Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Huỳnh Công Ân - CÓ AI VỀ XỨ BƯỞI

27 Tháng Hai 201412:00 SA(Xem: 19420)
GS. Huỳnh Công Ân - CÓ AI VỀ XỨ BƯỞI

CÓ AI VỀ XỨ BƯỞI

28__thay_huynhcongan-content

Tùy bút Huỳnh Công Ân

(Thương tặng hương hồn em tôi và các cánh chim oai hùng từng vẫy vùng trên vòm trời Biên Hòa)

 

Biên Hòa xứ bưởi thanh thanh

Có cô bán bưởi xinh xinh trữ tình

(Ca dao)

 

Tôi được thuyên chuyển về trường trung học Ngô Quyền, Biên Hòa năm tôi 25 tuổi sau 4 năm dạy học ở trường trung học Vĩnh Bình, Trà Vinh. Vốn trưởng thành ở thủ đô Sài Gòn, lân cận với tỉnh Biên Hòa nên dù trước khi nhận nhiệm sở tôi chưa lần nào đặt chân tới Biên Hòa, nhưng tôi vẫn được nghe nói nhiều về tỉnh này. Tôi được biết Biên Hòa là cửa ngỏ phía đông của thủ đô Sài Gòn, nơi đặt bản doanh của Quân Đoàn 3, Sư Đoàn 3 Không Quân và căn cứ Long Bình. Nơi đây là chỗ địa linh nhân kiệt nơi sản sinh những nhân tài ở nhiều lãnh vực, quân sự có tướng Đỗ Cao Trí, văn hóa có Bình Nguyên Lộc, Lương Văn Lựu, chính trị có Nguyễn Ngọc Huy… Nhưng Biên Hòa được biết nhiều với cái tên xứ Bưởi vì bưởi là một đặc sản nổi tiếng ngon ngọt của Biên Hòa.

Từ 1969 đến 1975, trong thời gian 6 năm phục vụ ở Biên Hòa của tôi dù ở cương vị thầy giáo hay quân nhân, tôi cũng có nhiều kỷ niệm không thể quên được.

Ông hiệu trưởng Phạm Đức Bảo thông cảm với các giáo sư có nhà ở Sài Gòn, nên thường cho xếp 15 giờ dạy của giáo sư đệ nhị cấp vào hai ngày liên tiếp để họ có thời gian rộng rãi dạy trường tư, hay làm công việc khác ở Sài Gòn để bù đấp vào số lương cố định của công chức, thời mà mọi người đổ xô đi làm sở Mỹ, lương cao mà chỉ cần biết chút đỉnh tiếng Anh. Tôi dạy hai ngày đầu tuần, bốn ngày còn lại tôi có giờ ở một số trường tư hay vài cours luyện thi ở Sài Gòn. Đêm thứ hai, tôi ở lại Biên Hòa, ngủ nhà người anh họ, làm quân cảnh không quân, gần ga xe lửa. Anh tôi vừa có đứa con đầu lòng nên chúng tôi thấy thắm thía câu “đêm về nghe con khóc vui triền miên” trong bản nhạc “Ngày hạnh phúc” của Lam Phương. Lúc đầu tôi đi chiếc Honda 67 sau đó là chiếc lambretta hai bánh từ Sài Gòn theo xa lộ Biên Hòa, rẽ ngã ba Tân Vạn rồi qua cầu Gành vào Biên Hòa. Về sau, vì hàng ngày chứng kiến những tai nạn lưu thông thảm khốc trên xa lộ, tôi lạnh cẳng nên về sau từ nhà tôi đi xe ôm ra ga lấy xe lửa lên Biên Hòa. Năm 1971, em tôi về lái trực thăng tại sư đoàn 3 không quân, mướn nhà trong một con hẻm gần trường Ngô Quyền ở với vợ và con nhỏ nên đêm ở lại Biên Hòa tôi ngủ ở đó. Tôi lại được vui triền miên mỗi đêm thứ hai với tiếng khóc của đứa cháu ruột .

Vì là một sĩ quan biệt phái, nên cuối năm 1971 khi dính liu vào một việc xô xát, tôi bị kỷ luật và bị trả về quân đội. Người ta cho tôi một ân huệ bằng cách đưa ra một danh sách các đơn vị để tôi và người bạn tôi, làm văn phòng, ở trường Petrus Ký, dính chung một vụ, lựa chọn. Tôi không do dự chọn ngay tiểu khu Biên Hòa, còn bạn tôi chọn tiểu khu Châu Đốc. Đúng là một sự lựa chọn định mệnh. Bạn tôi về Châu Đốc, nơi mà trước khi biệt phái, anh ta là tùy viên của đại tá tỉnh trưởng. Rủi cho anh, lần này trở lại Châu Đốc, thì thầy cũ của anh đã thuyên chuyển về làm chỉ huy trưởng trung tâm huấn luyện Quang Trung, nên anh bị ông tỉnh trưởng mới đưa ra nắm một đại đội địa phương quân. Vài tháng sau, tôi bàng hoàng khi nghe tin anh tử trận khi dẫn quân lục soát trên núi Sam. Nếu tôi chấp thuận theo bạn tôi về Châu Đốc thì không biết tôi sẽ ra sao. Về Biên Hòa tôi được ông Bảo gởi gắm với tiểu khu nên tôi được đưa về đại đội canh giữ cầu Đồng Nai, ngoài xa lộ Biên Hòa.

Hai năm ở đại đội 3/463 giữ cầu Đồng Nai ghi lại trong tôi nhiều kỷ niệm. Lúc mới về tôi làm trung đội trưởng, một thời gian ngắn sau trung úy Phong, đại đội phó được thuyên chuyển về phòng 3 tiểu khu, tôi được đề cử lên thay thế. Nhiệm vụ chính của đại đội là giữ an ninh cây cầu chiến lược này. Tuy nhiên, thỉnh thoảng đại đội tôi nhận lệnh tiểu khu cử một sĩ quan dẫn một trung đội đi hộ tống các đoàn quân xa đi qua lãnh thổ tiểu khu. Ngoài lúc công tác, các sĩ quan trong đại đội: đại úy Nhuận, đại đội trưởng, tôi, trung úy Hoàng, thiếu úy Tuấn, thiếu úy Phước, chuẩn úy Lộc thường tập trung ở câu lạc bộ đánh bi da. Trong đại đội có hai tay cao thủ bi da là đại úy đại đội trưởng và hạ sĩ Lý truyền tin. Tôi thuộc loại tay mơ nhưng nhờ hạ sĩ Lý chỉ dẫn nên thường hạ được hai tay mơ khác là thiếu úy Tuấn và chuẩn úy Lộc, nên luôn thắng độ, uống bia khỏi mất tiền. Đại úy Nhuận có kinh doanh một lò gạch ở trong xã Long Bình, bên cạnh cầu Đồng Nai, nên thường qua lại với các ông chủ lò gạch khác, vì vậy chúng tôi cũng thường theo ông đi ăn giỗ ở các nhà quen của ông.

Đại đội tôi chia quân đóng hai bên đầu cầu, phia đầu cầu hướng Sài Gòn có mật hiệu truyền tin Sài Gòn và phía đầu cầu bên kia mang mật hiệu Cogido (tên một hãng giấy gần đó). Phía dưới cầu chúng tôi có đường đi từ bên này cầu qua bên kia, ngang qua các chân cầu dùng làm chốt gác dưới sông. Phía Cogido, đối diện với nơi đóng quân của chúng tôi là bộ Chi huy vùng 3 sông ngòi của Hải Quân. Các sĩ quan hải quân bay bướm thường tổ chức party khiêu vũ và hay mời đám sĩ quan chúng tôi tham gia. Chúng tôi cón được tăng cường một chiếc giang thuyền lúc nào cũng đậu phia dưới cầu.

Kỷ niệm đau buồn nhất trong thời gian tôi phục vụ ở đại đội giữ cầu Đồng Nai là việc tôi mất người em trai phi công nói ở trên. Một buổi sáng đang ngồi ở văn phòng đại đội, tôi nhận được điện thoại từ lính gác cổng trại, cho biết có một bà lớn tuổi xưng là bác gái của tôi muốn vào gặp tôi. Linh tính báo cho tôi biết tôi sẽ có một tin chẵng lành. Tôi lật đật lấy xe lambretta chạy lên cổng trại. Bác gái tôi mếu máo khóc cho tôi biết em tôi đã mất tích, sau khi chiếc trực thăng nó lái bị bắn hạ ở mặt trận An Lộc. Tôi còn nhớ đó là ngày 21-6-1972. Bác tôi cho biết, ba tôi từ Sài Gòn lên đang ở nhà bác, chờ tôi để cùng vào phi đoàn của em tôi trong phi trường Biên Hòa để hỏi thăm tin tức. Khi gặp tôi, ba cho tôi cho biết hồi sáng sớm, thiếu tá Thiểm, bạn tôi làm ở trung tâm hành quân không quân Tân Sơn Nhất nghe báo cáo một chiếc trực thăng UH1 đang thi hành công tác, hộ tống một hợp đoàn trực thăng đổ quân xuống An Lộc bị bắn hạ và hoa tiêu chính của chiếc trực thăng này là thiếu úy Huỳnh Công Quan, em trai tôi. Thiểm vội điện thoại về nhà anh và nhờ em gái anh chạy vô nhà tôi ở gần đó báo tin. Ba tôi vội đi xe lô lên Biên Hòa ngay.

Tôi chở ba tôi vào phi trường Biên Hòa và vào cổng dễ dàng, vì anh họ tôi là trưởng toán quân cảnh tại đó. Anh tôi hướng dẫn tôi vào doanh trại phi đoàn của em tôi. Tôi trông thấy chiếc xe Honda 66 với chiếc guidon cao của em tôi, còn dựng trong sân trước phi đoàn mà nước mắt chực tuôn ra. Sĩ quan trực phi đoàn ân cần nhưng không dấu được vẻ ái ngại khi tiếp chúng tôi. Anh mời ba tôi vào nằm nghỉ trên một chiếc giường nệm phía trong và tôi ngồi với anh ở văn phòng. Anh kể với tôi rằng: ”sáng nay Quan lái chiếc gunship với copilot lá thiếu úy Ẩn cùng chiếc gunship thứ hai hộ tống một hợp đoàn trực thăng của phi đoàn đổ quân xuống An Lộc. Khi tới suối Tàu Ô, có lẽ thấy hết nguy hiểm cho hợp đoàn nên Quan quay trực thăng lại và bị trúng phòng không Việt cộng tại đó. Máy bay Quan rơi xuống đất bốc cháy, chiếc thứ hai đáp xuống tiếp cứu, chỉ tìm thấy phi công phụ, cơ khí viên phi hành và xạ thủ đại liên mà không thấy Quan. Chiếc thứ hai này cũng bị trúng đạn Việt cộng nhưng ráng bay đi và đáp xuống một đồn địa phương quân gần đó trước khi toàn bộ phi hành đoàn được một trực thăng khác đến tải thương về bệnh viện Cộng Hòa”.

Viên sĩ quan trực phi đoàn an ủi tôi: ”hợp đoàn còn đang công tác và nhân tiện tìm kiếm Quan, bác và anh ráng chờ tới chiều hợp đoàn về để biết tin tức về Quan”.

 Nhưng chiều đến, khi tất cả trực thăng của hợp đoàn lần lượt đáp xuống bãi, những chiến sĩ không quân trong bộ combinaison đen, buồn bã đi ngang chúng tôi, gục đầu xuống sau khi chào. Tôi không còn và chắc vĩnh viễn không còn trông thấy dáng cao gầy của em tôi nữa. Lần này tôi không còn cầm được nước mắt nữa.

Hôm sau ba vợ của Quan, hành nghề taxi, buồn bã chở tôi lên bệnh viện Cộng Hòa thăm thiếu úy Ẩn đang năm điều trị tại đây để hỏi thăm tin tức về em tôi. Ẩn kể lại rằng khi máy bay trúng đạn, động cơ tắt ngấm, Quan còn bình tỉnh chỉ chỗ trống dưới đất nói với Ẩn sẽ để máy bay đáp auto (đáp không động cơ mà bằng trớn của cánh quạt) xuống đó. Khi máy bay chạm đất, lật ngang và bốc cháy thì Ẩn bị ngất. Khi các đồng đội ở chiếc gunship thứ hai đến tiếp cứu, Ẩn tỉnh dậy nhìn sang ghế của Quan thì thấy dây an toàn đã mở ra, nhưng không ai thấy Quan ở đâu cả. Ẩn cho biết thêm ngoài Quan bị mất tích, trong ba người còn lại thì anh trung sĩ cơ khí viên phi hành bị phỏng nặng đã chết ở bệnh viện. Trước khi tôi từ giã ra về, Ẩn nắm tay tôi nói: ”anh ráng kiếm Quan, em tin Quan còn sống”.

Cũng vì lời nói của Ẩn, ngày hôm sau tôi quyết định xin theo phi đoàn của Quan, đang tham gia chiến trường An Lộc để tìm em tôi. Tôi lận khẩu colt 45 vào lưng quần đến xin phép đại úy đại đội trưởng để vào phi trường. Đại Úy Nhuận nói: ” ông mang theo súng làm gì, chiến trường An Lộc lớn như vậy, một khẩu colt nhỏ này làm được gì”. Tôi không trả lời ông mà nhủ thầm để tôi tự xử khi lọt vào tay Việt cộng.

Vào phi đoàn tôi được cho theo chiếc gunship của Quan mập (để phân biệt với Quan ốm hay Quan Huỳnh là em tôi). Quan mập là bạn thân của em tôi và nổi tiếng gan dạ trong phi đoàn. Vợ Quan mập bán trong câu lạc bộ của phi đoàn. Quan mập nói với tôi: ”anh đừng lo, hễ em thấy gương cấp cứu của Quan rọi lên thì bất cứ giá nào em cũng đáp xuống cứu nó”. Cả ngày hôm đó, tôi tham dự rất nhiều chuyến bay lên, đáp xuống căn cứ Lai Khê của Quan mập để bay công tác yểm trợ đổ quân, hay tiếp tế cho một cuộc hành quân khổng lồ giải tỏa An Lộc của quân đội ta và đồng minh. Nhưng mục đích tìm em tôi đã không thành, không một dấu vết gì của em tôi trong vòng lửa đạn mịt mù.

Sau hiệp định ngưng bắn Ba Lê, tôi nghe nói mỗi lần đi công tác, khi bay ngang quốc lộ 13, trông thấy lính Việt cộng đi nghênh ngang trên đường, Quan mập bất chấp lệnh ngưng bắn, xả súng bắn rượt bọn Việt cộng chạy trối chết. Sau cùng, tôi lại nhận thêm một tin buồn, Quan mập tử trận ngay trên buồng lái trong một chuyến công tác. Quan ốm đên nợ nước để lại người vợ trẻ 21 tuổi một con và đang mang thai đứa thứ hai. Còn Quan mập cũng hy sinh vì nước để lại một người vợ trẻ mà tôi không biết có lưu lại dòng máu oai hùng của người phi công mà cũng như em tôi sớm chấm dứt cuộc chơi ở tuổi 24. Ôi! Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.

Cuối năm 1973, tôi làm đơn xin tái biệt phái về bộ giáo dục và được chấp thuận. Lúc đó, ngành giáo dục chủ trương tản quyền, nên thay vì về thẳng trường Ngô Quyền tôi trình diện ở Sở Học Chánh Biên Hòa, (sau là Ty Giáo Dục Biên Hòa). Tôi được tạm cử làm việc ở phòng Học Vụ mà chủ sự là ông Lê Hồng Sanh. Đầu niên khóa 74-75, tôi xin về trường Ngô Quyền dạy lại.

Ở trường Ngô Quyền, tôi tìm được mối giao tình thân hữu với các giáo sư đồng nghiệp, cùng ngày dạy , nhưng với các vị dạy khác ngày có khi tôi chỉ biết tên đề trên thời khóa biểu mà không có dịp gặp mặt. Lúc đó tôi thuộc nhóm giáo sư trẻ nên chơi thân với các anh Nguyễn Phi Long, dạy toán (hiện ở Texas ), Tô Văn Phú, dạy Vạn vật (đã mất), Trần Văn Phúc, dạy sử địa (đã mất), Trần Thái Hùng, dạy toán (hiện ở Việt Nam), Trần Văn Kỷ, dạy toán… Nhưng thỉnh thoảng, trong đêm ở lại Biên Hòa tôi đến nhà trọ của anh Lê Quý Thể xem anh và các bạn đồng nghiệp khác xoa mạc chược. Sau này, tôi tận dụng đêm ở lại để dạy vài giờ toán cho các cours luyện thi ban đêm của anh Nguyễn Thành Dũng ở trường Nguyễn Du.

Dù đã hơn 37 năm đã qua, những kỷ niệm ở Biên Hòa, dù đẹp hoặc không hay, dù vui hay buồn vẫn tồn tại trong ký ức của tôi. Những bữa ăn trưa ngon miệng với Trần Thái Hùng ở quán Thu Hà hay quán Bình Dân, những đêm cùng các bạn đồng ngũ đi tìm hoa khôi Dốc Sỏi, lần nhậu nhẹt sinh ấu đả ở quán nhậu của ông thượng sĩ trung tâm quản trị trung ương ở xã Tân Vạn mà tôi chạy về đại đội dẫn lính đến uy hiếp trụ sở xã, những tối vào phi trường Biên Hòa xem vũ sexy ở các câu lạc bộ Mỹ… tưởng chừng mới xảy ra không lâu.

Những địa danh: cù lao Phố, ngã ba Vườn Mít, ngã ba Tam Hiệp, ngã ba Tân Vạn, công trường Sông Phố… ba cây cầu: cầu Gành, cầu Đồng Nai, cầu Hóa An, các yếu điểm quân sự hay hành chánh: phi trường, tòa tỉnh, tiểu khu … là những nơi tôi từng lui tới và nhất là trường trung học Ngô Quyền, nơi mà tình thầy trò nẩy nở và kéo dài đến ngày hôm nay dù thầy trò đều đầu bạc như nhau.

Có ai về xứ Bưởi cho tôi nhắn gởi nỗi niềm của một thầy giáo trẻ, một anh lính ba gai ngày nào của Biên Hòa nay đã ngót nghét ở độ tuổi ”thất thập cổ lai hy” vẫn thương nhớ vùng đất thân yêu có con sông Đồng Nai hiền hòa, có ngọn núi Bửu Long thơ mộng và nhất là có những cô Bắc kỳ cũng như Nam kỳ nho nhỏ đáng yêu .

Montreal, đầu mùa tuyết rơi 2013,

Huỳnh Công Ân

 

03 Tháng Sáu 2009(Xem: 70022)
Tình đầu sương khói mong manh Nhặt gom kỷ niệm để dành tặng nhau...
03 Tháng Sáu 2009(Xem: 69917)
Nơi đây cũng có dòng sông Tình em chỉ chảy trong lòng sông xưa...
02 Tháng Sáu 2009(Xem: 18484)
Xe đã về bến…chợ ABC bình yên vào lúc 9 giờ tối Chúa Nhật 19 tháng 8. Cám ơn quý Thầy Cô và Ban Tổ Chức Hội CHS Ngô Quyền đã tạo được một chuyến đi “làm nên lịch sử” nối kết hai miền Nam Bắc về chung một mối, một nhà.
02 Tháng Sáu 2009(Xem: 37739)
Ba mươi năm sau, bên đời lưu lạc, ở tuổi nửa đời người, các cô, các bé ngày xưa mới biết một số Thầy Cô cũ đã từng là học trò Ngô Quyền như mình. Dù muộn màng, “Một góc Thầy Trò” xin được giới thiệu “Những CHS NQ trên bục giảng” để vinh danh các CHS NQ cũng là các Thầy Huỳnh Quan Phận, Diệp Cẩm Thu; các Cô Hà Thị Nhung, Liêng Tuấn Tài, Phạm Thị Hạnh.
27 Tháng Năm 2009(Xem: 86948)
  Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập trường, chúng ta quả thực rỏ ràng thấy được: Gốc cây trường trung học Ngô Quyền đã có nhiều cành ngọn và Nguồn trường xưa đã tỏa rộng khắp nơi.
26 Tháng Năm 2009(Xem: 37565)
Dưới đây là lá thư của CHS NQ Võ Thị Tuyết Mai, và những bạn bè, đồng nghiệp đã gửi cho Cô Ma Thị Ngọc Huệ, khi được tin Thầy Nguyễn Phong Cảnh từ trần vào ngày 4 tháng 1 năm 2006 tại California.
23 Tháng Năm 2009(Xem: 32710)
Trong đại gia đình Ngô Quyền hầu như ít nhiều ai cũng biết đến Thầy Vũ Khánh Thành. Thật vậy, ngoài lãnh vực giáo dục, từng là Giáo sư dạy môn Triết học tại trường Ngô Quyền chúng ta năm xưa. Từ lúc định cư tại Anh Quốc đến nay, Thầy không ngừng tích cực dấn thân hoạt động trên bình diện xã hội, văn hóa và chính trị cho cộng đồng Việt Nam tại đây.
17 Tháng Năm 2009(Xem: 67505)
Tình ta như đóa hoa quỳnh Đêm về chớm nở cuộc tình phai mau
17 Tháng Năm 2009(Xem: 67583)
Giáo đường xưa em theo anh xin lễ Nhưng bây giờ đường vắng chỉ mình em
15 Tháng Năm 2009(Xem: 77640)
Ở Việt Nam, mùa hè bắt đầu với những cành phượng đỏ nở rực cả góc trời, với tiếng ve kêu ra rả buồn xót xa, thì ở đây chỉ có hoa “jacaranda” và nắng ấm. Không biết từ bao giờ tôi đã yêu thích màu hoa “jacaranda”, thích ngang qua những con đường có trồng hoa rợp bóng, nhìn những cánh tím nhỏ li ti trải đầy trên đất, thêu từng mảng trên không, tôi cảm thấy dường như mình đang đi trong một giấc mơ.
14 Tháng Năm 2009(Xem: 74881)
Cha tôi cũng thường nói nhiều người trên đời này ưa làm anh hùng đến nỗi quên rằng mình có một bà mẹ. “Úi trời, làm anh hùng mà không có mẹ thì làm anh hùng mà chi!”
07 Tháng Năm 2009(Xem: 81971)
Kính mời Thầy Cô, mời anh chị, mời bạn cùng đọc thư của anh Trương Đức Hoàng để thấy tình nghĩa Thầy Trò (chắc đã trở thành “đồ cổ” ở Việt Nam hiện nay), và để tìm lại hinh ảnh “con dốc Ngô Quyền trần ai khoai củ” mà hầu hết chúng ta đã gò lưng đạp xe mỗi ngày để đến ngôi trường Trung học Ngô Quyền thân yêu, bây giờ chỉ còn trong trí tưởng…
30 Tháng Tư 2009(Xem: 37206)
Được sự đồng ý của tác giả – CHS NQ Nguyễn Ngọc Xuân - một bức thư rất cảm động gởi cho Thầy giáo cũ (Thầy Nguyễn Văn Phố) , “ Một góc Thầy Trò ” xin mời bạn cùng đọc lời tâm tình của một học sinh rất giỏi với Thầy giáo dạy Toán thời anh Xuân còn ngồi ghế NQ.
21 Tháng Tư 2009(Xem: 64224)
Biên Hùng xa vắng đã lâu Về đây bổng nhớ còn đâu thuở nào...
19 Tháng Tư 2009(Xem: 70351)
Buồn ơi, sao chẳng nên lời Mà trong đáy mắt một trời thương đau! Kiếp sau xin giữ đời nhau, Thay ân tình đã đi vào thiên thu…
19 Tháng Tư 2009(Xem: 68043)
Có đôi khi, tôi nằm nghe tiếng khóc buồn rầu như lời kinh vực sâu rót vào lòng, thương đau!
14 Tháng Tư 2009(Xem: 88050)
Cám ơn trận mưa đêm nay, đã đưa tôi trở về thăm lại những nhánh sông đời đã từ lâu rẽ nguồn, khuất lối. Mưa ở quê người chắc không sao bằng mưa ở quê nhà, nhưng dù là kẻ lạ, cũng xin được tri ân những giọt mưa đã làm tươi mát, rực rỡ thêm phần đất mà biết bao người Việt tha hương đã chọn làm nơi trú ẩn và làm một cõi để đi về.
08 Tháng Tư 2009(Xem: 70051)
SÁNG Thức giấc buồn thiu. Mưa rơi hiu hắt Người qua đìu hiu Lòng vắng tiêu điều!
08 Tháng Tư 2009(Xem: 65418)
Tình cứ đến, cứ như chồng vở cũ, Mở từng trang là từng chữ… yêu người. Cho ta viết bài hoan ca vô tận, Cho người về nhớ mãi phút thanh xuân!
07 Tháng Tư 2009(Xem: 66320)
Anh làm sao hiểu được. Những cánh buồm ký ức có thể mang chở tình yêu của chúng ta trở về, nguyên vẹn, tràn đầy .
06 Tháng Tư 2009(Xem: 71951)
Mưa rơi! mưa rơi! Đường chưa quên lối Sao nghe lạc loài Nhịp chân bối rối Theo mưa tìm ai?
06 Tháng Tư 2009(Xem: 67556)
Tháng ba hương bưởi thơm nồng Bỗng tha thiết nhớ một dòng sông xưa. Công viên dưới bóng hàng dừa Em, anh tình tự buổi trưa thuở nào.
06 Tháng Tư 2009(Xem: 67370)
Lần cuối gặp em lúc lập Đông, Đồn anh đóng mãi tận Bình Long. Thân trai chinh chiến đâu ai biết, Em ở Đồng Nai mãi ngóng trông.
31 Tháng Ba 2009(Xem: 69486)
Nắng reo bài tháng ba Lên bát ngát hoa vàng Trong khu vườn êm ả...
30 Tháng Ba 2009(Xem: 71670)
Ngày đầu một năm giở tờ lịch mới lòng như lá rơi chờ cơn bão nổi.
29 Tháng Ba 2009(Xem: 67309)
Biên Hòa giờ này còn đâu trường cũ. Một thuở hồn nhiên, ấp ủ tình đầu! Em ở bên này, tìm trong ký ức, Khung cửa, bậc thềm, góc lớp…chìm sâu!
29 Tháng Ba 2009(Xem: 66092)
Ở một góc đời em đã có, Những ô cửa nhỏ, bậc thềm quen. Sân nắng giờ chơi, trường lớp cũ. Quay lưng, còn nhớ thuở êm đềm?
29 Tháng Ba 2009(Xem: 69288)
Mỗi ngày em liên tưởng đến những chuyến tàu sẽ mang anh đi, sẽ trả em về, và em khóc...