Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Huỳnh Công Ân - TỪ SÀI GÒN ĐẾN MONTRÉAL, NỔI TRÔI THEO VẬN NƯỚC (Chương IX)

08 Tháng Sáu 201912:15 SA(Xem: 13528)
GS. Huỳnh Công Ân - TỪ SÀI GÒN ĐẾN MONTRÉAL, NỔI TRÔI THEO VẬN NƯỚC (Chương IX)


Chương 9 - Vượt biên và trại tỵ nạn



Mùa hè năm 1983, quán Chim Sẻ chúng tôi đang buôn bán đắt khách thì vào một buổi chiều có mấy người của quản lý thị trường quận 4 bước vào quán. Họ gọi thức ăn và bia rồi ăn uống nói chuyện với nhau ồn ào. Vợ chồng tôi nhủ thầm bàn này chắc phải cúng cô hồn cho họ.  Nhưng lần này, sau khi ăn uống xong họ gọi tôi đến tính tiền. Tôi nói với họ hôm nay là tôi mời. Họ không chịu và nhứt định trả tiền cho tôi nhưng bảo tôi đưa họ biên lai tính tiền. Khi họ ra về thì tôi linh tính chắc có chuyện không lành sẽ xảy ra với chúng tôi.

Sáng hôm sau, phường 13 gọi vợ chồng tôi lên trụ sở phường "làm việc". Họ nói căn cứ theo sự điều tra của họ thì quán tôi rất đắt khách nên thu nhập rất cao, vì vậy tiền thuế phải đóng mỗi tháng tương đương 2 chỉ vàng. Đây là số tiền quá lớn đối với chúng tôi. Quán tôi phải thuê "mặt bằng" của người ta để bán. Ba năm nay, từ khi mở quán để bán, vợ chồng tôi kiếm được một ít tiền. Mỗi lần đủ một chỉ vàng thì chúng tôi đến tiệm vàng Đức Tín sắm một chiếc nhẩn vàng y đeo vào tay. Đến nay, mỗi người chúng tôi đeo một chiếc nhẫn hai chỉ. Vị chi tài sản chúng tôi hiện tại chỉ có 4 chỉ vàng. Nhà ở cũng phải thuê. Chúng tôi còn phải mướn cô Út, một người bà con của tôi coi giúp dùm hai đứa con nhỏ của tôi, vậy thì lấy đâu ra tiền đóng thuế. Nếu tôi chấp nhận gíá thuế này thì phải lấy tiền dành dụm đấp vào, như vậy chỉ vài tháng thì chúng tôi sẽ trắng tay.

Chúng tôi không chấp nhân mức thuế này. Thế là họ bắt vợ chồng chúng tôi mỗi ngày hai buổi lên "làm việc". Chiêu trò của họ là khủng bố tinh thần của chúng tôi. Biết không còn đất sống ở đây nữa, tôi trả nhà lại cho bác Bạch Tuyết và nhờ Dũng làm cho một tổ chức vượt biên giúp đỡ chúng tôi đi.

Dũng là con của cô Bảy tôi. Cô tôi thấy tình cảnh của tôi quá bi đát nên nói với anh hai Minh là người đứng đầu tổ chức cho gia đình tôi đi chỉ lấy trước mỗi người một chỉ vàng, khi nào sang được nước ngoài thì sẽ trả tiếp phần còn lại.

Bây giờ là mùa mưa, biển động nhưng có một khoảng thời gian trong tháng 8 gọi là đồng chung, biển yên nên đi biển an toàn. Anh hai Minh quyết định "đánh" vào lúc đó.

Một tối tháng 8, thằng Tâm, người của anh hai Minh đến nhà tôi. Nó hỏi tôi biết vựa nước mắm gần hãng dệt 13 không? Tôi nói không biết. Tâm nói không sao sẽ đưa qua "kho” (chỗ ém người) khác. Nó dẫn chúng tôi vào một quán nước ở ngả ba đường Tôn Thất Thuyết và một hẻm lớn ngồi chờ và bỏ đi.

Một lát sau, Tâm trở lại dẫn chúng tôi đi vào một căn nhà sàn ven sông. Chúng tôi được đưa vào một cái buồng tối om trên mặt sông. Ở đó, đã có một số người ngồi chồm hỗm hay ngồi bệt  nhưng không cử động hay nói chuyện. Tâm nói với một người đàn bà có vẻ là chủ nhà: "chị Bảy, đây là gà của anh hai Minh". Chị Bảy chỉ chỗ cho chúng tôi ngồi và nói: "anh chị giữ giùm hai cháu nhỏ đừng để chúng khóc la". Hai đứa con tôi có vẻ như biết tình trạng hiện tại nên im lặng không la khóc hay nói chuyện.

Sau hai tiếng đồng hồ chờ đợi trong phập phòng lo sợ, có tiếng chèo xuống đến gần. Mọi người như nín thở, cô Út em của chị Bảy đi ra phía sau nói chuyện với một người đang chống xuống vào. Tiếng người dưới xuồng nói thấp giọng đủ cho cô Út nghe: "Nước rút cạn quá, taxi (xuồng, ghe chuyển người ra tàu lớn) vô không được Út ơi". Cô Út nói:" Vậy phải xù kho này, Còn kho bên vựa nước mắm đi chưa Giáp". Giáp trả lời: " Đưa hết ra "cá lớn" (tàu lớn ) rồi". Quay sang những người khách đi đang ngồi chờ cô Út nói nhỏ: "Bà con chuẩn bị đi về vì không xuống taxi được. Lần sau mình đánh tiếp. Hãy đi ra từng gia đình hay từng người một để không bị chú ý." Tôi tuyệt vọng nhìn Giáp chống xuồng đi ra. Về sau tôi nghe nói chuyến đó được tàu Đan Mạch vớt và gởi những người vượt biên ở Singapore trước khi được các nước thứ ba nhận cho định cư. Giáp cũng leo lên tàu đi trong chuyến này.

Chúng tôi trở về nhà để chờ đợi chuyến đi sau. Lần sau thằng Mách cũng dẫn chúng tôi xuống kho của chị Bảy. Lần này, ngoài vợ chồng tôi và hai đứa con, còn có Thảo, em trai út của tôi và vợ chồng Nga, em vợ tôi và con là bé Phương. May mắn, lần này chúng tôi xuống được taxi. Mọi người chen chúc nhau trong chiếc xuồng có mui đi về hướng Nhà Bè. Khi taxi cập vào cá lớn, mọi người lần lượt được kéo lên tàu. Khi lên tàu có người hỏi: "gà của ai đây?" Nếu trả lời đúng tên của người gởi thì được ở lại, ai trả lời sai hoặc không biết trả lời thế nào thì bị trả xuống taxi, tôi nói đúng người gởi nên được ở lại trên tàu và cả gia đình tôi bị tống xuống hầm tàu. Dưới hầm tàu mọi người ngồi chen chúc như cá trong hộp.

Tàu bắt đầu chạy hướng về cửa  Vàm Láng. Nhưng vừa chạy không bao lâu, tôi nghe nhiều tiếng súng nổ phía sau tàu. mọi người hoảng hốt bảo nhau: 'bể rồi, tàu bị bị rượt bắt". Là một cựu quân nhân tôi nhận ra tiếng départ của súng M79 và sau đó tiếng nổ sát phía sau lái. Nếu đạn đi xa hơn một chút rớt lên tàu và phát nổ thì chắc mọi người trên tàu khó thoát chết.

Chủ tàu trên boong nói vọng xuống; "Tàu du kích đang rượt theo tàu mình và bắn theo, mình đi không thoát đâu. Bây giờ tôi cho tàu vào bờ, mạnh ai nấy  nhảy lên bờ chay trốn". Ông ta nói xong thì cho mũi tàu quay vào bờ. Nhưng vì nước ròng nên từ tàu tới bờ còn cả trăm thước bùn lầy phải vượt qua nên dù có tiếng người hối thúc "nhảy xuống đi", vẫn không có ai dại nhảy xuống làm mồi cho họng súng của du kích trước khi đến được bờ. Cuối cùng tàu du kích áp sát tàu chúng tôi, vài tên du kích nhảy qua tàu tôi. Thế là cả tàu bị bắt, không một ai thoát.

Một tên du kích lái tàu chúng tôi quay ra giữa dòng sông. Mọi người trên tàu đều buồn rầu, không ai nói tiếng nào, thỉnh thoảng tôi nghe có tiếng ai đó thở dài. Chúng tôi không dám nghĩ đến ngày mai và những ngày tù tội sắp tới. Tôi đã ở tù cộng sản hơn hai năm trong nhũng trại có tên văn hoa là "học tập cải tạo" nhưng thực chất là một trại tù khổ sai. Lần này tôi sẽ phải trải qua địa ngục đó bao lâu nữa?

Tôi không biết tàu đã chạy bao lâu, chỉ biết tàu đã dừng lại. Tôi đứng lên ló đầu quan sát. Thì ra tàu đang cập vào một cây cầu gỗ. Vì nước vẫn còn ròng nên boong tàu thấp hơn cầu khoảng một thước. Hai tên du kích đứng ở trên, kéo từng người lên cầu. Đứa con trai tôi đã 8 tuổi nên được kéo lên như người lớn. Riêng con gái tôi mới 4 tuổi nên một tên du kích đưa mũi súng để con tôi nắm và hắn kéo nó lên với sự phụ giúp của tôi bên dưới. Mặt cầu đầy bùn trơn trợt nên con gái tôi vừa bò lên cầu thì bị tuột xuống. Nó sợ quá khóc to hơn. Cuối cùng nó cũng lên được trên cầu.

Khi tất cả mọi người lên được trên cầu thì hai tên du kích, đứa trước đứa sau dẫn chúng tôi vào một trường học mà vách và nóc đều lợp bằng lá. Khi đi qua cổng tôi đọc được tấm bảng Trường Cấp 1 Xã Bình Khánh. Bon du kích dồn tất cả mọi người vào một phòng lớn. Một tên ngồi trên bàn, có một ngọn đèn dầu và một cuốn sổ. Một tên khác chỉ từng người đi lên bàn tên kia để hằn ghi tên. Khi lấy hết tên của mọi người thì hắn đứng dậy đi ra cửa. Tên còn lại đến bàn ngồi để canh chúng tôi. Mọi người đã qua một ngày căng thẳng và mệt mỏi nên lăn đùng xuống mặt đất ngủ ngon lành.

Trời sáng dần, mọi người lần lượt thức giấc. Họ phát giác có vài người quen biết đã biến mất. Tôi hiểu ra đêm qua, lợi dụng đêm tối, vách trường học bằng lá và tên du kích canh gác ngủ gục nên có một số người đã vạch vách chun ra ngoài và trốn thoát. Tôi tiếc rằng mình đã không nghĩ đến điều ấy. Tuy nhiên nhìn về phía vợ yếu và con thơ, tôi chắc rằng mình sẽ không làm gì được. Chạy trốn một mình thì được, nhưng bỏ lại vợ con thì tôi không an tâm. Còn nếu cả gia đình trốn đi thì vướng chân, vướng tay mấy đứa nhỏ khó thoát. Thôi thì chúng tôi đành phó mặc cho định mệnh.

Bây giờ, xuất hiện ba bốn tên du kích khác. Chúng lùa chúng tôi ra ngoài sân trường, bắt ngồi xuống để chúng điểm danh. khi thấy thiếu một số người chúng giở giọng hăm dọa chúng tôi: "Có một số thằng bỏ trốn, nhưng không thoát đâu. Mấy người đừng tính chuyên đi trốn, nếu bị bắt thì nhừ đòn". Tôi chợt thấy Thảo, em trai tôi đang dùng một que cây đào chôn một vật gì đó. Sau này tôi mới biết nó chôn một chỉ vàng mang theo để phòng thân. Cũng về sau tôi biết vợ tôi đã cất dấu chiếc nhẫn hai chỉ trong búi tóc để tránh bị bọn Việt cộng tịch thu.

Đám du kích lùa chúng tôi lên tàu của chúng tôi rồi mở máy chạy đi. Đến trưa chúng ngừng tại một bến ghe của một xã nào đó tôi không rõ, để lại một tên ngồi ở mũi tàu canh chúng tôi, còn mấy tên khác bỏ lên bờ, chắc là đi ăn trưa. Bên cạnh tàu chúng tôi có một chiếc tàu của dân đi đánh cá. Một người trong chúng tôi tên Dồi thừa lúc tên gác không để ý, lăn qua chiếc tàu đánh cá và van xin người chủ tàu cho anh trốn lại trên tàu đánh cá. Anh chủ tàu từ chối nói không dám chứa chấp Dồi. Thất vọng, Dồi đành lăn trở về tàu mình. Tôi chứng kiến cảnh này từ đầu đến cuối và nghĩ thầm: trong xã hội này, ai nấy lo giữ thân mình chứ không thể giúp đỡ kẻ khác.

Tàu tiếp tục chạy tiếp đến tối thì cặp bến một nơi nào đó có vẻ sầm uất. Có người cho biết đó là chợ Cần Thạnh thủ phủ của quận Cần Giờ. Mấy tên du kích giải chúng tôi đến khám đường Cần Giờ giao cho bọn công an ở đó. Chúng tôi bị chúng bắt ngồi xuống và gọi từng người vào cho tên công an chấp pháp thẩm vấn. Tiếng đánh đập, quát tháo của tên công an chấp pháp và tiếng la khóc của người bị thẩm vấn làm những người ngồi bên ngoài lo sợ cho bản thân mình. Họ thì thầm với nhau: "công an đánh để tìm chủ tàu, tài công và thợ máy".

May mắn khi đến phiên tôi bị thẩm vấn, tên công an chấp pháp không đánh tôi, không biết vì hắn đã mệt hay vì tôi lớn tuổi. Tôi cho tên, tuổi và địa chỉ giả. Khi bị hỏi có đi lính cho chế độ trước không thì tôi trả lời là tôi trốn quân dịch. Khi tên công an chấp pháp hỏi tôi biết ai là chủ tàu, tài công hay thợ máy không thì tôi trả lời rằng tôi là khách nên không biết ai hết chỉ biết người trung gian giới thiệu tôi đi chuyến này. Tên và địa chỉ của người trung gian cũng được tôi bịa ra. Tuy nhiên vì bị đánh đau nhiều người đã khai ra hết.

Sau buổi thẩm vấn chúng tôi bị đưa vào phòng giam. Gần 100 người nằm chen chúc với mấy chục người đã ở sẵn trong đó. Những đứa con nít chịu không nỗi sự chật chội, nóng nực trong phòng giam nên khóc la inh ỏi. Một tên công an đến mở cửa phòng giam cho đàn bà và trẻ em ra ở ngoài sân.

Tôi khai là bác của hai đứa con tôi để tách hồ sơ ra riêng vì nghe những người từng ở tù về tội vượt biên cho biết, đàn bà có con nhỏ sẽ được thả về sớm. Các con tôi tuy còn nhỏ nhưng rất thông minh nên luôn miệng gọi tôi là bác hai.

Mỗi ngày có một tên tù hình sự tên Mười là dân địa phương được cho phép ra chợ nên mọi người có thể gởi tiền cho hắn mua dùm thức ăn hay cá, thịt đem về.để ăn vì nhà tù chỉ phát cơm không. Nhờ vợ tôi ở bên ngoài nên vào nhà bếp phía bên kia sân mượn bếp nấu nướng do đó tình trạng ăn uống của chúng tôi cũng không đến nỗi tệ lắm.

Đám tù đàn ông phải ra ngoài lao động từ sáng sớm đến chiều mới về trại. Còn đàn bà và trẻ con thì được ở nhà. Có một hôm tôi bị bệnh xin được nghỉ ở nhà một bữa. Tôi đang nằm trên võng nghỉ ngơi thì tên Ba Tâm, phó trại bước vào, tay cầm một que cây đập đập trên dây võng hỏi tôi với một giọng xấc xược: ’Ê thằng này, sao mày không đi lao động?". Tên Ba Tâm tuổi chỉ ngang Thảo, em út của tôi nhưng láo lếu gọi tôi bằng mày. Tôi nén giận vì biết mình chỉ là một người tù, trả lời:”Báo cáo cán bộ, hôm nay tôi ốm có nói với anh đội trưởng xin được nghỉ một hôm.”, Ba Tâm hừ một tiếng: "Thế à!” rồi bỏ đi.

Gần một tháng sau ngày bị bắt, những người đàn bà có con nhỏ, trong số đó có vợ tôi được thả ra với những đứa con của họ. Khi chia tay, vợ tôi nói nhỏ với tôi nàng sẽ tìm cách lo cho tôi ra khỏi tù.

Tôi được biết tài công chuyến đi của tôi là Thành, hải quân thiếu tá bạn học của tôi thời tiểu học ở trường Cao Văn. Gia đình anh ở đường Tôn Đản, quận 4. Sau khi anh có gia đình thì ra riêng ở Tân Định. Sau 75, vợ anh có một sạp bán tạp hóa ở chợ Tân Định, Vợ con anh cũng bị bắt trong chuyến này và được thả về một lượt với vợ con tôi. Sau khi đám đàn bà, trẻ con đi rồi, đêm đêm Thành và tôi ngồi bàn nhau tìm cách trốn trại. Chúng tôi quan sát việc canh gác của bọn công an. Khi khám phá ra rằng trại giam có thả một con chó berger canh chừng ban đêm thì chúng tôi thấy rằng chuyện vượt rào không thể thực hiện được. Đành tìm cách khác vậy.

Hai tuần sau, vợ tôi và má tôi lên thăm nuôi tôi. Ở ngoài hàng rào, nàng chỉ vào một người đàn bà lạ mặt bên cạnh cho tôi biết và nói gì với bà ta và chỉ về phía tôi mà bà ta gật đầu lia lịa. Khi vào trong gặp tôi, vợ tôi đưa cho tôi một số tiền khá lớn và bảo nhỏ với tôi: “ Trong này có một tên tù hình sự người Bắc 75 làm ở nhà bếp, anh cho tiền nó để nó dẫn anh trốn ra ngoài. Khi ra được bên ngoài, anh đi về hướng chợ, gặp cái hẽm đầu tiên hãy quẹo vô, nhà chị năm Mun ở cuối hẽm. Chị ấy sẽ tìm cách đưa anh về nhà.”

Một hôm, công an trại dùng tàu đưa một số tù chúng tôi vô Ruộng Muối để đào đất đáp nền nhà cho gia đình một tên chỉ huy công an nào đó. Sau khi giao công việc cho chúng tôi, mấy tên công an áp tải chúng tôi bỏ đi vào nhà một tên du kích địa phương ở gần đó nhậu nhẹt.

Đang làm tôi thấy Dồi xin với anh tù trưởng toán đi vệ sinh. Nhìn theo, tôi thấy anh ta ngồi thụp xuống lùm cỏ sậy đầu bờ đê rồi lom khom bỏ chạy xa dần. Tôi biết là Dồi bỏ trốn. Một lát sau, một người khác cũng làm như vậy. Người thứ ba là Thảo, em tôi. Nhưng thay vì bỏ chạy ngay, nó thụp lên, thụp xuống mấy lần và ra dấu cho tôi đi theo. Nhưng tôi lắc đầu. Nó đành lom khom bỏ chạy luôn.

Trước đó mấy ngày, có một tên tù hình sự trốn trại bị bắt lại. Anh ta có thân hình như một lực sĩ, Nhưng sau mấy ngày bị biệt giam và bi đánh bằng khúc gỗ một tấc vuông, anh ta trông như một bộ xương chỉ lết đi chứ không đứng vững. Tôi nghỉ để em tôi trốn đi một mình, nếu nó bị bắt lại, nó còn có tôi lo cho nó. Chứ nếu cả hai trốn đi và nếu không thoát thì ai lo cho chúng tôi?

Khi mọi người leo lên ghe để trở về, mấy tên công an đã sỉn nên không điểm danh. Tôi lanh trí dồn ba đôi dép còn lại của ba người trốn và ngồi bẹp lên đó để bọn công an không biết có người trốn. Nhưng về tới Cần Thạnh, khi mọi người lên bờ bọn công an mới phát giác có ba người trốn. Chúng chửi thề và quay tàu trở ra Ruộng Muối để tìm họ. Tôi lầm thầm van vái cho họ thoát nạn.

Sáng hôm sau, tên Mười đi lòng vòng trong trại loan báo là ba người trốn hôm qua đã bị bắt và đang bị giam ở đồn công an để điều tra, xong họ sẽ bị trả về trại giam. Nghe tin dữ tôi không cầm được nước mắt, lo cho số phận của em tôi. Nhưng nhiều ngày trôi qua, chúng tôi chẵng thầy người tù bỏ trốn nào bị đưa về trại. Thì ra tên Mười loan tin vịt. Tên này là một thằng bưng bô cho bọn công an.

Sau vụ bỏ trốn của ba người tù ở Ruộng Muối. Trại ra lệnh cho Bình, anh em bạn rể của tôi, được mở tiệm hớt tóc ở cạnh trại giam lấy tiền cho bọn công an, cạo trọc tất cả bọn tù đàn ông trong trại để nếu họ trốn trại sẽ dễ bị nhận diện. Tôi cũng bị thành hòa thượng bát đắc dĩ.

Một bữa trưa gần giờ cơm, tôi gặp tên tù người Bắc nấu bếp bên trong phòng giam. Tôi ngỏ cho nó biết ý định của tôi để nhờ nó giúp. Nó đồng ý và tôi đưa nó số bạc mà vợ tôi trao cho tôi hôm thăm nuôi. Một lát sau nó trở vô gặp tôi và bảo tôi ra nhà bếp. Nhà bếp nằm sát hàng rào, phía bên kia rào là thánh thất Cao Đài. Lúc đó không có ai trong nhà bếp. Tên người Bắc vach rào cho tôi chui ra ngoài. Không may, đùi tôi vướng kẻm gai lam rách quần và đùi tôi bị cào xước chảy máu. Mặc kệ, tôi đi nhanh ngang khu vườn của chùa Cao Đài để ra đường. Tôi đi ngang một ông đạo hữu Cao Đài đang cuốc đất. Ông ta ngẩng đầu nhìn thoáng qua tôi rồi cúi xuống cuốc tiếp như không thấy gì. Tôi thầm cám ơn ông vì nếu ông ta tri hô lên thì chắc chắn là tôi sẽ bị bắt lại.

Ra tới đường tôi đi về hướng chợ Cần Thạnh. Đi ngang một vúng nước, tôi xuống tóe nước lên đùi cho bớt máu. Nhờ tôi có đội nón nên chắc không ai nhận biết tôi là tù. Khi đi tới con hẽm đầu tiên, tôi vừa quẹo vào thì may mắn thay, một người đàn bà vừa từ trong một ngôi nhà bước ra và trông thấy tôi, Đó là bà năm Mun. Bà ta ngoắc tôi ra dấu bảo tôi đi nhanh lên. Tôi lẹ làng bước đến nhà bà và lách mình qua cửa để vào trong nhà.

Vào nhà, bà năm Mun dẫn tôi vào trong buồng, giăng một chiếc võng sát trần nhà và bảo tôi lên võng nằm. Bà ta đi mua cho tôi một dĩa cơm sườn và một ly cà phê đá. Bà nói với tôi, đến tối chồng bà sẽ chèo ghe chở tôi qua Vũng Tàu. Đến chiều bà lại đi mua cho tôi một dĩa cơm và một ly trà đá. Sau khi ăn uống xong tôi nằm chờ trời tối. Bỗng nhiên có tiếng chân người đi vào nhà trước, Rồi tiếng hai người kéo ghế ngồi và tiếng nói chuyện. Bà năm Mun vào buồng kề tai tôi nói nhỏ: ”Nguy rồi thằng rể của bà đang nhậu ở phòng ngoài trước với một tên công an của trại giam. Rể của bà là tù hình sự trong trại giam, nhưng vì hắn là dân địa phươngnên được cho ở ngoài đi làm ăn. Vừa rồi hắn và một số tù hình sự khác được thằng công an đó dắt lên Trị An lao động mấy ngày mới vừa về tới. Tôi phải chờ đến khi tan tiệc rượu của hai người mới đi được”.

Tim tôi đập mạnh vì lo sợ. Chỉ có một tấm vách lá ngăn cách một tên tù và một gã cai tù. Tôi lại nghe hắn nói với rể của năm Mun: ”ĐM, hồi trưa này, ở trại giam, lúc phát cơm có một tên tù vượt trại. Nếu tao bắt được nó thì nó sẽ mềm xương”. Tôi nghe hắn nói vậy mà lạnh cả xương sống nghỉ tới cảnh mình không may bị hắn bắt lại.

Bà năm Mun vạch màn đi vào buồng thấp vọng nói với tôi: ”Không êm rồi, chú mày phải đi ngay kẻo thằng công an sinh nghi vào đây xét thì nguy to”. Bà bảo tôi xuống, leo cửa sổ bên hông buồng ra ngoài và bà dắt tôi ra hướng biển. Tại đây ông năm Mun và người em rể đang chờ tôi trên một chiếc xuồng nhỏ. Tôi vừa xuống xuồng thì họ lật đật chèo về hướng có nhiều đèn sáng: Vũng Tàu.

Hơn một tiếng sau, xuồng cặp vào Bến Đình. Năm Mun và tôi lên bờ, còn em rể của ông ta quay xuồng chèo về Cần Giờ. Chúng tôi đi ngang một đồn công an biên phòng. Năm Mun huýt sáo bản “Như có bác Hồ” chắc để lấy lòng bọn công an trong đồn và để chúng không nghi ngờ chúng tôi. Đi ngang một ngôi nhà to lớn, khang trang Năm Mun chỉ và nói với tôi: ”Nhà của thượng úy trưởng trại giam Cần Giờ đó”. Tôi cằn nhằn ông ta: ”Bây giờ mà còn nhắc đến trưởng trại giam làm gì. Ông định hù tôi sao?”. Năm Mum cười giã lã: “Nói cho chú biết thôi mà”. Năm Mun trước 75 là lình thủy quân lục chiến nên chắc không ưa gì bọn công an.

Năm Mum dẫn tôi vào trong một con hẻm, đến một ngôi nhà nhỏ ông ta gọi nhỏ: “Thắm ơi mở cửa cho chú Năm”. Bên trong nhà có một thứ ánh sáng lù mù của đen dầu được ai đó thắp lên. Cánh cửa xịt mở, một cô gái xuất hiện trước chúng tôi. Năm Mun và tôi lách vào trong, cô gái đóng cửa lại. Năm Mun nói với cô ta: “ Thằng em này ngủ nhờ một đêm ở đây, sáng sớm sẽ đi xe đò về Sài Gòn”. Cô gái chắc hẵn đã quen với tình huống này nên không hỏi han gì, chỉ cho tôi cái ghế bố bảo nằm lên đó và đi giăng mùng cho tôi. Khi tôi giỡ nón ra, cô ta ngạc nhiên khi trông thấy cái đầu trọc lóc của tôi. Năm Mun cười giải thích ”Nó làm ăn thua lỗ nên xuống tóc vái Trời Phật giúp nó khá hơn”.

Sáng sớm hôm sau, năm Mun dẫn tôi ra bến xe đò đi chuyến tài nhứt về Sài Gòn. Ông nói nếu mình đi trễ, công an Cần Giờ có thể đánh điện qua đồn công an cầu Cỏ May chận xét bắt tôi lại.

Về đến Sài Gòn tôi dẫn Năm Mun vào một quán cà phê ở góc đường Tôn Đản và Trịnh Minh Thế cũ và nhắn người nhà đến trả cho công cho ông ta một chỉ vàng. Tôi không cho ông ta biết nhà sợ sau này ông ta sẽ đến vòi vĩnh tiền bạc. Vậy mà, khi tôi qua buôn bán bên quận 1 ông ta cũng tìm ra tôi để xin tiền.

Trong 3 năm từ 1983 đến 1986, tôi nhiều lần đi vượt biên nhưng đều thất bại. Trong số đó có hai chuyến mà tôi không bao giờ quên. Một lần tôi xuống taxi (ghe nhỏ) cũng tại nhà bà Bảy ở đường Tôn Thất Thuyết, quận 4 cách nhà tôi không xa, Chiếc taxi vừa rời khỏi nhà bà Bảy vài phút thì tôi nghe có tiếng la to: ”Dừng lại, ghe vượt biên, công an đây, nếu không chúng tôi bắn”. Tôi ló đầu ra khỏi khoang ghe nhìn ra ngoài trong bóng tối có những ánh đèn pin lóe lên, tôi trông thấy một chiếc ghe to hơn ghe tôi đang cặp sát ghe tôi, trên đó có những người mang súng M16. Tôi vội phóng mình xuống sông, bơi nhanh về phía một chiếc ghe chài gần đó. Tôi leo lên ghe chài, nói thật với những người trong ghe để xin thay một bộ quần áo khô để về nhà. Sau khi nhận một số tiền tôi đền ơn, họ đưa cho tôi một bộ quần áo khô và tôi ung dung lên bờ đón xích lô về nhà. Sau này tôi nghe những người trong tổ chức vượt biên nói hôm đó những người mang súng uy hiếp ghe vượt biên là bảo vệ (gác dan) của kho gạo gần đó. Họ biết ghe chúng tôi chuyển người vượt biên ra ghe lớn nên họ giả công an để cướp vàng những người trên ghe chúng tôi.

Lần khác, tôi được người “dẫn gà” (dẫn khách vượt biên) đưa xuống một xã thuộc quận Nhà Bè vào một nhà dân đang tổ chức ăn giỗ. Tôi được giới thiệu là bạn của chủ nhà ở “thành phố”  (Sài Gòn ) xuồng dự. Mọi người ngồi thành vòng tròn trên một chiếc chiếu, trong số đó hai tên công an mặc thường phục. Chúng thường liếc về phía tôi và nói nửa đùa, nửa thật như đe dọa ”Chà tối nay chắc có chuyện vui”. Anh “dẫn gà” thấy không êm nên khi tôi ra đi tiểu ở mé sông, anh ta theo tôi và bảo tôi xuống xuồng, anh ta đưa tôi ra ghe lớn. Khi tôi đã lên ghe lớn thì có nhiều chiếc xuồng nhỏ cặp vào ghe lớn và từ xuồng người ta leo lên tàu. Khi mọi người lên đầy đủ, ghe bắt đầu chạy. Ghe chạy một đổi, bỗng dừng lại. Có tiếng người la lên: “ Gạo và nước uống chưa đưa lên, chúng ta chỉ có một bao cũ sắn, không thể đi được. Tàu sẽ vô sát bờ, bà con mạnh ai nấy chạy nếu chậm chân sẽ bị công an bắt”.

Tôi lại phóng xuống sông, bơi nhanh vào bờ. Lên tới bờ, tôi chạy một mạch xa chỗ tàu đậu vì chắc chắn một lát nữa công an sẽ tới. Những tiếng chó sũa trong những xóm nhà quanh đây làm tôi lo mình sẽ bị lộ. Khi biết mình đã chạy khá xa chỗ tàu đậu, tôi lần ra mé sông tìm ghe để quá giang trở lại Nhà Bè.

Một chiếc xuồng nhỏ có thắp một ngọn đèn leo lét chèo ngang qua tôi. Tôi gọi họ vào và ngỏ ý xin họ quá giang về Nhà Bè đổi lấy số thuốc tây tôi mang theo. Họ đồng ý chở tôi về Nhà Bè. Tôi lên bờ và nhận thấy vẫn còn giờ giới nghiêm nên tôi tìm một chiếc xuồng bỏ không nằm ẩn mình chờ sáng. Khi trời vứa tờ mờ sáng, tôi đón chiếc xe lam đầu tiên về nhà. Trên xe, những người khách đồng hành lén nhìn đôi chân trần của tôi nhưng không ai nói gì.

Thấy tôi đi nhiều lần mà không lọt, cô bảy tôi giao cho Hùng, thằng rể út của cô cố gắng xem chuyến đi nào chắc ăn dẫn cho tôi đi. Cuối tháng 9 năm 1986, tôi buồn vì chuyện ở không xong, đi không lọt nên đi bộ lang thang một mình qua quận 1. Tình cờ khi đi ngang tổ hợp mộc ở đường Nguyễn Trãi thì gặp anh sáu Lạc, anh con người bác làm việc ở đây. Anh sáu Lạc kéo tôi vào nhậu với anh và vài người bạn làm chung với anh, Họ uống rượu đế, tôi không quen uống thứ rượu này, nhưng vì buồn nên tôi cũng nốc cạn ly theo họ. Chẳng mấy chốc tôi đã say mèm không còn biết trời trăng gì cả. Anh sáu Lạc kêu một chiếc xích lô và cho anh ta địa chỉ của tôi để anh xích lô chở tôi về nhà.

Tới nhà, trời đã khuya, tôi leo lên giường đắm mình trong giấc ngủ nặng nề, Tôi gjựt mình tỉnh giấc nhưng đầu óc nặng như bị búa bỗ khi bị vợ tôi lay dậy. Nàng nói: ”Chú Hùng đến đón anh, hôm nay có chuyến đi”. Thế là chỉ kịp nói lời từ giã với vợ và nhìn thoáng hai đứa con đang ngủ, tôi lật đật đi theo Hùng.

Hùng đưa tôi vào Chợ Lớn, đứng chờ ngoài cửa rạp hát Minh Phụng. Độ  gần một giờ sau có người đến dẫn tôi ra bến xe lam chạy đường Phú Xuân. Dọc đường xe bị trục trặc, anh tài xế phải ngừng lại sửa một lát mới đi tiếp.Tới Phú Xuân, anh dẫn đường đưa tôi vào một quán nước sát mé sông và hai người ăn uống để chờ taxi đến đón.

Một lát sau,một chiếc ghe nhỏ có mui đến đậu phía sau quán nước. Anh dẫn đường đưa rôi xuống ghe. Ghe chạy thật lâu rồi ngừng ở một ngả ba sông mà tôi đoán là cửa sông Nhà Bè.

Tôi vẫn còn nhức đầu vì cuộc nhậu hôm qua. Tôi nói với anh lái ghe tôi muốn đi cầu. Anh ta bảo tôi ngồi xoay mông về phía sông chứ đừng xoay về phía bờ lỡ bọn công an trông thấy mông tôi trắng biết tôi là người Sài Gòn thì nguy to.

Đến gần tối anh lái ghe hỏi tôi có vợ con chưa. Tôi đáp có, anh ta hỏi tại sao không đi với vợ con. Tôi nói không đủ tiền để đi cả gia đình. Anh ta nói nếu tôi nói sớm anh ta có đủ thời gian về đón vợ con tôi ra đây đi chung, tôi chỉ cần cho anh ta một ít tiền. Tôi thầm nghĩ, vợ tôi bị bắt một lần e rằng không dám đi nữa.

Khi màn đêm phủ đầy trên vạn vật thì tôi nghe có tiếng máy tàu lớn dần. Anh lái ghe nói với tôi: “ Tiếng máy Yamaha đầu bạc, con cá lớn ra tới đó”. Nói xong anh giựt cho máy đuôi tôm nổ và cho ghe tiến ra giữa sông. Con cá lớn dừng lại. Anh lái ghe cột ghe nhỏ của anh vào ghe lớn rồi đưa tôi lên ghe lớn và nói cho biết tôi là người của hai Minh. Anh ta cũng leo lên ghe lớn và cầm lái. Sau này tôi được biết anh ta có nhiệm vụ đưa tàu ra cửa biển. Đến cửa Vàm Láng, anh ta nhảy xuống ghe nhỏ  quay về.

Tàu đang chạy bổng khựng lại, máy vẫn nổ nhưng tàu không tiến tới được. Có tiếng người la lên: “Tàu kẹt cồn rồi”. Đáy sông có chỗ sâu, chỗ cạn, tàu tôi vướng vào chỗ cạn. Tôi chợt liên tưởng đến cảnh bị bắt trong lần vượt biên đầu tiên. Chủ tàu hô hào: “ Bà con nào biết lội nhảy xuống đẩy tàu qua cồn phụ với chúng tôi”. Tôi cũng nhảy xuống với mọi người.

May mắn, tàu vượt qua khỏi cồn đi vào một lạch sâu và máy đẩy được tàu tiến tới. Ai nấy đều vui mừng. Tôi leo lên tàu và khám phá tượng Quan Âm Nam Hải vợ tôi đã thĩnh ở chùa cho tôi đeo ở cổ đã rớt mất. Sau này vợ tôi nói Phật Bà đã phù trợ cho tôi vượt qua nguy hiểm nên đến lúc Phật Bà phải ra đi.

Tàu đã ra biển, ngọn hải đăng ở Vũng Tàu lùi xa dần. Bỗng có tiếng la lên:” Tàu đánh cá của công an đang đuổi theo tàu chúng ta”. Tôi nhìn ra phía sau, một chấm đen lớn dần đang di chuyển về hướng tàu tôi. Tôi lại lo lắng về viễn tưởng bị bắt lần thứ hai về tội vượt biên.

Tàu của chúng tôi gia tốc, nhưng tàu của công an máy mạnh hơn nên từ một chấm đen tàu công an hiện ra đầy đủ hình ảnh một chiếc tàu. Chúng tôi vẫn chưa ra đến hải phận quốc tế nên tàu công an có quyền bắt giữ tàu chúng tôi. Bỗng có tiếng reo lên: ”Tàu công an quay về rồi. Chắc nó không đủ xăng dầu để đi xa hơn”. Tôi nhìn thấy chấm đen quay về hướng khác rồi nhỏ dần và cuối cùng mất hút ở cuối chân trời. Mọi người thở phào như trút được nỗi lo sợ từ khi thấy tàu công an xuất hiện.

Rồi tàu cũng đến hải phận quốc tế. Nước biển ở đây có màu xanh đậm. Chúng tôi thấy một chiếc tàu buôn to lớn đi ngang. Mọi người cố gắng vẫy tay và la to:” SOS”để cầu cứu. Chủ tàu cho đốt quần áo để tàu buôn trông thấy chúng tôi. Vô ích, tàu buôn vẫn bỏ đi, nhỏ dần rồi biến mất. Gần đây, sau hơn 10 năm cứu vớt và cho định cư các thuyền nhân Việt Nam, lòng nhân đạo của các nước tây phương đã trở nên chai đá. Chính quyền các nước đó cấm tàu thuyền của họ vớt tàu Việt Nam vượt biển. Thuyền trưởng nào không tuân lệnh sẽ phải ra tòa. Thành ra, chúng tôi không hy vọng được tàu ngoại quốc cứu vớt. Bao nhiêu tàu buôn sau đó cũng lạnh lùng bỏ mặc con tàu nhỏ bé của chúng tôi lênh đênh trên biển cả.

Đi được vài ngày thì vào một buổi chiều, mây đen kéo đầy trời. Mưa bắt đầu rơi nặng hột và giông tố nỗi lên. Tàu chúng tôi như một chiếc lá giữa dòng, nhấp nhô theo những đợt sóng. Càng về đêm gió càng mạnh. Từ dưới khoang tôi ngước nhìn lên boong tàu thấy chủ tàu và các thủy thủ mặt mày buồn xo. Tôi biết tình trạng của chúng tôi rất nghiêm trọng. Tàu của chúng tôi có thể bị sóng gió đánh chìm bất cứ lúc nào.

Thình lình có tiếng la to: ”Có người rớt xuống biển. Cho quay tàu lại vớt người ta”. Chủ tàu lên tiếng:”Đành chịu thôi, sóng gió như thế này, quay ngang tàu thì sóng sẽ đánh tàu lật úp”. Tàu vẫn tiến tới nhưng gió bỗng giảm cường độ và biển lần lần êm lại. Mưa cũng bắt đầu thưa dần rồi tạnh hẵn. Bão tố đã đi qua. Tôi nghe có nhiều người lâm râm niệm phật hay đọc kinh.

Mọi người trên tàu bàn tán về sự việc vừa xảy ra, Có người nói, người vừa nhảy xuống biển đã nộp mạng cho thủy thần để cứu mạng cho tất cả người còn lại trên tàu. Không biết có nên tin điều này hay không, nhưng có một điều tôi thấy tội nghiệp cho đứa bé khoảng 12, 13 tuổi, cháu của người nhảy xuống biển bây giờ phải chịu bơ vơ. Hai chú cháu đi chung với nhau và họ là người Hoa nói tiếng Việt không rành.

Khoảng ngày thứ năm của cuộc hành trình, tàu chúng tôi gặp tàu đánh cá Thái Lan. Đã từng nghe người ta kể nhiều chuyến vượt biển bị tàu đánh cá Thái Lan cướp bóc tài sản và hãm hiếp phụ nữ. Vì vậy chúng tôi rất lo lắng không biết tính như thế nào. Những người trên tàu Thái Lan đen đúa, bậm trợn. Bất đắc dĩ, tài công và một thủy thủ đem la bàn và bản đồ leo qua tàu Thái Lan. Tôi nhìn thấy có một chiếc tàu chở dầu mang cờ Mỹ ở gần đây. Có lẽ nhờ vậy mà tàu đánh cá Thái Lan thay vì cướp bóc họ lại chỉ đường, cho lương thực và dầu.

Hai người của chúng tôi trở lại tàu và tàu chúng tôi đi theo hướng bọn đánh cá Thái Lan chỉ. Tuy nhiên, khi trời tối hẵn thì tài công rẽ tàu sang hướng khác để tránh bọn đánh cá Thái Lan đuổi theo. Do đó tàu đi lạc hướng mãi đến ba bốn ngày sau thì gặp một tàu đánh cá Mã Lai. Tôi chưa nghe ai kể lại một chuyến vượt biển nào bị tàu đánh cá Mã Lai cướp bóc nên yên tâm. Khi hai tàu cặp sát nhau, một thủy thủ Mã Lai nhảy sang tàu chúng tôi. Tôi nói với anh ta là tàu chúng tôi sắp hết dầu và nhờ tàu anh ta kéo tàu chúng tôi vào bờ, Anh ta đồng ý và đòi chúng tôi trả công cho bọn anh ta bằng cách cho hết số vàng còn mang trong người cho họ. Những người trên tàu sốt sắng lấy hết số vàng còn dấu trong người bỏ vào nón của anh ta, Anh ta nhảy trở qua tàu Mã Lai và quăng dây thừng qua tàu tôi bảo cột vào mũi ghe để tàu Mã Lai kéo đi.

Tàu Mã Lai kéo tàu chúng tôi đi được một vài giờ bỗng có tiếng người la lớn: “tụi Mã Lai chặt dây kéo rồi”. Mọi người thất vọng nhìn theo chiếc tàu Mã Lai bỏ chạy. Nhưng ai đó reo lên:” A có tàu hay cái gì đằng kia kìa”. Tài công cho nổ máy tàu và chạy về phía vật gì đen đen nằm ở chân trời. Chúng tôi chạy nhiều tiếng đồng hồ nữa mới tới. Thì ra đó là giàn khoan dầu của Mỹ.

Tàu tới giàn khoan thì trời đã sụp tối. Một người trong tàu tôi nhảy lên giàn khoan cột tàu vào giàn khoan, Đàn bà và trẻ em được cẩn thận đưa lên giàn khoan. Đàn ông thì nhảy qua. Vì bị nhốt dưới khoang tàu gần 10 ngày, tay chân tôi tê cứng và người rất đuối sức, khi nhảy qua giàn khoan tôi hụt chân suýt rơi xuống biển, may nhờ anh tài công nắm được tay tôi kéo qua. Anh ta la lên:” Bộ muốn chết sao cha nội”. 

Chúng tôi đổ bộ lên giàn khoan khá lâu mà không thấy người nào của giàn khoan xuống gặp chúng tôi. Một lát sau từ phía trên nước tuôn xuống chúng tôi như mưa. Tôi đã được em gái tôi kể lại trong chuyến đi của nó, người ta cũng lâm vào cảnh như chúng tôi hiện giờ. Người của giàn khoan muốn đuổi chúng tôi đi, nhưng như em tôi dặn chúng tôi phải sử dụng chiến thuật “lì”. Tôi nói với mọi người cứ ở lì trên giàn khoan. Thấy đổ nước không đuổi được chúng tôi, một anh Mỹ cao lớn từ trên bước xuống, Tôi được mọi người cử ra nói chuyện với anh Mỹ, Anh ta nói với tôi: họ sẽ cho tàu tôi dầu, thức ăn, nước uống và chỉ đường cho chúng tôi vào bờ. Tôi từ chối nói rằng tàu chúng tôi bị hỏng máy không thể đi được nữa. Anh ta nói: “Như vậy chúng tôi đành phải gọi cảnh sát Mã Lai đến bắt các anh”. Nói xong anh ta đi lên trên. Tôi bảo chủ tàu cho người xuống đục thủng tàu, như vậy theo luật họ không thể bỏ rơi chúng tôi. Một anh trong số chúng tôi nhảy xuống tàu để đục thủng đáy để tàu chìm. Nhưng tàu không chìm lại bị đứt dây lần lần ra xa giàn khoan. Chủ tàu nhờ tôi chạy lên cầu cứu với nhân viên giàn khoan vì anh ở dưới tàu không biết bơi.

Lúc đó có một chiếc trực thăng bay vòng vòng phía trên giàn khoan. Tôi vừa lên hết cầu thang thì gặp một anh Mỹ. Tôi nói với anh ta nhờ dùng trực thăng cứu người của tôi, Anh ta trao cho tôi một cái phao cao su vừa đuổi tôi xuống vừa bảo tôi kiếm người bơi giỏi nhảy xuống biển bơi ra cứu người trên tàu.  Một lát sau hai người về tới dàn khoan. Chiếc tàu dần dần chìm xuống.

Một anh Mỹ xuống bảo tôi cho xếp hàng đàn ông một bên và đàn bà, con nít một bên. Anh trở lên, một lát sau đem một thùng bánh xuống phân phát cho mọi người. Tôi biết chắc rằng giàn khoan đã chấp nhận cứu vớt chúng tôi.

Họ bắt đầu che màn làm buồng tắm cho chúng tôi tắm rửa, đoạn mang thức ăn đến cho chúng tôi. Chỉ trong khoảng có vài giờ mà họ cho chúng tôi ăn hai ba lần như vậy.

Cuối cùng họ tập hợp chúng tôi lại và cho biết họ sẽ cho tàu dầu của công ty họ tới chở chúng tôi vào bờ. Một anh Mỹ to con nói với tôi hỏi mọi người còn tiền Việt Nam không cho anh ta vì anh ta có vợ Việt Nam và sắp sữa đi chơi ở Việt Nam. Bù lại, ai cần viết thư về nhà để báo tin thì viết địa chỉ đưa cho anh ta.

Khi tàu dầu tới, mọi người xuống tàu. Người Mỹ cho mang xuống tàu thức ăn, sữa, nước uống và dặn tôi cứ hai giờ là phân phát cho mọi người.

Độ mười giờ sau, chúng tôi trông thấy bờ. Mọi người reo lên mừng rỡ, Chúng tôi mất mười ngày gian khổ để đến được bờ tự do.

Chúng tôi lần lượt bước lên bờ dưới cái nhìn tò mò của những người trên đảo đang tập trung chờ đón chúng tôi, Mọi người ngồi chồm hỗm trước văn phòng của SB (Special Branch) để chờ điều tra cá nhân. Tôi thấy có hai cái bàn làm việc của một người đàn ông và một người đàn bà, Mọi người lần lượt đến ngồi trước mặt hai nhân viên đó. Lúc đó tôi tưởng họ là nhân viên của Mỹ và từ Mỹ sang đây làm việc. Sau này tôi được biết họ cũng là thuyền nhân như chúng tôi. Anh nhân viên kia là một cựu đại úy, con của tướng Phan Xuân Nhuận, từng là chỉ huy trưởng Biệt Động Quân. Tôi được cô nữ nhân viên lấy lời khai. Cô này mặc một chiếc áo đầm và trang điểm cẩn thận. Tôi khai  tất cả lý lịch của tôi cho cô ghi nhưng dấu nhẹm việc tôi có đi dạy học cho chế độ mới vì tôi nghe nói ai khai có làm việc cho chế độ mới sẽ gặp khó khăn trong việc định cư.

Tôi được nhân viên của trại (thuyền nhân làm thiện nguyện cho trại) dẫn đi ở khu F. Dọc đường có người nhận ra tôi gọi ông Chim Sẻ. Lại có Thu, con chú Phước Lợi, tiệm may gần nhà tôi chạy theo kêu anh hai. Thu nói sẽ xin cho tôi về ở nhà vợ chồng Thu nhưng người dẫn tôi đi nói không được. Người ta đưa tôi vào ở chung nhà với Tư Lên, trưởng khu F. Sau này tôi biết tư Lên là một tay anh chị ở Việt Nam trước khi vượt biên.

Mọi người trong trại đều phải tham gia công tác tùy theo khả năng của mình cho việc điều hành trại. Ai không có khả năng đặc biệt gì thì làm lao động tổng quát như dọn dẹp vệ sinh. Ai có trình độ ngoại ngữ như Anh Văn, Pháp Văn thì dạy các trường Anh Văn khu D hay Pháp Văn khu F. Các em ở tuổi trung học thì có trường high school do soeur Carol, người Úc làm cố vấn. Trường Anh Văn do một cố vấn người Mã gốc Tàu làm cố vấn, còn trường Pháp Văn do bà Odile làm cố vấn. Hiệu trưởng các trường là các thuyền nhân. Tôi còn nhớ hiệu trưởng high school là Tân, một thanh niên trẻ nói tiếng Anh khá lưu loát. Hiệu trưởng trường Anh Văn là Khoa, lớn tuổi hơn Tân, trình độ Anh Văn cũng khá và được mọi người để ý vì anh ta thường ăn mặc quần short, áo polo trắng và đánh tennis với các cố vấn Mã Tàu và Cao Ủy. Hiệu trưởng trường Pháp Văn là cô Loan. Vì tôi được mọi người biết là thầy giáo khi ở Việt Nam nên được mời dạy cả ba trường đó. Soeur Carol đem sách toán từ Úc sang nhờ tôi dạy các em để các em quen với từ ngữ toán học bằng tiếng Anh. Sau này khi cô Loan chuyển trại qua Sungei Besi thì tôi được bà Odile mời làm hiệu trưởng trường Pháp Văn khu F.


image002Trường học trên đảo

(Nguồn: Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam):

Những thuyền nhân là cựu sĩ quan hay nhân viên hành chánh của chế độ Việt Nam Cộng Hòa thì được cho làm trong ban điều hành trại gồm trại trưởng, các trưởng khối, các trưởng ban và các trưởng khu A, B, C,D, E, F, G. Tôi còn nhớ lúc tôi ở trại thì trưởng trại là thiếu tá Huwhải quân.

Mã Lai là một nước theo đạo Hồi nên cấm ăn thịt heo và uống rượu. Các thuyền nhân Việt Nam đang ở trong lãnh thổ Mã Lai nên bị ràng buộc bở luật đó. Ai bị bắt gặp lén uống rượu thì bị cảnh sát Mã Lai bắt nhốt vào Monkey House (chuồng khỉ). Chồng của Thu, con gái chú Phước Lợi có lần uống rượu bị nhốt trong đó.

Ở trên đảo có một thú vui là đi đón tàu vượt biên đến đảo. Mọi người mong trong số người mới đến có người thân hay người quen. Thường thường là cảnh vui mừng khi người trên đảo gặp lại người quen trong số thuyền nhân mới tới. Đôi khi, chiếc tàu mới đến đã bị hải tặc Thái Lan cướp bóc và hãm hiếp thì người ta chua xót khi trông thấy những người mới đến bước lên bờ trong dáng thiễu nảo, xơ xác và thương cảm nhứt là các phu nữ sau khi trải qua sự vùi dập của bọn thú vật Thái Lan, họ bước khỏi tàu, cúi gầm mặt không nhìn ai. Những phụ nữ đó sẽ được đưa vào bệnh viện Sick Bay trên đảo để khám phụ khoa. Ai không may bị mang thai sẽ được phá để tránh những hệ lụy sau này. Cao Ủy sẽ đưa những người bị cướp bóc hay hãm hiếp qua Thái Lan để chỉ mặt bọn cướp và truy tố chúng ra pháp luật. Nhưng thủ tục này không kết quả bao nhiêu vì những nạn nhân không nhìn ra hung thủ vì thằng nào cũng đen đúa giống nhau. Vả chăng, chính quyền Thái Lan cũng cố ý bênh vực cho công dân của họ.

Một hôm tôi đang ngồi trong văn phòng trường Pháp văn khu F, thì có anh Trà Văn Gởi, dạy Vạn Vật chung trường trung học Vĩnh Bình trước năm 75 bước vào. Anh nói mới tới đảo vài ngày, hôm nay anh nghe thông báo trên loa của trường Pháp Văn trong đó có đọc tên hiệu trưởng là tôi nên anh đến tìm tôi. Tay bắt mặt mừng, sau mười mấy năm không gặp chúng tôi không ngờ lại gặp nhau trong trại tỵ nạn. Anh cho biết hiện anh làm trong ban thông dịch cho Cao Ủy. Anh Gởi có khiếu về Anh Văn nên tuy tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm ban Vạn Vật nhưng thỉnh thoảng được nhờ dạy Anh Văn cho một số lớp đệ nhứt cấp khi thiếu giáo sư Anh Văn. Sau này khi sang trại chuyển tiếp Sungei Besi, anh vẫn làm thông dịch và anh định cư ở North Carolina, Hoa Kỳ. Tôi cũng gặp lại được anh Nguyễn Phú Hùng, tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh, trước đây là trưởng ty kinh tế ở Trà Vinh sau làm phó quận Cầu Ngang, Trà Vinh. Anh làm cho bưu điện ở đảo, ông tiên đem niềm vui cho thuyền nhân ở đây qua các lá thư của gia đình và nhứt là các tấm check gởi từ thân nhân ở hải ngoại.


image004
Người trên đảo đi đón tàu vượt biên mới đến

(Nguồn: Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam)

 

Các giáo sư dạy học ở trường Pháp Văn khu F được cố vấn Odile “trả lương” mỗi tuần bằng một tô bánh canh của vợ chồng anh Tý bán ở chợ của đảo. Gia đình anh Tý đông con lại không có diện gì nên xin học tiếng Pháp để xin định cư bên Pháp. Đó là ngày vui nhứt của chúng tôi vì được ăn ngon không như những bữa cơm thường nhựt nhàm chán với những thực phẩm do trại cung cấp. Ban đầu tôi ở chung với gia đình Tư Lên, sau khi làm hiệu trưởng trường Pháp Văn, tôi về ở chung với một cặp vợ chồng không con và hai cô gái độc thân trong một căn nhà có gác đối diện với trường. Ba người phụ nữ đó thay phiên nấu nướng cho cả nhà ăn. Hai thằng đệ tử của tôi là Ba Tô và Kiệt ở chỗ khác.

Tôi có một đứa em gái tên Phụng, vượt biên đến đảo trước tôi 3 năm, nó đã định cư ở Canada năm 1985. Một hôm tôi thấy tên em tôi trong số giấy tờ về hồ sơ thuyền nhân ở trước đây trên đảo. Vì không có diện gì cả nên em tôi phải ở đảo hai năm mới được định cư. Sau khi tôi bắt liên lạc được với em gái tôi thì cứ khoảng vài tháng thì nó gởi qua cho tôi 100 đô la nên cuộc sống trên đảo của tôi cũng không đến nỗi cực khổ lắm. Thỉnh thoảng, tôi dến quán cà phê Fly Inn nhâm nhi một ly cà phê đá và nghe nhạc vàng  trước 75 mà 11 năm qua ở Việt Nam bị cấm đoán.

Nghe nói chủ quán cà phê này ngày trước ở Việt Nam là một tay buôn lậu ma túy mà CIA đã ghi vào hồ sơ đen. Gia đình ông ta đến đảo từ năm 1979 nhưng không nước nào nhận vì quá khứ đen tối của ông ta. Nghe đồn ông ta có nhiều trương mục trong các ngân hàng Thụy Sĩ và Hoa Kỳ hứa nhận gia đình ông ta định cư ở Mỹ nếu ông ta trao cho Hoa Kỳ số của các trương mục đó nhưng ông ta từ chối. Có lẽ ông ta mang theo nhiều vàng và đã lo lót cho chính quyền Mã Lai địa phương nên mở được quán cà phê lớn nhứt trên đảo tỵ nạn này, Con trai lớn của ông ta tên Dũng là một tay sở khanh, háo sắc với vẻ hào hoa và giàu có đã không buông tha cho những cô gái đẹp nào lên đảo một mình. Bởi mãi mê hái hoa nên cậu ta ở đảo 7 năm rồi mà chẳng nói được một câu tiếng Anh nào. Trái lai, em trai của Dũng chịu khó học hành nên cậu này khá tiếng Anh. Sau này, tôi nghe nói gia đình của ông chủ quán Fly Inn định cư ở Pháp.

image006Quán cà phê Fly Inn

(Nguồn: Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam):

 

Trên đảo, tình cờ tôi lại gặp một người em gái bà con bên nội. Cô ta trước 75, là một cô gái làm trong các bar rượu phục vụ cho lính Mỹ. Sau 75, cô ta hoàn lương lấy một người chồng lớn tuổi hơn cô nhiều và có với người đó một đứa con gái kháu khỉnh độ 5 hay 6 tuổi, Cháu gặp tôi kêu cậu hai nghe thật dễ thương. Ba cháu trước là thủy thủ trên tàu buôn của Pháp. Hai vợ chồng nhờ tôi nói với cố vấn Odile cho gia đình học tiếng Pháp để xin định cư ở Pháp. Trong khi những thuyền nhân khác thì mơ được định cư ở Mỹ, Úc, Canada... thì gia đình này chỉ có ước muốn khiêm nhường là đi Pháp. Cô em họ nhờ tôi dạy kèm thêm tiếng Pháp cho vợ chồng cô. Hai vợ chồng cô có một xe bán bánh mì trên đảo, cô thường biếu tôi một ổ bánh mì thịt cho tôi ăn sáng. Khi gia định cô chuyển trại sang trại chuyển tiếp Sungei Besi để chờ định cư ở Pháp, cô sang xe bánh mì lại cho Thu, con gái chú Phước Lợi. Đến lượt Thu cung cấp miễn phí một ổ bánh mì mỗi sáng cho tôi. Vợ chồng Thu cũng có một đứa con gái nhỏ, ba người định cư ở Phần Lan. Qua đó, Thu gởi về cho tôi một tấm hình cả gia đình chụp mang ba cặp kính đen mà tôi gọi đùa là hình ba con thòi lòi. Tôi còn gặp vợ chồng con của một bác cũng là chủ tiệm may như ba tôi, nhà ở trong chợ Cầu Cống, hai người này có diện đi Úc, Cặp vợ chồng này chưa có con và thường gây gổ với nhau, mỗi lần như vậy là một trong hay đứa tìm tôi để phân xữ. Hai đứa mở một tiệm may trên đảo. Khi tôi chuyển trại, hai đứa may cho tôi một bộ quần áo mới để đi định cư. Tôi cảm động trước những thâm tình bà con và lối xóm trên bước đường vượt thoát tìm tự do của mình.

Tôi còn những thân tình mới ở đảo ngoài hai thằng đệ tử đi chung tàu là Ba Tô và Kiệt như Khoa, hiệu trưởng trường Anh Văn khu D, Tân, hiệu trưởng High School, ba chúng to. Dịp Noel 1986 vầ Tết 1987, ba chúng tôi cùng thầy Tính, dạy ở High School tổ chức party vui chơi với các thầy, cô giáo dạy ở các trường thật vui. Về sau, Khoa định cư ở Montreal, Canada như tôi, Tân đi Úc và Tình đi Mỹ.

Trên đảo có hai chơ: chợ Mã do thân nhân các cảnh sát và giám thị Mã làm chủ các cửa tiệm, chợ Việt do các thuyền nhân có chút ít tiền gởi mua hàng ở đất liền đem về bán sơ sài trên các sạp.


image008Chợ Việt trên đảo

(Nguồn: Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam):

 

Trên đảo còn có một lò làm bánh mì do một gia đình thuyền nhân làm chủ. Các đứa con của họ đều đi học ở trường High School.

Khi một tàu vượt biên đến đảo, sau khi các thuyền nhân trên tàu đó làm thủ tục điều tra tại SB (Special Branch), sau này đổi thành RB (Record Branch) thì khoảng hơn một tháng sau được phái đoàn Mỹ đến phỏng vấn. Các cựu quân nhân, viên chức của VNCH, nhân viên sở Mỹ được nhận cho định cư ở Mỹ chỉ trừ khi họ có thân nhân ở nước khác vì theo quy tắc của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc về Người Tỵ Nạn (HCR) họ phải đoàn tụ với thân nhân của họ. Đó là trường hợp của cá nhân tôi, mặc dù tôi có mang theo bên người chứng chỉ tại ngũ nhưng vì tôi có em gái đã định cư ở Canada nên phái đoàn Mỹ chuyển hồ sơ định cư của tôi cho phái đoàn Canada. Tôi cho đó là định mệnh đã sắp đặt nên cũng không lấy làm buồn. Người ta bảo tôi có thể xin phái đoàn Mỹ tái phỏng vấn nếu nhắn em gái của tôi làm đơn "xù" tôi lấy cớ không khả năng bảo trợ tôi nhưng tôi không làm theo. Còn một diện đặc biệt được Mỹ nhận nữa là diện cô nhi tức là các thuyền nhân dưới 18 tuổi. Do đó có nhiều thanh niên quá tuổi cô nhi nhưng vẫn khai mình dưới 18 tuổi để được đi Mỹ. Thứ tự ưu tiên để các thuyền nhân chọn đi định cư là: Mỹ, Úc, Canada, Pháp và các nước Bắc Âu.

Theo thông lệ, khi một người được chuyển sang trại Sungei Besi, trên đất liền để làm thủ tục định cư thì người đó phải tổ chức một party từ giã bạn bè. Nói là party cho long trọng chứ thật sự chỉ là một bữa tiệc trà bánh ngọt. Mỗi lần có người chuyển trại thì ban thông tin trại cho phát loa bản nhạc Biển Nhớ của Trịnh Công Sơn:

"Ngày mai anh đi,

Biển nhớ tên em gọi về

Gọi hồn liễu rũ lê thê

Gọi bờ cát trắng lê thê"

Những lời ca này làm bịn rịn bước chân người đi và rơi nước mắt kẻ ở lại, nhứt là khi kẻ ra đi và người ở lại là những người đang yêu nhau. Nếu họ can đảm dời ngày đi, ở lại để cùng đi định cư một lúc thì phải làm một thủ tục mà người trên đảo gọi là "ghép blue card", nghĩa là tuyên bố với Cao Ủy họ kết hôn với nhau.

Lâu hay mau gì thì ngày rời đảo cũng sẽ đến với mọi thuyền nhân. Lần lượt vợ chồng cô em họ tôi, rồi thằng Kiệt đi Pháp và gia đinh con. Thu đi Phần Lan. Đến lượt tôi được chuyển trại sang Sungei Besi để làm thủ tục định cư ở Canada. Ba Tô không có diện gì cả nên phải học một khóa huấn nghệ mới được định cư.

Hôm tôi đi, các thầy cô giáo và một số học trò các trưởng ra tận cầu Jetty  tiễn tôi. Thằng Ba Tô là một người rất tình cảm, nó ôm tôi khóc òa khi tôi chuẩn bị bước lên tàu khiến tôi nhớ lại câu cuối của một bài trong quyển Quốc Văn Giáo Khoa Thư: "Cảnh biệt ly sao mà buồn vậy".

Tàu đưa chúng tôi qua trại chuyển tiếp Marang. Ở đây, có những thuyên nhân trên các tàu mới đến những đảo của Mã Lai khác đảo Pulau Bidong được đưa đến trại này. Ngoài ra, những người ở Sungei Besị rớt phỏng vấn cũng được đưa đến đây để chở về Bidong.

Trong trại này, tôi nằm bên cạnh một người xứng danh là một huyền thoại thuyền nhân. Anh này vừa bị "xù" ở Sungei Besi để chờ về Bidong. Anh ta là dân đánh cá ở Trà Vinh, vượt biên sang Bidong, Vì không có diện gì nên anh kẹt ở đảo lâu... Nhớ người yêu còn ở lại Việt Nam nên anh ta lên rừng đóng tàu, lặn ra biển gỡ máy ở chiếc tàu vượt biên bị đục thủng bỏ gần bờ rồi lái về Việt Nam. Đến Việt Nam, amh lên Sài Gòn tìm người yêu thì bị một người quen bắt gặp đi báo công an. Anh ta bị bắt đưa ra Côn Đảo. Ở đây, anh ta đóng bè trở qua Bidong. Có lẽ anh làm các phái đoàn e ngại người giỏi như điệp viên James Bond nên không nước nào nhận anh. Anh này xứng đáng là một người vượt biển táo bạo khác ngoài anh hùng Lý Tống, người đã được tạp chí Reader's Digest kể lại cuộc vượt biên bằng đường bộ không tiền khoáng hậu qua các nước Cao Miên, Thái Lan, Mã Lai để sang Singapore.

Từ Marang, một xe bus đưa.chúng tôi đến trại Sungei Besi ở ngoại ô Kuala Lumpur... Tôi nhìn thấy tấm bảng ghi trên cổng vào trại: "Holding Center Sungei Besi" mà biết rõ thân phận mình là người bị giam giữ vì nhập cảnh trái phép vào Mã Lai.

Vài ngày sau khi tới trại tôi lại được cử làm hiệu trưởng trường Pháp Văn khu B thay thế một chi vừa được chuyển qua trại Baatan, ở Phi Luật Tân học Anh Văn trước khi được định cư ở Mỹ. Khu B này là một khu dành riêng cho những thuyền nhân người Miên. Sở dĩ Cao Ủy tách hai cộng đồng người Miên và người Việt Nam ra vì họ muốn tránh chuyện xung đột chủng tộc. Thuyền nhân người Miên rất thích đi định cư ở Pháp nên đa số xin học trường Pháp, Ở trường Pháp Văn, ngoài tôi là hiệu trưởng còn một người Việt khác làm giáo sư là anh Hưng và hai giáo sư người Miên một nam, một nữ. Học sinh người Miên rất lễ phép với tôi, họ gọi tôi là "lục krụ" (ông thầy)  Nhờ một ít vốn liếng tiếng Miên khi ở Nam Vang năm 1985 nên tôi có thể cắt nghĩa bài cho họ hiểu. Trong khu B, nếu có party gì họ đều mời tôi tới dự. Trong số các thuyền nhân Miên ở đất có vài người gốc Trà Vinh và là cháu của Thạch Thanh Phú, học trò của tôi ở trường công lập Vĩnh Bình.

Lần lượt các bạn tôi như Trà Văn Gởi và Nguyễn Phú Hùng đều chuyển trại sang Sungei Besi. Gởi tiếp tục làm thông dịch cho các phái đoàn và Hùng làm Bưu Điện. Cả hai đều có diện đi Mỹ. Lúc đó ông trưởng ban đại dện trại (các thuyền nhân trong trại thường gọi là "trưởng trại") vừa đi định cư, chúng tôi đề cử thiếu tá Võ lên thay. Thiếu tá Võ tốt nghiệp khóa 19 Võ Bị cùng với Nguyễn Văn Đối, bạn tôi. Anh Võ làm trưởng trại không lâu thì xin từ chức vì buồn việc gia đình: vợ anh đi vượt biên trước anh, định cư ở Canada và đã bỏ anh. Tuy nhiên vợ anh vẫn làm bảo lãnh cho anh đi Canada. Nguyễn Phú Hùng lên thay thế. Phó trại là một anh thiếu úy không quân mà tôi đã gặp ở Marang. Anh và vợ con cùng một số người cùng tàu vừa cặp bến Mã Lai, vậy mà Mỹ đã nhận và chuyển gia đình anh sang đây mau chóng. Trưởng ban an ninh là một đại úy cảnh sát và trưởng ban thông tin là Lâm Thị Ni, học trò cũ của tôi ở trường bán công Trần Trung Tiên, Trà Vinh ngày xưa.

Cố vấn trường Pháp Văn khu B là ông Jacques. Ông ta đi làm thiện nguyện ở trại tỵ nạn để tìm tài liệu soạn luận án tiến sĩ về đề tài "người tỵ nạn trên thế giới". Ông ta là con của một người Pháp ở Sài Gòn, chủ nhà hàng La Cigale ở Đa Kao.. Ông ta học ở lycée Jean Jacques Rousseau đén năm 1975, lúc đó ông ta vừa đúng 18 tuổi. Sau khi Sài Gòn thất thủ, ông ta về Pháp học đại học. Ông ta nói tiếng Việt rất giỏi vì bạn bè ông là người Việt. Ông ta còn biết nói đùa khi hỏi tôi có biết hiệu trà "Thái Đức" không? Tuy nhiên ông theo đúng nguyên tắc là không dùng tiếng Việt với tôi và anh Hưng cũng như với các học sinh người Việt.

Mã Lai là một quốc gia theo đạo Hồi nên cấm người gốc Mã ăn thịt heo. Tuy nhiên hai sắc tộc khác là Hoa và Ấn thì không bị ràng buộc bởi luật này. Thầu nấu ăn trong trại là người gốc Ấn nên ngày nào chúng tôi cũng ăn cà ri gà. Vì người gốc Mã nắm chính quyền nên thuyền nhân trong trại cũng bị cấm ăn thịt heo. Tuy nhiên, tôi có một thằng đệ tử làm an ninh trong trại, mấy bà Tàu sống gần trại muốn bán lén thịt heo cho thuyền nhân phải hối lộ nó nửa ký. Do đó nó có biệt danh là "Chúy Dĩ"  (tiếng Hoa, nghĩa là thịt heo). Nhờ vậy, ngày nào tôi cũng có thịt heo ăn. Nó từ Bidong chuyển sang đây đẻ phỏng vấn đi Mỹ nhưng bị từ chối nên đang chờ tàu trở về Bidong. Nó nhờ tôi xin với cố vấn trường Pháp cho nó đi học tiếng Pháp để xin định cư ở Pháp.

Trường Pháp thường tổ chức chiếu phim tại hội trường của trại. Cố vấn, hiệu trưởng , giáo sư và các học sinh trường Pháp mới được vào xem, còn các thuyền nhân khác đu cột bên ngoài để "xem cọp" (từ ngữ chỉ xem hát trộm, không mua vé). Tôi được xem lại những phim trước 75 nổi tiếng của Pháp như Fanfan La Tulipe, Sissi l' Impératrice, Fantômas...

Thỉnh thoảng tôi được cố vấn cho đi theo các thuyền nhân được Pháp nhận đến tòa đại sứ Pháp ở Kulua Lumpur làm thông dịch cho họ để làm thủ tục nhận vísa đi định cư. Những dịp đó giúp tôi biết thủ đô Mã Lai là một thành phố khá đẹp và sạch sẻ.

Khi trưởng khu C đi định cư, Nguyễn Phú Hùng nhờ tôi về thay thế và để anh Hưng làm hiệu trưởng trường Pháp Văn... Khu C là khu ở của các "chức sắc" trong trại (những người làm trong ban đại diên trại). Tôi và Trà Văn Gởi cùng một số "chức sắc" khác thường tổ chức ăn nhậu trong khu này không quên đặt đàn em canh gác ở cổng vào để báo hiệu khi cảnh sát Mã Lai đi tuần tra.

Tết năm 1988, tôi làm trưởng ban tổ chúc hội chợ Xuân trong trại để gây quỹ cho ban đại diện trại. Thuyền nhân được vui chơi và cờ bạc trong 3 ngày Tết. Tôi cho lập các sòng bài, quây số, tài xỉu. Mọi người trong trại được vui chơi thỏai mái.

Ở trại này tôi lại gặp một vài người quen như Quang con trai của bác Tặng, cũng hành nghề may như ba tôi ở chợ Cầu Cống. Khi còn là sinh viên tôi có dạy kèm Minh, anh của Quang và Tâm, chị của Quang. Quang có vợ và một con. Vợ chồng Quang nấu xôi bán cho các thuyền nhân trong trại.

Ông Jacques mãn hợp đồng làm việc ở Mã Lai về nước chuẩn bị luận án tiến sĩ của ông. Cô Jacqueline vào thay thế. Sau này cô quen với cố vấn phái bộ Canada , lập gia đình với ông ấy và được bảo lãnh sang Canada

Để chuẩn bị làm lại một cuộc đời mới ở Canada, tôi phải học một  khóa "Đời sống Canada ".  Trong phần "Dự định làm nghề gì ở nơi định cư", tôi ghi không cần suy nghĩ::thầy giáo.  Nhưng không bao giờ tôi có dịp hành nghề này!

Giữa tháng 4 năm 1988 tôi có visa định cư ở Canada sau một năm rưỡi ở các trại tỵ nạn Mã Lai. Ngày rời trại, tôi và các thuyền nhân đi định cư ở Canada dược phát mỗi người một ổ bánh mì và một quả trứng luộc. Máy bay quá cảnh ở Singapore, trong khi chờ lên máy bay khác, chúng tôi ngồi ăn bánh mì với trứng luộc một cách ngon lành trước cặp mắt tò mò.của các hành khách khác.

Trên máy bay, tôi ngồi kế bên một người Anh, ông ta cho biết ông là một thương gia đang làm ăn ở Singapore và nay về nước nghỉ ngơi và thăm gia đình. Ông ta gọi cho tôi những thức ăn ngon nhứt trên máy bay. 

Khi máy bay dừng ở Luân Đôn, một nhân viên IOM đến chăm sóc chúng tôi và hướng dẫn chúng tôi ra cổng chuyến bay đi Canada.

Từ Luân Đôn đi Toronto, tôi ngồi gần một hành khách người Canada. Ông ta cho biết. ông là chủ một nông trại và hỏi tôi có muốn về làm việc ở nông trại của ông ta không. Tôi dè dặt về lòng tốt của ông này nên chỉ xin địa chỉ của ông ta và hứa sẽ liên lạc với ông sau.

Tới Toronto, tôi lại phải làm thông dịch cho những người định cư ở thành phố này để làm thủ tục nhập cảnh vào Canada và sau cùng là cho tôi. Tôi là người duy nhứt tiếp tục cuộc hành trình tới Montréal.

Xuống phi trường Dorval, khi ra đến khu vực người đến đón, tôi trông thấy em gái tôi với cái bụng bầu đã to với chồng nó mà tôi nhận ra nhờ đã xem những tấm hình đám cưới của hai đứa gởi qua trại tỵ nạn cho tô, bên cạnh đó là vài người hàng xóm cũ ở Việt Nam.

Rồi đây, tôi sẽ bắt đầu một cuộc sống mới ở thành phố này.

(Còn tiếp)

                                                                   

 

18 Tháng Tám 20171:00 CH(Xem: 20782)
Giọt mưa bám níu gót chân Em qua phố vắng phân vân đi về Dừa tươi mát lạnh đê mê Dù nghiêng che mái tóc thề rối bung.
18 Tháng Tám 201712:51 CH(Xem: 20526)
Chiều nay, ngồi đây ngắm Mây trôi... Nhớ thuở xưa xanh qua mất rồi! Một chút nắng vàng còn sót lại, Khuất núi: Mây, Đời... vẫn thế thôi!
18 Tháng Tám 201712:43 CH(Xem: 22621)
Ai còn nhớ lại tuổi thơ, Đã từng ước muốn mộng mơ rất nhiều. Vui cùng chúng bạn thả diều, Trên đê rong ruổi ngắm chiều hoàng hôn.
18 Tháng Tám 201712:38 CH(Xem: 18625)
Chính vì vì bị đối xử oan ức và bất công nên mới có trường hợp ông Dư Văn Chất, tập hợp đám cựu tù nhân thời ông Cẩn viết lại những trải nghiệm của họ
18 Tháng Tám 201712:27 SA(Xem: 19275)
Đêm nay một ánh trăng chìm Như ai nức nở bên thềm tiếng mưa Và em như dáng thu xưa Về trong nỗi nhớ lúc chưa lạc người !
13 Tháng Tám 20179:44 SA(Xem: 19121)
Chúng ta vừa cùng nhau khảo sát tướng trạng, nguyên nhân, và phương pháp thực hành để giải quyết vấn đề Khổ.
12 Tháng Tám 201710:38 CH(Xem: 20907)
Ta về khép cửa giấu mùa thu Lối nhỏ rêu phong nẻo mịt mù Tơ nhện phủ giăng màu lạnh lẽo Gió hờn thôi chẳng tiếng vi vu
12 Tháng Tám 201710:21 CH(Xem: 19738)
Chút thu phong làm ta se sắt nhớ Khăn choàng vai vương tóc rối bềnh bồng Vẫy tay chào hôm người đi kẻ ở Bay mất rồi khăn tím đẫm chờ mong.
12 Tháng Tám 20178:42 SA(Xem: 21914)
Rủ Gió, đi chơi khắp mọi miền, Ngại ngùng không đi, sợ mất duyên! Lủi thủi một mình trên đồi vắng, Bao giờ có bạn, bước chung thuyền?
12 Tháng Tám 20176:46 SA(Xem: 17847)
Tôi mê nhất là mùi hương bồ kết tỏa ra từ tóc Mẹ. Cứ mỗi lần Mẹ ngồi hong tóc, tôi hay đến gần, xin Mẹ cho nhổ tóc bạc. Thật ra là để ngửi mùi thơm từ mái tóc Mẹ vừa gội thôi,
12 Tháng Tám 20172:20 SA(Xem: 26488)
Buổi tiệc trà do nhóm cựu HĐS. Biên Hòa xưa chúc mừng Đại thọ huynh trưởng Bò lém Trần Văn Lược đã diễn ra trong không khí thân tình, sôi nổi hồn nhiên theo phong cách rất… hướng đạo:
11 Tháng Tám 20172:10 CH(Xem: 18374)
Mặt trời xuống, mặt trời lên Bắt đầu ngày mới sấm rền mưa dông Nghe trong lồng ngực căng phồng Thở bầu khí mát thong dong cuộc đời.
11 Tháng Tám 20171:59 CH(Xem: 23495)
Một hôm về thăm trường cũ Sân trường gió mát lao xao Dãy hàng lang dài hun hút Líu lo tiếng chim rơi vào
11 Tháng Tám 20171:53 CH(Xem: 22515)
Xin Người đừng có hững hờ, Muốn cùng sum họp đành chờ năm sau. Giờ ta cũng đã xa nhau, Nắng vàng đã nhạt chiều mau qua dần.
11 Tháng Tám 20171:42 CH(Xem: 17264)
Huế là sân khấu chính trị của biết bao biến cố lớn nhỏ. Vậy mà nay nó để lại gì? Ai muốn đi tìm di tích đồn Mang Cá thì tìm ở đâu?
05 Tháng Tám 20179:35 CH(Xem: 19256)
Trăng đêm nay... bỗng sáng lạ lùng, Một mình vằng vặc... giữa không trung. Sao mờ lẩn khuất, nơi xa thẳm! Không đến cùng Trăng, tâm sự chung.
05 Tháng Tám 20178:45 CH(Xem: 18233)
Sống trọn vẹn trong tính xác thực và tính khả dĩ của cái Chết sẽ làm cho đời sống sung mãn và tràn đầy ý nghĩa. Hãy sống phút này đây như là phút cuối.
05 Tháng Tám 20177:21 SA(Xem: 10885)
Tháng tám vừa ngang qua ngõ Xôn xao ký ức hiện về Hồn thơ bao ngày trăn trở Đắm chìm mộng mị tỉnh mê
05 Tháng Tám 20177:14 SA(Xem: 22801)
Câu thơ tôi viết gửi em Gùi theo tiếng gió êm đềm gọi nhau Em dài mái tóc hương cau Nghiêng che vành nón qua cầu áo bay
04 Tháng Tám 20174:52 CH(Xem: 19592)
.Thức ăn đơn giản như cái tâm tha thứ, buông xả của bà Hoa. Bà đã ngộ ra sự vi diệu của luân hồi, nhân quả. Bà đang hướng tới những cái nhẹ nhàng, tươi đẹp của đất trời.
04 Tháng Tám 20174:41 CH(Xem: 25713)
Và thế đó khám bệnh xong về bận lắm. Giờ khuya rồi viết lại đọc cho vui. Một ngày phù du, thoắt cái đã qua rồi. Vui hiện tại, ngày mai rồi sẽ tính.
04 Tháng Tám 20171:28 CH(Xem: 20430)
Ta về thăm lại ngôi trường cũ Xanh lớp rong rêu phủ bụi mờ Bạn bè chung lớp còn dăm đứa Bàn tròn kể chuyện những ngày thơ.
04 Tháng Tám 20171:20 CH(Xem: 18530)
Mong chờ Xuân thắm tới mau, Để xem hoa nở đua nhau khoe màu. Cho dân nước Việt bớt sầu, Tự do dân chủ dân giàu mạnh lên.
04 Tháng Tám 20171:14 CH(Xem: 18729)
Người còn sống là nhà sư Thích Trí Quang. Ông có đảm lược chính trị, ông là người có đủ dũng khí làm khuynh đảo cả một chế độ đem lại cái chết thảm khốc cho ba người.
04 Tháng Tám 20175:14 SA(Xem: 25089)
Mùa Hè có những cơn mưa rất lạ Mưa rạt rào, ướt đẫm mảnh vườn khô Sân cỏ cháy, nhờ mưa tuôn tưới mát Mây nhạt nhòa, đang nắng, bất chợt mưa
31 Tháng Bảy 201711:28 SA(Xem: 15958)
Nắng nhẹ vàng như màu mật Vương trên mái tóc lứa đôi Ngang qua…mặt hồ xao động Hương mùa thu lẫn bóng thơ bềnh bồng!
31 Tháng Bảy 201711:20 SA(Xem: 19924)
Tóc rối, môi thơm; lời nồng say có thể Ví như em như lộc biếc của trời Rồi mây hồng theo ngọn gió xa xôi Đưa em đến và ra đi lặng lẽ
29 Tháng Bảy 20178:31 CH(Xem: 10921)
Hãy để cho các Pháp tự vận hành và chiêm nghiệm lại (trong tĩnh lặng) sự vận hành của chúng theo đúng như lời dạy thâm sâu sau đây của Đức Thế Tôn.
28 Tháng Bảy 201710:34 CH(Xem: 18653)
Sáng ngồi bỗng nhớ phương xa Chừng như có nụ cười hoa trổ bừng Thoảng qua ngan ngát nắng hồng Là đôi tà áo em hong mây trời
28 Tháng Bảy 201710:27 CH(Xem: 24805)
Em trở về thăm lại nhánh sông xưa Tội bến nước tủi hờn nghiêng dáng đợi Đám lục bình ngược xuôi không mệt mỏi Còn riêng em nghe nỗi nhớ tràn về
28 Tháng Bảy 20172:06 CH(Xem: 25273)
Dân cao su nhọc nhằn như vậy đó. Da tái xanh vì thiếu ánh mặt trời Giọt mũ trắng tinh đổi bằng những mồ hôi. Thấm thía lắm. Cuộc đời dân phu cạo mũ
28 Tháng Bảy 20171:33 CH(Xem: 19578)
Lời thương muốn ngỏ trăm lần, Gần nhau bối rối tần ngần lặng im. Ra về buồn nát con tim, Trời cao xa tắp biết tìm Nhạn đâu?
28 Tháng Bảy 20171:14 CH(Xem: 14784)
Lâu lắm rồi tôi không trở về quê cũ. Nhưng tôi biết tất cả đã không còn như trong ký ức của tôi. Có lẽ tôi sẽ lạc lõng ngay trên quê hương mình. Ngay nơi mình sinh ra và lớn lên. Nhưng dù gì chăng nữa khi nhìn các cháu nội ngoại ngây thơ đùa giỡn tôi lại thấy hình bóng mình trong đó. Thật đáng yêu và vô cùng thánh thiện hồn nhiên.
28 Tháng Bảy 20171:10 CH(Xem: 8992)
Người còn sống là nhà sư Thích Trí Quang. Ông có đảm lược chính trị, ông là người có đủ dũng khí làm khuynh đảo cả một chế độ đem lại cái chết thảm khốc cho ba người. Chỉ có ông là người biết và nắm giữ nhiều sự thật, bí mật.
27 Tháng Bảy 20179:30 CH(Xem: 25079)
Mắt nặng chĩu, buồn vương vương ngấn lệ Nhìn quê Hương mà thương xót ngậm ngùi Mang cô đơn, dấn thân người viễn xứ Trở về đây nghe chuông đổ “Chiều Tàn”
27 Tháng Bảy 20176:30 CH(Xem: 22958)
Vẫn một mình ...lội mãi thế sao ?! Sáng bên kia , tối qua bên nào ? Rồi có một ngày , bổng dưng thấy: Một góc ao buồn ,rời rã ...thân đau
27 Tháng Bảy 20176:21 CH(Xem: 23274)
Bụi bay mờ mịt con đường Mưa rơi giũ sạch buồn vương gót đời Tôi ngồi nhìn lại bóng tôi Bừng con mắt tỉnh khóc cười thiên thu...
22 Tháng Bảy 201712:42 CH(Xem: 18385)
Và bây giờ ta không còn nhau nữa Người phương xa khắc khoải nhớ bờ gần Đồi cỏ xưa cùng bài ca chan chứa Đã trôi vào vùng xa lắc bâng khuâng.
22 Tháng Bảy 20178:16 SA(Xem: 20087)
Tại phố núi chiều nào mây cũng giăng kéo tình ta Làm viên kẹo sô cô la ngọt trở thành vị đắng Xin hãy giữ dùm anh chiếc nón đôi màu trắng Để một ngày nào lẳng lặng đến tìm nhau...
22 Tháng Bảy 20177:38 SA(Xem: 19043)
Ai đem hương rải hàng cây Mà con phố đẹp sáng này ngẩn ngơ Hương bay ngan ngát ngõ chờ Ngả nghiêng cánh phượng đỏ bờ hạ thương
21 Tháng Bảy 20175:50 CH(Xem: 14311)
Mong rằng kiếp sau nó đầu thai làm người. nếu vẫn không thoát khỏi kiếp chó, xin cho nó được sinh ra ở Nhật, ở Mỹ, hay ở những nước văn minh. Nơi đó họ coi chó như bạn và chó sẽ có những điều kiện chăm sóc thật tốt như con người. Một câu cuối cùng, tôi xin viết để chấm dứt bài này:" XIN ĐỪNG ĂN THỊT CHÓ "
21 Tháng Bảy 20175:34 CH(Xem: 16173)
Chỉ còn lại đây , nổi nhớ nhung ! Nhen nhúm tâm tư ...buồi tương phùng , Những bóng dáng xưa , bao giờ gặp lại ? Trút hết tơ lòng ...hoà bản đàn chung ./.
21 Tháng Bảy 20173:48 CH(Xem: 29168)
Giọt mưa buồn tháng Bảy Thấm ướt mảnh vườn xanh Mưa dạt dào trên lá Giọt nắng vàng lung linh
21 Tháng Bảy 20172:33 CH(Xem: 12382)
có thể họ muốn che dấu kế hoạch mưu sát làm cho ông Lưu Hiểu Ba bị bịnh ung thư gan do tác hại của vi trùng căn bịnh Hepatitis C
21 Tháng Bảy 20171:38 CH(Xem: 13363)
Mừng nhau cuộc sống an khang, Họp nhau ca hát vang vang một trời. Tình Ta bừng sáng tuyệt vời, Hương, Hoa tô điểm cho đời thêm tươi.
21 Tháng Bảy 20171:30 CH(Xem: 10174)
Cứ như ông Từ viết, lúc xảy ra có tiếng nổ, ông ở trong đài và ẩn trong một phòng hoà âm cùng với các Thượng Tọa, Đại Đức. Vậy bằng cách nào, ông có thể nhìn thấy cảnh xe tăng tiến vào với ba tiếng súng lục nổ.
20 Tháng Bảy 201711:26 CH(Xem: 35544)
Lạy Phật Tổ Dẫn lối soi đường. Lời kinh sám hối. Cầu an Chiều nay Tôi đã tụng.
20 Tháng Bảy 20179:20 SA(Xem: 15214)
Mưa rơi giọt ngắn giọt dài Mây trôi dạo khúc bi ai dậm trường Em còn đi giữa gió sương Anh còn rong ruổi muôn phương ấm nồng. Mùa Về Tháng Bảy Mưa Dông Em ngồi trang điểm má hồng cho ai...
15 Tháng Bảy 201711:47 SA(Xem: 34707)
Nghiêp căn, dẫu đến hạn kỳ Bước ra khỏi kiếp còn gì nữa đâu Rời xa cõi tạm phù du Đi về thiên cổ ngàn thu vĩnh hằng.
15 Tháng Bảy 20178:49 SA(Xem: 9258)
Đặng Sỹ đáng lẽ phải đi theo gót chân Ngô Đình Cẩn sớm về bên kia thế giới. Nhưng vì sao ông tránh được bản án tử hình? Chúng ta cùng nhau nhìn lại vụ án Đặng Sỹ.
15 Tháng Bảy 20177:44 SA(Xem: 24421)
Để hồn Bạn sớm siêu sinh, Cầu xin Đức Phât hiển linh đưa đường. Thiên thai chốn ấy nghê thường, Vô ưu thanh thản, chẳng vương bụi trần.
15 Tháng Bảy 20177:15 SA(Xem: 30601)
Con đường tôi về, niềm đau tan tác Đón chào tôi, chập choạng, bước chân hoang Quê Mẹ đó, giờ như manh áo rách Rách tả tơi, vá mãi vẫn điêu tàn…
14 Tháng Bảy 201711:09 CH(Xem: 17220)
Hình thành từ chốn trùng khơi Gió mang mưa bão về nơi đất liền Lặng chờ giông tố nỗi lên Chừng nghe bão rớt qua miền cô đơn...
14 Tháng Bảy 20176:26 CH(Xem: 15384)
Cám ơn anh chị Kiệt & Chung đã cho chúng tôi có một nơi họp mặt đông vui. Nụ cười đôn hậu của hai anh chị đã làm cho buổi tiệc thêm đậm đà tình nghĩa
12 Tháng Bảy 20173:52 CH(Xem: 17578)
Ngày em đến , xôn xao lá xạc xào, Nghe ngập tràn con tim đầy sức sống. Ôm vào lòng , ôi đêm sao huyền diệu, Nỗi nhớ mong , ngập tràn nỗi nhớ mong.
09 Tháng Bảy 20172:12 SA(Xem: 11020)
chiều nay bước nhẹ với thời gian ôi lãng du quay về điêu tàn câu hát vang thầm theo cát bụi tiếng đàn rung nhẹ với tro than sương rơi nương bóng thềm rêu nhạt lá rụng nghiêng vai giọt nắng tràn
09 Tháng Bảy 20171:59 SA(Xem: 9215)
Bài thơ Không Đề Tháng Tư của Nguyễn Lương Vỵ là một bài thơ thâm sâu, thấm đậm một nhận thức dung hòa cả đời và đạo về một biến cố lịch sử ...
08 Tháng Bảy 20179:50 SA(Xem: 15128)
Cám ơn những người Mỹ đã đi ngang qua tôi trong buổi diễn hành với nụ cười, vẫy tay và những tiếng hô "God Bless America" " Happy 4th of July" thật hạnh phúc. Vâng! "God Bless The USA" phải không các bạn?.
08 Tháng Bảy 20179:34 SA(Xem: 15013)
cầm tay em trong dáng đi tha thướt ấp ung, vụng về, anh ngất ngây sung sướng không gian lan toả một mùi hương nàng Tiên ơi, anh thương em lạ thường! bừng mắt dặy...ôi giấc mộng chàng Trương!
08 Tháng Bảy 20172:21 SA(Xem: 9582)
Họp "toàn thế giới" tưng bừng, Đẹp, vui, vĩ đại chưa từng thấy qua. "Tâm" " Tình" chan chứa thiết tha, Không gian xa cách lòng Ta vẫn gần. Dù cho con Tạo xoay vần, Chúng ta luôn sẽ quây quần bên nhau.
08 Tháng Bảy 20172:11 SA(Xem: 9788)
Tôi đã sống trọn vẹn tuổi trẻ và tuổi trưởng thành của tôi giữa hai nền Đệ Nhất và nền Đệ Nhị Công Hòa. Tôi hiểu được phần nào những thành tựu cũng như những thất bại của cả hai.
08 Tháng Bảy 20171:53 SA(Xem: 9334)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức Sao Rơi Trên Biển & Anh Sẽ Về Thăm Em" - Nhạc Nguyên Vũ Giao Linh-Trường Hải & Ngọc Thu... Kiều Oanh thực hiện youtube
06 Tháng Bảy 20173:53 CH(Xem: 23807)
Đêm không là biển đen, Ngày không là bão nổi. Như cánh đồng mát rượi. Tâm ta thật an vui.
06 Tháng Bảy 20177:54 SA(Xem: 17466)
Chênh chếch Trăng khuya ...khuất xa mờ, Lạnh lùng nửa bóng, đứng bơ vơ Nhớ thuở Trăng tròn ... thời son trẻ . Trăng nào đẹp hơn, Trăng tuổi thơ.
04 Tháng Bảy 20176:59 SA(Xem: 24462)
Tháng Năm hái chút nắng vừa lên. Kết hoa dâng cúng đấng Cha hiền Mừng ngày Phật Đản. Con quỳ xuống Niệm Phật cầu an khắp mọi miền.
03 Tháng Bảy 20171:44 SA(Xem: 10230)
Ta lại về đây ngày họp mặt. Nhà chị Chung rộn rã vui thay. Mỗi một năm ta lại có một ngày. Tiền hội ngộ, bạn bè cùng tâm sự.
03 Tháng Bảy 20171:00 SA(Xem: 18034)
Chúng ta cũng vậy, tuổi cũng không còn trẻ. Mỗi năm chỉ có một ngày để họp mặt. Được nhìn lại thầy, cô xưa. Được gặp gỡ bạn bè, được chụp hình chung và cùng nhau tâm sự.
02 Tháng Bảy 20179:58 CH(Xem: 21063)
Trở về mái nhà xưa? Đó là một hình ảnh ẩn dụ, vừa lãng mạn vừa mang ý nghĩa tâm linh. Bước lãng du nào rốt ráo cũng cần một nơi chốn để trở về!
02 Tháng Bảy 20178:37 CH(Xem: 21048)
có ai về xứ Bưởi quê tôi xin cho nhắn gửi một đôi lời nghìn trùng xa cách buồn viễn xứ chạnh nhớ Đồng Nai,nhớ một người
02 Tháng Bảy 201712:25 CH(Xem: 22645)
Nhạt nhòa mắt lệ chiều mưa, Bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa tràn về. Mưa còn rả rích lê thê, Hai mùa mưa nắng nhớ quê hương mình.
02 Tháng Bảy 201711:30 SA(Xem: 19387)
Nếu người Mỹ không đổ quân ồ ạt vào Việt Nam với tổn phi rất cao về sinh mạng và tiền bạc, liệu người Mỹ có bỏ cuộc và bỏ rơi Việt Nam hay không?
02 Tháng Bảy 20178:27 SA(Xem: 19438)
Cầm tay tháng bảy mà thương Bàn giao chuyển hướng Hạ nhường Thu sang Mông mênh thu tím lá vàng Hàng cây rũ bóng gió ngàn lũng sâu.
01 Tháng Bảy 20171:16 SA(Xem: 24277)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức: KỶ NIỆM NÀO BUỒN - GIÂY PHÚT TẠ TỬ - Hoàng Oanh trình bày Kiều Oanh thực hiện youtube
01 Tháng Bảy 201712:52 SA(Xem: 17455)
Ánh nắng chiều yếu dần. Đưa mẹ vào giường bệnh. Con hôn mẹ để chào Còn bao ngày bên nhau. Mẹ ơi! Con đã khóc. Hoàng hôn đà buông xuống
30 Tháng Sáu 20171:42 SA(Xem: 21133)
Lá sân trừơng ...chào bước tương lai , Luôn ủ mầm xanh , qua tháng ngày . Sẽ có lần buồn...rơi theo gió , Em rời trường ...áo trắng thôi bay !
26 Tháng Sáu 20171:50 SA(Xem: 18555)
Mai vàng trên vai vẫn chan màu rực rỡ Dáng oai hùng vẫn nhịp bước hiên ngang Ai gieo chi cảnh tan tác bàng hoàng? Để tháng sáu tơ sầu giăng lãng đãng!
26 Tháng Sáu 20171:40 SA(Xem: 20563)
Chiếc xe lam ngày xưa, nhớ thương nhiều lắm. Dẫu chẳng đẹp, chẳng sang. Nhưng ấm áp tình quê Biên hòa -Long Thành những cuối tuần đi về
26 Tháng Sáu 20171:39 SA(Xem: 20198)
Mùa mưa đã đến hôm rày Em đi bao đoạn đường dài nắng mưa Tôi ngồi đếm giọt mưa thưa Gói tròn kỷ niệm bao mùa xa nhau.
26 Tháng Sáu 201712:44 SA(Xem: 21012)
Thầy, Cô, bạn hữu xa rời, Tóc xanh dần bạc nhớ thời còn thơ. Hè về sống lại giấc mơ, Gặp nhau để bớt bơ vơ phận mình.
25 Tháng Sáu 201711:28 CH(Xem: 18965)
Viết tới đây, tôi lại nghĩ đến loài chim tu hú. Chúng không thèm làm tổ. Chỉ tìm những tổ có sẳn để đẻ vào.
24 Tháng Sáu 201710:16 SA(Xem: 18421)
Cho đến nay, sau hơn nửa thế kỷ, nhiều người vẫn đánh giá sai lầm về công tác của Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung của ông Cẩn
18 Tháng Sáu 20179:56 SA(Xem: 30902)
Cha ơi, sinh tử vô thường Con xin Cha chớ vấn vương, nặng lòng Nhớ Cha con vẫn cầu mong Linh hồn siêu thoát non Bồng, cảnh Tiên.
17 Tháng Sáu 20171:49 SA(Xem: 15086)
Nếu ba ra đi, hãy chăm sóc và yêu kính mẹ con . Người đàn bà đã dâng hiến cả đời vì cha con chúng ta.
17 Tháng Sáu 20171:13 SA(Xem: 19353)
Khúc Hát Cha Yêu" Lý Hải trình bày. Thân chúc quý Hiền Phụ một ngày Father's Day vui mạnh, hạnh phúc. Thâm tâm an lạc. Kiều Oanh
17 Tháng Sáu 201712:52 SA(Xem: 25602)
Bắc Nam cách trở xa xôi, Bờ vai nặng gánh Mẹ tôi ốm gầy. Thương Cha khổ cực đọa đày, Xót đau thấy Mẹ đêm ngày đợi Cha.
17 Tháng Sáu 201712:32 SA(Xem: 19519)
Tôi xin nói thẳng, không có ông Ngô Đình Cẩn và đám Mật vụ của ông, Huế và các vùng phụ cận sẽ không có được những ngay thanh bình, yên ổn.
16 Tháng Sáu 201711:05 CH(Xem: 21823)
Không thể đắm chìm trong khối lãng quên Tự nhủ lòng mình sẽ không cô độc Trong nụ cười dù có ngàn tiếng khóc Ngô Quyền mãi đầy nỗi nhớ tròn vo!
16 Tháng Sáu 20172:04 SA(Xem: 19202)
Ngày ''Lễ Cha'' nghĩ về Ba nhiều lắm Quỳ xuống đây, chân thành để lạy Ba Nguyện hư không ở nơi cõi ta bà Ba chứng giám tấm lòng con gái nhỏ.
16 Tháng Sáu 20171:55 SA(Xem: 22421)
Bài thơ viết thứ một ngàn (1.000) Tặng Cha thương mến vô vàn kính yêu Loay xoay giọt nắng cuối chiều Con ngồi góc phố nặng nhiều âu lo...
16 Tháng Sáu 20171:44 SA(Xem: 18726)
Ừ thì buồn! Giữa đêm dài không ngủ, Mưa nào rơi lất phất suốt đêm hè . Trời tháng sáu mưa buồn như gợi nhớ, Một đêm xưa tiếng ai hát bên thềm.
15 Tháng Sáu 201710:04 CH(Xem: 17976)
Tiếc vì lúc ấy ta là hạt bụi Nên núi đồi xưa chỉ thấy qua hình Tiếc vì bây giờ rừng dần tàn lụi Suối nhớ nguồn nên cúi mặt làm thinh.
15 Tháng Sáu 20171:09 SA(Xem: 25265)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức: "Mùa Hoa Phượng Vĩ & Những Con Đường Có Hàng Phượng Tím" (Thanh Tuyền & Hiếu Phương trình bày Kiều Oanh thực hiện youtube
04 Tháng Sáu 201712:40 CH(Xem: 20621)
Về một thuở đi trong mưa tháng sáu Chiếc dù che chung chợt ngắn đường về Xòe tay ra đón mưa trên vai áo Giờ tháng sáu xa,xa ngút não nề.
04 Tháng Sáu 201712:38 CH(Xem: 19943)
Hè về bên này không có tiếng ve. Cũng không có phượng hồng rực rỡ Chỉ có trong tôi một niềm nhung nhớ. Hè của ngày xưa, một thuở ngây thơ
04 Tháng Sáu 201712:29 CH(Xem: 22798)
Người về ... Đà lạt nhượm tơ sầu ! Đêm buồn ... sương tỏa suốt canh thâu ! Thông buồn ... rũ lá không reo nữa ! Tiễn Nàng về ... tận mãi đâu đâu ...!
04 Tháng Sáu 20174:47 SA(Xem: 20681)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức: TÌNH KHÚC THÁNG SÁU-- Ngô Thụy Miên- Kim Anh hát CHIỀU MƯA CÔNG VIÊN --Y Vân - Mỹ Thể hát Kiều Oanh thực hiện youtube
04 Tháng Sáu 20174:44 SA(Xem: 19876)
Các Anh Hùng đã quên mình, Bỏ thân vì nước, an bình cho dân. Mỗi năm dần cuối mùa Xuân, Hàng hàng lớp lớp dân quân cùng về.
04 Tháng Sáu 20174:32 SA(Xem: 20297)
Nó là Những hoạt động của ông Ngô Đình Cẩn là hoạt động tinh báo, phản tình báo không nằm trong khuôn khổ của tổ chức hành chánh. những hoạt động bí mật.
03 Tháng Sáu 20176:50 SA(Xem: 18157)
Người rằng: Lão giã an chi Lời xưa, sách cũ đã ghi rõ ràng Hỏi sao trong cõi trần gian Lão nô lại phải rộn ràng thế kia
02 Tháng Sáu 20173:17 CH(Xem: 22178)
Chim Ô Thước đã bắt cầu rất sơm Và mưa ngâu cũng lãng đãng quay về Sao người còn ở mãi chốn sơn khê Cho thương nhớ rơi đầy cầu hẹn ước