắt nguồn từ thời còn ngồi ở ghế Trung học được các Thầy Cô truyền dạy nhiều kiến thức. Như lớp Tứ 1 (9/1) nk 69-70 của chị Võ Thị Ngọc Dung chẳng hạn cả lớp mê thơ và đã tập tành làm thơ từ một giờ Quốc Văn sôi nổi, lý thú của Thầy Nguyễn Văn Phú.
18 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 76869)
Anh về cõi trời mây Niết bàn muôn tia sáng Nghiệp chướng hết buộc ràng Nơi phương trời giải thoát
18 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 74436)
Mỗi người một hướng đi Tôi ra ngoài sương gió Trung Nam phân nhị Kỳ Xuân Thu đồng nhất Ngộ
17 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 59802)
Ngày hay tin bạn mất Mây tím buồn rưng rưng Hai phương trời cách biệt Ôi tiếc nhớ vô cùng
10 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 74247)
Trên đường về lặng lẽ Ôm nỗi buồn trong tay Đông ngâm bài thơ cũ Mắt lệ nhòa không hay!
09 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 77254)
Rồi cơn đau buốt niềm riêng Anh sa trường bước vào miền chiến chinh Chờ anh mòn mỏi chờ anh    Bóng khuya vàng khuyết nửa vành trăng nghiêng
04 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 83409)
Áo trắng bây giờ xa thật xa, Gối mộng em vào giấc mơ hoa, Anh vẫn cô đơn đời sương gió, Vàng Thu áo trắng đã nhạt nhòa....
03 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 84502)
Sông buồn vẫn bóng hàng dừa Sóng tình lạc lõng đong đưa nỗi sầu   Mình em ngồi đếm vì sao Sương khuya bạc áo hồn đau khóc thầm
01 Tháng Mười Hai 2009(Xem: 82730)
Mười bảy năm sau tôi trở lại Nhà cũ, vườn xưa ̣đổi khác rồi Giòng sông thơ ấu không còn nửa Trăng buồn lơ lững...bóng ̣đơn côi...
29 Tháng Mười Một 2009(Xem: 86384)
Em nghĩ cô như dòng sông rộng Ôm nước về chở nặng phù sa Đắp vào em chỗ bờ nông cạn Kiệt sức mình sông vẫn thiết tha
28 Tháng Mười Một 2009(Xem: 92271)
Có một người gõ cánh cửa thời gian* Thấy tháng ngày qua bỗng nhiên dừng lại Thấy nắng hè không còn trên đường cũ Một chút mùa vàng đã bước vào thu.
28 Tháng Mười Một 2009(Xem: 88590)
Tôi trở về đây vào cuối Thu Phi Trường còn đó, gió vi vu Rừng cao su nắng xuyên cành lá Đất đỏ hôm nào thấm giọt mưa
27 Tháng Mười Một 2009(Xem: 82584)
Mùa thu nắng hao gầy trên tán lá Hong chưa khô tóc cỏ ướt sương mù Mây bay về chập chùng không vội vã Gió heo may qua đường vắng vi vu
27 Tháng Mười Một 2009(Xem: 82617)
buổi sáng mùa thu bất ngờ về phố chở buồn ren rén quá giang chở ký ức xa chở mất mát chìm
23 Tháng Mười Một 2009(Xem: 63174)
Em về, bỏ lại vầng trăng Cho tôi ngồi ngắm mỗi lần thu sang Bến tình lững chiếc đò ngang Bến đời tôi ngập lá vàng... chờ em!
23 Tháng Mười Một 2009(Xem: 63755)
Ta vẫn trải sầu theo tiếng thơ Em đi mắt lạnh mấy thu chờ Đường tình em bước thênh thang quá Nhớ giữ dùm ta ánh mắt xưa!
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 81088)
Mùa thu về hai phương trời cách biệt Lá bên nào cũng vàng úa như nhau!
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 82383)
Nghiêng câu lục bát cho đầy Cho Thu thêm ấm cho dài nhớ thương Đêm nầy nghiêng sợi mưa tuôn Nghiêng qua cho đổ lá buồn Thu ơi!
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 83623)
Mùa thu ơi! khoan đi chờ ta với Xin ít mây, xin ít nắng hanh vàng Xin một tí hương thầm nơi hoa cúc Xin nửa vầng trăng rất đổi dịu dàng
22 Tháng Mười Một 2009(Xem: 84714)
nợ tình mỏng, mà nặng đeo mỗi thu như mỗi dày theo tuổi đời hơi may gợn, nhắc bồi hồi một bờ mây, đã, cuối trời quan san...
18 Tháng Mười Một 2009(Xem: 100202)
Chỉ còn vài ngày nữa là thành phố Adelaide, nơi tôi đang cư  ngụ sẽ vẫy tay chào mùa đông để chính thức bước vào mùa xuân. Ngày đã trở nên dài ra và trời đã bắt đầu ấm áp trở lại.
18 Tháng Mười Một 2009(Xem: 93883)
Cầm tờ thư của cô tôi ấp nhẹ vào ngực. Ơi! cô giáo nhân ái còn hơn bà tiên trong thần thoại đã dang tay cứu tôi trong nhiều lần khốn khó. Thời gian đi qua thật lâu rồi nhưng tất cả những gì về cô tôi đều nhớ. Bảy năm trời lớn lên từ một mái trường nên mãi mãi ngôi trường Ngô Quyền thân yêu ấy là một ngăn nhớ êm đềm trong quả tim tôi.
16 Tháng Mười Một 2009(Xem: 63612)
                       Đông về lá rụng sương rơi Nhớ anh em thấy bồi hồi ngày qua......