Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Nguyễn Thị Thêm - THÁNG SÁU VÀ BA TÔI

13 Tháng Sáu 20144:12 SA(Xem: 24194)
Nguyễn Thị Thêm - THÁNG SÁU VÀ BA TÔI




THÁNG SÁU VÀ BA TÔI

blank
Rất nhiều lần tôi muốn viết về ba của tôi. Tôi nhớ và thương ông nhiều lắm. Ngược lại tôi cũng là đứa con gái ông cưng nhứt nhà.
Mỗi khi nghĩ đến cha thì hình ảnh hiện ra trong đầu tôi là một người cha đạo mạo và nghiêm khắc. Tôi không muốn như vậy. Tôi muốn ông cười, nụ cười thật từ ái và hiền lành. Tôi muốn ông đọc những dòng tôi viết về ông rồi cười thật tươi, thật sảng khoái như mọi lo âu, phiền muộn về đời sống theo gió bay đi.
Không gian chỉ có hai cha con, thời gian như quay lui lại. Tôi chỉ là đứa con gái nhỏ xíu ông hí hoáy cắt tóc húi cua như mấy người anh.
Ngày Tết, tôi ngồi trên bình xăng chiếc xe mô tô đen ông lái. Cái áo đầm ông mua cho tôi còn mới tinh. Sợi dây chuyền vàng mặt hai con chim tranh nhau trái đào, cây kiềng vàng cứng ngắt làm cổ tôi vướng víu. Mấy cái này đích thân ba tôi đeo vào cho tôi. Kể cả đôi khoen vàng đeo tai ông cũng tự tay mang vào cho con gái. Tôi ra dáng một cô con gái nhà giàu mỗi khi Tết theo ba về ngoại đốt nhang ông bà. Tôi nhớ mấy đứa con dì Bảy tôi, đứng lấp ló sau tấm vách tre len lén nhìn, ra vẻ rất thèm thuồng.
Ba tôi cưng tôi như vậy đó vì ông chỉ có tôi là con gái một. Mỗi ngày, sau khi ăn cơm xong, ông cần ngủ một giấc buổi trưa để chiều còn đi rước dân cạo mũ. Ông hay bắt tôi nhổ tóc trắng. Cứ đếm sợi để nhận thưởng. Tôi ngồi nhổ tóc sâu cho ba mà gục xuống ngủ lúc nào cũng không hay. Khi thức dậy ba tôi đã đi làm và đầu tôi nằm trên chiếc gối của ông. Thì ra đó là cách ông dỗ tôi ngủ trưa.
Ba tôi không uống rượu và không đánh bài, ngoại trừ ngày Tết. Và ông chỉ chơi đúng 3 ngày Tết rồi thôi, không ham mê cờ bạc như những người khác. Tuy nhiên chỉ chơi ba ngày thôi mà má tôi cũng đã đứng tim vì ông.

Ngày Tết dân phu thường được nghỉ nhiều ngày để chờ cao su thay lá mới. Do đó nhiều việc ăn chơi giải trí được mở ra. Trong đó có sòng tổ tôm và đánh chắn. Vì đa số dân phu, cai, đội ở đây đều là người Bắc, được Tây tuyển phu vô Nam khai phá cao su để lập đồn điền. Ba tôi chơi khá lớn. Ông đặt một lần, nếu thua thì bỏ tiền ra đặt lại. Nếu thắng, ông không lấy tiền vào. Ông để vậy đặt tiếp. Thắng đặt tiếp nữa. Nếu hên tới lần thứ tư chủ cái phải kêu ông lấy vào, đặt nhỏ lại. Cho nên khi ông thắng bài thì tiền nhiều lắm. Còn thua chỉ vài ván là ông sạch túi bỏ đi về. Má tôi rất tội nghiệp, bà bán thức ăn, khô mực nướng và các đồ nhậu. Bà không dám nhìn ba tôi đánh bài, cũng không dám lại gần vì sợ ba tôi la. Thỉnh thoảng bà kêu tôi:
-Chín! Qua coi ba con ăn hay thua. Có còn tiền không?
Mấy anh tôi thì theo dụ dỗ.:
- Chín! Đi qua xin tiền ba, anh dẫn đi mua kẹo kéo ăn.
Và tôi ,chỉ có tôi là dám đứng sau lưng ba để khều khều xin tiền hay đem nước cho ba uống.
Má kể khi sanh tôi ra ba tôi không có ở nhà. Nơi má nằm sinh là vùng Việt Minh hay đi về. Tôi sinh ra cứ khóc, khóc hoài không nín. Má nhắn ba tôi về thăm. Nhắn mấy tin mãi mấy ngày sau ba mới về. Ông vén cái màn che giường cữ của má tôi, thò đầu vào và nói:
-Ba về rồi nè. Ngủ đi con gái. Má bồng tôi ra. Ông vuốt hai má tôi rồi nói:
-Ngủ ngon đi con. Ba đi nghen.
Thế là ông đi. Còn tôi từ đó ngủ một giấc say sưa và nín khóc. Má tôi lấy cái áo cũ của ba đắp lên người tôi để lấy hơi.
Tôi lớn lên trong bàn tay chăm sóc của mẹ và sự dạy dỗ dặn dò của ba. Ba tôi rất ít nói. Nhưng khi ông nói thì đâu ra đó. Từ từ chậm chạp như để chúng tôi nuốt từng câu, hiểu từng ý trong lời nói của ông.

Tôi nhớ khi học lớp ba trường làng. Ông thầy giáo Lượm ra đề tài vẽ một trái bí đỏ. Tôi nắn nót vẽ rồi tô màu đàng hoàng. Khi chấm điểm và trả lại bài cho học trò. Thầy kêu tên tôi:
-Trò Chín vẽ trái bí rất đẹp và to. Trái bí này trồng lâu, lâu, lâu… lắm mới lớn như vầy.
Cả lớp cười rần rần. Tôi mắc cở muốn khóc vì tôi biết thầy đem ba tôi ra để chọc chơi. Ba tôi ở Bình Sơn được bà con xóm giếng gọi là Bác Sáu Lâu. Sáu là thứ của má tôi. Còn Lâu hình như tên thường gọi trong nhà ngoài quê. Mà tánh tình ba tôi cũng giống cái tên lắm. Ông làm gì cũng kỹ lưỡng, chậm chạp, từ từ không có gì là vội vàng. Kể cả đi... cầu. (Ở Bình Sơn. Đường mương thoát nước từ nhà máy chảy ra suối được xây những nhà cầu công cộng. Nước cứ chảy liên tục như vậy để tống khứ phân và rác ra hạ nguồn con suối.). Mỗi sáng ba tôi đi cầu. Nếu người nào muốn đi mà biết là ba tôi ngồi ở trong là họ phải đi tìm nhà cầu khác:
- Ai ở trỏng vậy?
-Bác Sáu Lâu
-Thôi! Tui đi tìm chỗ khác. Chờ ổng có nước ị ra quần.
Thế đó ba tôi nổi tiếng như vậy đó có mắc cười không.
Ba tôi khá đẹp trai dù ông không cao mấy. Nhìn ông người ta có thể tin tưởng: Đây là một người đàn ông chính trực, ngay thẳng và đáng tin cậy. Ông không đùa dai, không trớt nhả nhưng dường như ông có duyên ngầm nên rất nhiều phụ nữ đã ngã vào vòng tay ông. Bà dì ghẻ của tôi một lần chân tình thố lộ:
-Ba mày không dụ dỗ dì đâu. Dì bỏ nhà đi theo ổng đó. Ba của dì đánh biết bao nhiêu nhưng dì không thể không nhớ ổng. Dì lén gói quần áo, trốn ông ngoại và theo ổng tới bây giờ.
Hồi còn nhỏ tôi rất ghét dì. Nhưng khi lớn lên thấy dì thương ba tôi bằng cả tấm chân tình nên tôi không còn giận hờn. Tôi coi dì như một người mẹ và yêu thương các em con dì như ruột thịt.
Ba tôi một thời lăn lộn để mưu sinh nên ông biết nhiều thứ, nhiều nghề. Ông rất mê thể thao và là đoàn trưởng của đoàn Thanh Niên Cộng Hòa thời đó. Nhìn thân hình ông, những bắp thịt săn chắc cuồn cuộn trông rất khỏe mạnh. Ông là huấn luyện viên túc cầu cho sở Bình Sơn. Những cầu thủ Bình Sơn lúc đó đa số là người Chà. Họ đá rất khá và thường đi ra ngoài các quận và sở cao su khác đá tranh giải. Tôi luôn được ba tôi cho đi theo để lo vụ nước chanh và quần áo, khăn cho cầu thủ. Thật ra má tôi cũng vất vả vì phải bỏ tiền và công sức ra cho ba tôi làm tròn nhiệm vụ. Anh em tụi tôi sau mỗi lần đội banh giao đấu phải hì hục gở cỏ may ghim vào vớ, áo quần cầu thủ. Còn má tôi giặt đồ bở hơi tai chả được ba tôi trả công gì hết.

Tôi nhớ có một lần, vào dịp gì đó có buổi họp khá quan trọng. Ban Tổ Chức mời ba tôi lên phát biểu ý kiến. Ba tôi bước lên khán đài. Tôi khều khều con Tuyết mặt mày hí hửng. Mấy anh tôi vỗ tay rào rào. Hội trường dứt tràng pháo tay, ba tôi lên tiếng:
-Kính thưa qu‎‎ý vị quan khách. Kính thưa…. Hôm nay tui…. Thế rồi ba tui đứng như tri trồng, tay mân mê cái cằm đã cạo râu sạch coóng. Cả hội trường im như nín thở chờ đợi. Thế rồi ba tui lí nhí.
-Xin cám ơn quý vị. Rồi ba tôi bước xuống. Cả hội trường òa ra cười, vỗ tay vang trời. Tôi ngớ ra tẻn tò ra mặt.
Ba tôi là vậy, làm chứ không nói. Trước đám đông ông rất khớp. Nhưng trước mặt ông, các em, con, cháu cũng rất khớp vì cái uy nghiêm của ông. Ông chưa hề đánh con một roi nào. Ông kêu vào, chỉ cái ghế bảo ngồi xuống đó rồi ông nói. Từng lời nghiêm huấn khiến chúng tôi nín thở để nghe. Ông là cội tùng rất to che chắn cả 3 dòng con và 3 mái gia đình.
Ba tôi là người con rất có hiếu với bà nội tôi. Một mình xa quê vào Nam lập nghiệp. Tiện tặn lo cho mẹ cho em. Gửi tiền và vật liệu về quê để Nội tôi cất nhà đàng hoàng. Ông cho má tôi về quê rước nội tôi vào Nam phụng dưỡng, mỗi ngày ông đều đến hỏi thăm, trò chuyện và dặn dò má tôi chăm sóc tận tình. Ông và chú Năm tôi mua gỗ tốt rồi mướn thợ làm áo quan cho nội tôi. Ngày đem về, trông thấy cái hòm nội tôi phát khiếp, bà la om sòm:
-Úy chu choa quơi! Đem đi, đem đi quăng cho xa, mẹ sợ lắm.

Thế là ba tôi phải làm một gian nhà nhỏ để cái quan vào và phủ kín mít không cho nội biết. Bà nội tôi sống tới 95 tuổi mới ra đi. Ngày nội tôi hấp hối, cơ thể yếu dần, chân tay không còn cử động. Trong khi ba tôi đi rước chư tăng về, tôi pha nước nóng với rượu lau cho nội và thay bộ đồ trắng cho bà. Vì chỉ có các sư thuộc phái Nam tông nên họ tụng cho nội tôi kinh bằng tiếng Phạn. Tụng xong, Ba tôi nói :
-Mẹ tui là người Việt Nam, mấy thầy tụng tiếng Phạn mẹ tui không có hiểu. Mấy thầy làm phước tụng cho mẹ tui một hồi kinh tiếng Việt Nam.
Tôi đứng ở đầu giường lau mồ hôi nội tươm ra ở trán, thấy các thầy vừa dứt hồi kinh, nội tôi thở hắt ra một cái rồi ra đi.Ông thầy cả nghe tôi nói cũng còn nghi ngờ nên lấy bông gòn để ở mũi nội tôi và cuối cùng tuyên bố nội tôi đã ra đi sau khi nghe xong lời kinh siêu độ.
Từ đó ba tôi bắt đầu hướng Phật. Ông ăn chay và tích cực phát tâm cúng dường cũng như bố thí. Ông phát động các bác trong xóm tái thiết lại ngôi chùa bị bỏ hoang từ lâu. Ông thành lập Hội tương tế và cùng các bác trong hội thỉnh Phật và thỉnh tăng về trụ trì. Ngôi chùa thành hình và phát triển cho tới ngày nay.
Thật lòng mà nói, đối với tôi ông ngoài là nghiêm phụ còn là một người bạn. Có điều gì khó khăn tôi thường tâm sự với ông. Ông lắng nghe và cho tôi những câu khuyên bảo chí tình. Còn ông, tuổi càng cao ông càng gần gũi tôi hơn. Những chuyện không thể nói với ai ông đều cùng tôi san sẻ. Hai cha con có nhiều khi ngồi tâm sự thâu đêm. Cái lằn ranh cha con nghiêm khắc những lúc đó không còn, mà còn lại như hai người bạn vong niên.

Tôi thương ba tôi lắm. Có những giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống mỗi khi nhắc tới ba tôi. Nhất là mỗi dịp Tết chuẩn bị bàn thờ để rước ông bà. Nhớ tới ông tôi lại khóc.
Nhà tôi đa số là con trai chỉ có mình tôi là gái. Thế nhưng vào những ngày giáp Tết, các anh tôi có bổn phận lau chùi lư hương, chưn đèn. Nhưng quét dọn bàn thờ và trang trí chưng trái cây, bông hoa ông không cho ai làm. Chỉ chờ tôi về mà thôi. Có năm vì việc làm, việc nhà, chiều 30 Tết tôi mới về nhà cha mẹ. Mấy anh tôi chỉ bàn thờ chưa trang trí mà quát tôi một trận. Mấy ảnh giận luôn cả ba tôi. Ông ngồi đó chậm rãi:
-Bây lo chuẩn bị dọn cúng đi. Con Chín quét dọn chưng trái cây xong thì bưng lên. Làm gì mà ồn vậy.
Tôi xuất ngoại được hai năm thì ba tôi vào chùa xuất gia. Ông vui trong kinh kệ và hướng tâm vào Phật pháp. Tôi về chùa nhìn ông trong lớp áo tăng già mà thương ông nhiều lắm. Tôi cũng rất mừng là ông đã chọn con đường chánh pháp để sống cuối đời. Con anh Sáu tôi theo nội vào chùa để săn sóc và làm thị giả. Sau ngày ba tôi mất, cháu xin thầy trụ trì xuống tóc xuất gia làm chú tiểu. Bây giờ chú cũng đã là một đại đức.
Ba ơi! Tháng Sáu bên này là lễ của cha. Con ngồi viết những dòng này mà nước mắt rơi ướt cả bàn tính. Ba hiển hiện trước mắt con với nụ cười bao dung và hiền hòa. Ba đã vào cửa Phật từ khi con rời quê hương xa xứ. Con đã bất hiếu bỏ ba ở lại để làm tròn trách nhiệm một người dâu, người vợ, người mẹ. Bây giờ đôi khi chăm sóc chồng quá vất vả hay bị nhiều phiền muộn, căng thẳng. Không hiểu tại sao con cứ nhủ mình “Hãy coi anh ấy như là ba để toàn tâm toàn ý yêu thương và săn sóc”

Ba ơi! Trên cao hay ở một nơi nào đó trên trái đất này. Con nguyện ba luôn được an lành, hạnh phúc và được mọi phước lành.
Nguyện 10 phương Chư Phật hộ trì cho Ba.
Con gái của ba.

Nguyễn thị Thêm.
12/06/14.
03 Tháng Sáu 2009(Xem: 70246)
Tình đầu sương khói mong manh Nhặt gom kỷ niệm để dành tặng nhau...
03 Tháng Sáu 2009(Xem: 70152)
Nơi đây cũng có dòng sông Tình em chỉ chảy trong lòng sông xưa...
02 Tháng Sáu 2009(Xem: 18531)
Xe đã về bến…chợ ABC bình yên vào lúc 9 giờ tối Chúa Nhật 19 tháng 8. Cám ơn quý Thầy Cô và Ban Tổ Chức Hội CHS Ngô Quyền đã tạo được một chuyến đi “làm nên lịch sử” nối kết hai miền Nam Bắc về chung một mối, một nhà.
02 Tháng Sáu 2009(Xem: 37790)
Ba mươi năm sau, bên đời lưu lạc, ở tuổi nửa đời người, các cô, các bé ngày xưa mới biết một số Thầy Cô cũ đã từng là học trò Ngô Quyền như mình. Dù muộn màng, “Một góc Thầy Trò” xin được giới thiệu “Những CHS NQ trên bục giảng” để vinh danh các CHS NQ cũng là các Thầy Huỳnh Quan Phận, Diệp Cẩm Thu; các Cô Hà Thị Nhung, Liêng Tuấn Tài, Phạm Thị Hạnh.
27 Tháng Năm 2009(Xem: 87025)
  Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập trường, chúng ta quả thực rỏ ràng thấy được: Gốc cây trường trung học Ngô Quyền đã có nhiều cành ngọn và Nguồn trường xưa đã tỏa rộng khắp nơi.
26 Tháng Năm 2009(Xem: 37603)
Dưới đây là lá thư của CHS NQ Võ Thị Tuyết Mai, và những bạn bè, đồng nghiệp đã gửi cho Cô Ma Thị Ngọc Huệ, khi được tin Thầy Nguyễn Phong Cảnh từ trần vào ngày 4 tháng 1 năm 2006 tại California.
23 Tháng Năm 2009(Xem: 32740)
Trong đại gia đình Ngô Quyền hầu như ít nhiều ai cũng biết đến Thầy Vũ Khánh Thành. Thật vậy, ngoài lãnh vực giáo dục, từng là Giáo sư dạy môn Triết học tại trường Ngô Quyền chúng ta năm xưa. Từ lúc định cư tại Anh Quốc đến nay, Thầy không ngừng tích cực dấn thân hoạt động trên bình diện xã hội, văn hóa và chính trị cho cộng đồng Việt Nam tại đây.
17 Tháng Năm 2009(Xem: 67730)
Tình ta như đóa hoa quỳnh Đêm về chớm nở cuộc tình phai mau
17 Tháng Năm 2009(Xem: 67923)
Giáo đường xưa em theo anh xin lễ Nhưng bây giờ đường vắng chỉ mình em
15 Tháng Năm 2009(Xem: 77715)
Ở Việt Nam, mùa hè bắt đầu với những cành phượng đỏ nở rực cả góc trời, với tiếng ve kêu ra rả buồn xót xa, thì ở đây chỉ có hoa “jacaranda” và nắng ấm. Không biết từ bao giờ tôi đã yêu thích màu hoa “jacaranda”, thích ngang qua những con đường có trồng hoa rợp bóng, nhìn những cánh tím nhỏ li ti trải đầy trên đất, thêu từng mảng trên không, tôi cảm thấy dường như mình đang đi trong một giấc mơ.
14 Tháng Năm 2009(Xem: 75137)
Cha tôi cũng thường nói nhiều người trên đời này ưa làm anh hùng đến nỗi quên rằng mình có một bà mẹ. “Úi trời, làm anh hùng mà không có mẹ thì làm anh hùng mà chi!”
07 Tháng Năm 2009(Xem: 82242)
Kính mời Thầy Cô, mời anh chị, mời bạn cùng đọc thư của anh Trương Đức Hoàng để thấy tình nghĩa Thầy Trò (chắc đã trở thành “đồ cổ” ở Việt Nam hiện nay), và để tìm lại hinh ảnh “con dốc Ngô Quyền trần ai khoai củ” mà hầu hết chúng ta đã gò lưng đạp xe mỗi ngày để đến ngôi trường Trung học Ngô Quyền thân yêu, bây giờ chỉ còn trong trí tưởng…
30 Tháng Tư 2009(Xem: 37354)
Được sự đồng ý của tác giả – CHS NQ Nguyễn Ngọc Xuân - một bức thư rất cảm động gởi cho Thầy giáo cũ (Thầy Nguyễn Văn Phố) , “ Một góc Thầy Trò ” xin mời bạn cùng đọc lời tâm tình của một học sinh rất giỏi với Thầy giáo dạy Toán thời anh Xuân còn ngồi ghế NQ.
21 Tháng Tư 2009(Xem: 64547)
Biên Hùng xa vắng đã lâu Về đây bổng nhớ còn đâu thuở nào...
19 Tháng Tư 2009(Xem: 70690)
Buồn ơi, sao chẳng nên lời Mà trong đáy mắt một trời thương đau! Kiếp sau xin giữ đời nhau, Thay ân tình đã đi vào thiên thu…
19 Tháng Tư 2009(Xem: 68233)
Có đôi khi, tôi nằm nghe tiếng khóc buồn rầu như lời kinh vực sâu rót vào lòng, thương đau!
14 Tháng Tư 2009(Xem: 88305)
Cám ơn trận mưa đêm nay, đã đưa tôi trở về thăm lại những nhánh sông đời đã từ lâu rẽ nguồn, khuất lối. Mưa ở quê người chắc không sao bằng mưa ở quê nhà, nhưng dù là kẻ lạ, cũng xin được tri ân những giọt mưa đã làm tươi mát, rực rỡ thêm phần đất mà biết bao người Việt tha hương đã chọn làm nơi trú ẩn và làm một cõi để đi về.
08 Tháng Tư 2009(Xem: 70204)
SÁNG Thức giấc buồn thiu. Mưa rơi hiu hắt Người qua đìu hiu Lòng vắng tiêu điều!
08 Tháng Tư 2009(Xem: 65582)
Tình cứ đến, cứ như chồng vở cũ, Mở từng trang là từng chữ… yêu người. Cho ta viết bài hoan ca vô tận, Cho người về nhớ mãi phút thanh xuân!
07 Tháng Tư 2009(Xem: 66464)
Anh làm sao hiểu được. Những cánh buồm ký ức có thể mang chở tình yêu của chúng ta trở về, nguyên vẹn, tràn đầy .
06 Tháng Tư 2009(Xem: 71988)
Mưa rơi! mưa rơi! Đường chưa quên lối Sao nghe lạc loài Nhịp chân bối rối Theo mưa tìm ai?
06 Tháng Tư 2009(Xem: 67874)
Tháng ba hương bưởi thơm nồng Bỗng tha thiết nhớ một dòng sông xưa. Công viên dưới bóng hàng dừa Em, anh tình tự buổi trưa thuở nào.
06 Tháng Tư 2009(Xem: 67692)
Lần cuối gặp em lúc lập Đông, Đồn anh đóng mãi tận Bình Long. Thân trai chinh chiến đâu ai biết, Em ở Đồng Nai mãi ngóng trông.
31 Tháng Ba 2009(Xem: 69810)
Nắng reo bài tháng ba Lên bát ngát hoa vàng Trong khu vườn êm ả...
30 Tháng Ba 2009(Xem: 71749)
Ngày đầu một năm giở tờ lịch mới lòng như lá rơi chờ cơn bão nổi.
29 Tháng Ba 2009(Xem: 67635)
Biên Hòa giờ này còn đâu trường cũ. Một thuở hồn nhiên, ấp ủ tình đầu! Em ở bên này, tìm trong ký ức, Khung cửa, bậc thềm, góc lớp…chìm sâu!
29 Tháng Ba 2009(Xem: 66235)
Ở một góc đời em đã có, Những ô cửa nhỏ, bậc thềm quen. Sân nắng giờ chơi, trường lớp cũ. Quay lưng, còn nhớ thuở êm đềm?
29 Tháng Ba 2009(Xem: 69620)
Mỗi ngày em liên tưởng đến những chuyến tàu sẽ mang anh đi, sẽ trả em về, và em khóc...