Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Dòng Văn Học mang dấu Chúa (P2)

03 Tháng Mười Một 201612:56 CH(Xem: 17838)
GS. Nguyễn Văn Lục - Dòng Văn Học mang dấu Chúa (P2)
Dòng Văn Học mang dấu Chúa (P2)

petrus-kyPhải nhìn nhận trước 1975, không ai nghe nói xa gần đến một dòng văn học mang dấu Chúa. Người ta chỉ được biết đến một phần nhỏ và hiếm hoi được đăng trên Tập San Sử Địa miền Nam.

Làm sáng tỏ thêm dòng văn học mang dấu Chúa

Đó là những bản dịch các Lettres édifiantes et curieuses của các thừa sai Ba Lê viết liên quan đến nhà Tây Sơn của bà bà Đặng Phương Nghi dịch ra tiếng Việt. (Đặng Phương Nghi, “Triều đại Quang Trung dưới mắt các nhà truyền giáo Tây Phương”, số 13, tháng 1,2,3, 1969).

Lettres édifiantes et curieuses, Tập iV. Nguồn:  Gallica - Bibliothèque nationale de France

Lettres édifiantes et curieuses, Tập iV. Nguồn: Gallica – Bibliothèque nationale de France

Thật ra, có nhiều tập Lettres édifiantes et curieuses. Riêng về Việt Nam có ba tập VI, VII và VIII. Tập VI, 510 trang, xuất bản năm 1821, tập VII, 419 trang, Paris 1823, tập VIII 448 trang, 1823. Nội dung ba tập đều là thư của các thừa sai gửi về cho Bề trên, bạn bè và gia đình vào thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.

Thật rất tiếc, cho đến nay, giới nhà đạo cũng ít quan tâm cho đủ về mức độ giá trị lịch sử, tính cách nhân chứng tại chỗ và sự trung thực của những lá thư này và mong rằng nó được dịch ra tiếng Việt để người đọc tiếng Việt hiểu được hiện trạng giáo hội, mục đích truyền giáo và đối tượng được truyền giáo, nhất là hoàn cảnh giáo dân nghèo, thái độ chính trị của họ ở các vùng quê trong giai đoạn Tây Sơn-Nguyễn Ánh như thế nào.

Đó là sự quên lãng thứ nhất.

Sự quên lãng thứ hai là các giáo phận miền Nam trước 1975 cũng chưa quan tâm cho đủ đến tác phẩm nhà đạo đã xuất bản.

Riêng Thanh Lãng, ngay từ 1957-1958 đã có công giới thiệu mảng văn học ấy qua việc sao chụp nguyên văn “Sách sổ sang” của |Philiphê Bỉnh. Nhưng mãi đến năm 1968 mới được Viện Đại Học Đà Lạt cho xuất bản. Về điểm này, Nguyễn văn Trung (Nguyễn Văn Trung) đã đưa ra nhận xét :

“Nói chung tiếng nói của Thanh Lãng từ 1955 đến 1975 hầu như tiếng kêu trong sa mạc. Trớ trểu thay, ngay cả trong giới trí thức và giáo phẩm công giáo cũng làm ngơ coi như không biết đến. Chỉ sau 1975, những công trình của nhóm Thanh Lãng mới được đón nhận một cách trân trọng qua đề nghị hợp tác với tổ ngôn ngữ viện Khoa Học Xã Hội miền Nam.”

(Nguyễn Văn Trung, “Nhận Định X, trong nước, ngoài nước 1994-1998”, NXB Nam Sơn 1999, trang 88.)

Thật vậy, chữ dòng văn học mang dấu Chúa hầu như chỉ được nghe nói tới sau 1975 trong bối cảnh sách vở, tài liệu phải nộp cho chính quyền mới. Thư viện của tòa giám mục, các nhà xứ, nhất là nhà in Tân Định (ra đời từ 1864 hoạt động đến 1975) đều ở trong tình trạng hoang tàn.
Nhà in Tân Định là một trong những nhà in ra đời sớm nhất vẫn hoạt động đều đặn cho đến 1975. Các máy in, dù cũ cũng có thể sau này để trong Bảo Tàng viện đã bị tháo gỡ bán vật liệu phế thải. Các đồ dùng, máy nóc, nhất là tài liệu sách báo cũ hầu như bị tiêu tán cả.

Cũng theo Nguyễn Văn Trung, người ta biết rằng nhà in Tân Định là một trong những cơ sở xuất bản quan trọng của giáo hội Thiên Chúa giáo bên cạnh các cơ sở của Nhà Chung Phú Nhai, Kẻ Sở thuộc miền Bắc, nhà in Quy Nhơn, nhà in Nazareth ở Hồng Kông. Tính đến 1922, Nhà in Tân Định in được 241 tựa sách đủ loại như sách dạy Quốc ngữ, sách kinh thánh, sách giảng dạy lẽ đạo, sách dạy suy gẫm, vãn ca, hạnh thánh. (Tóm lược Nguyễn Văn Trung, ibid., tr 132).

Tuy nhiên, chẳng khác gì con người, sách vở cũng có chân lo ẩn trốn và tháo chạy mà vì thế mà ngày hôm nay, chúng ta còn có được một số tài liệu hiếm quý còn giữ được. Đó là trường hợp những “Sấm Truyền Ca” của Lữ Y Đoan, truyện “thầy Lazarô Phiền” của Nguyễn Trọng Quản, con rể Trương Vĩnh Ký.

Nguồn: OntheNet

Nguồn: OntheNet

Tuy nhiên, cần ghi nhận, mảng văn học mang dấu Chúa chỉ là một mảnh trong dòng văn học Việt Nam nói chung. Nếu chúng ta chấp nhận dòng văn học Hán-Nôm cũng thuộc dòng Văn Học Việt Nam thì đã có đến 4.038 tựa sách, trong đó có 600 tác phẩm liên quan đến tôn giáo. (Trần Nghĩa, “90 năm nghiên cứu về văn hóa lịch sử Việt Nam”. 90 ans de recherches sur la culture et l’histoire du Vietnam. Nhà XBKHXH, École francaise d’Extrême-Orient, Hanoi, 1995, tr 141).

Nó chưa cho phép nói đến một sự thay thế dòng văn học Hán-Nôm hay một dòng văn học chữ Quốc ngữ hoàn chỉnh. Mặc dầu có một sự khác biệt sâu xa giữa dòng Văn Học Hán Nôm và dòng văn học chữ Quốc ngữ.

Các nhà nho trong dòng văn học Hán Nôm chỉ chú trọng tới lý thuyết, viện dẫn Tứ Thư Ngũ Kinh, viện dẫn người xưa bên Tàu, trau chuốt gọt đẽo câu cú, niêm luật, xa vời thực tế và đôi khi tỏ ra thiếu thức thời và chậm lụt. Công việc làm văn chương như một thứ thưởng ngoạn khó tính, dành riêng cho một số người, như một thứ chơi chữ.

Dòng văn học mang dấu Chúa với chữ quốc ngữ đi sát thực tế, thường chú trọng tới sinh hoạt đời thường, ghi chép, mô tả truyện dân gian từ việc phong tục, ăn ở, làm ăn, tôn giáo bằng thứ tiêng Việt nôm na, bình dân. Câu chữ chỉ là phương tiện chuyên chở sự việc mà không phải là cứu cánh.

Chẳng hạn, trong cuốn “Sách sổ sang” của Lm Bỉnh, ông chỉ nói tới việc mua bán, giá cả, đi chợ, việc nấu bếp, việc ăn uống, nhận xét về lối sống của người Tây Phương từ cách ăn mặc, cách làm ăn sinh sống, cách xây dựng kiến trúc nhà cửa, cách giao thông chuyên chở đi lại, nếp sống văn minh xứ người so với nếp sống còn lạc hậu của xứ ta.

Hầu hết đó là thứ ngôn ngữ nói đồng thời cũng là thứ ngôn ngữ viết. Nói sao viết vậy. Nó thể hiện qua tuồng, truyện, văn vè, kinh sách của nhà đạo. Ngay cả kinh thánh cũng được dân gian hóa, bình dân hóa như trong “Sấm Truyền ca” của Lữ Y Đoan, 1670 như đã trình bày ở trên. Sau này, trong phần viết về tờ Nam Kỳ Điạ Phận, người ta cũng bắt gặp tính cách thực tiễn của tờ báo đem lại cho quảng đại quần chúng.

Có thể nói, nó như một đặc sản của một lối văn nhà đạo như ở trong Nam. Sau này, những người như Phạm Quỳnh cho là thứ ngôn ngữ văn chương thô lậu. Nhận xét của ông Trần Duy Nhất:

“Tại sao mà sự quốc dân giáo dục không có tiến bộ. Theo tác giả thì phần đông cho học quốc ngữ là vô dụng.. Họ nói, học làm quái gì chữ cò quăm, mách qué ấy. Chữ thánh hiền nào lại có chữ thánh thế. Thánh nào lại dạy nhảm nhí những con cua, con ốc. Đến đàn bà, trẻ con cũng thừa biết nữa là.”

(Nguyễn Thị Chân Quỳnh, “Lối xưa xe ngựa” trích tạp chí “Nam Phong số 47”, tháng 5-1921, tr 386-405.)

Tôi khẳng định chữ mang dấu Chúa là một chuẩn mực trung thực nhất về thực trạng chữ Quốc ngữ thế kỷ 17, 18, 19.

Sau này có vị linh mục thuộc địa phận Kon Tum, Lm GoanKim Nguyễn Hoàng Sơn có một bài viết công phu gọi giai đoạn khởi đầu đó là “Một nền văn học công giáo bằng chữ Quốc Ngữ”.

Tác giả đã dẫn giáo sư Trần văn Toàn trong bài “Chữ Quốc ngữ và chữ Nôm-Tự vị Taberd và di sản văn hóa Việt Nam” và nhất là tác giả Võ Long Tê trong “Lịch sử văn học công giáo Việt Nam”, cuốn I, của nhà xuất bản Tư Duy, Sài Gòn trước 1965, tr, 236, cũng như như Phạm Đình Khiêm hoặc viện dẫn buổi Hội Thảo mới đây nhất, Hội thảo Khoa Học, “Bình Định với chữ Quốc ngữ” ngày 12-13/1/2016.

Bấy nhiêu viện dẫn tác giả, viện dẫn tác phẩm như “Phép Giảng Tám ngày của A. De Rhodes” hay “Tự vị Viêt-Latinh” do giám mục Taberd biên soạn cho in bên Ấn Độ năm 1838 vẫn không đủ thuyết phục để có thể nói tới một nền văn học Thiên Chúa giáo thời A. De Rhodes?

Điểm thứ hai, chúng tôi cũng không thấy cần thiết phải liệt kê trích dẫn đầy đủ các tác phẩm của nhiều tác giả khác như của cụ Sáu Trần Lục cũng như của giám mục Hồ Ngọc Cẩn, giám mục Nguyễn Bá Tòng được coi như có những tác dụng riêng cho nhà đạo mà chỉ chú trọng tới những tác phẩm như cột mốc đánh dấu một thời kỳ phát triển chữ Quốc ngữ mà thôi.

Chẳng hạn nói tới cuốn “Đại Nam Quốc Âm tự vị” của Huình-Tịnh Paulus Của với 7.537 giải thích chữ, thành ngữ và tục ngữ của nước ta. Công ấy lớn lắm. Và công ấy cũng nằm trong khuôn khổ dòng văn học mang dấu Chúa.

Nguồn: TVQG Việt Nam

Nguồn: TVQG Việt Nam

Dòng văn học mang dấu Chúa nói chung nó còn quê mùa, cục mịch lắm. Nó như ở dạng thô chưa được mài dũa, gọt đẽo. Nó chưa tới cái mức để có thể được gọi là văn chương, thơ phú. Đã thế, các nhà nho, các nhà yêu nước thường nghi ngờ đánh giá thấp vai trò thông tin và truyền thông của nó. Có thể nói, trong cả hơn 200 năm, nó vẫn chưa dám bước ra khỏi mái chuông giáo đường. Đã thế, nó lại ít được các vị lãnh đạo Thiên Chúa giáo ở Việt Nam dòm ngó tới.

Phần lớn các sách báo, tài liệu ấy đều nằm chết trong các thư viện tòa giám mục từ cả thế kỷ nay.

Nhờ có cuộc đổi đời năm 1975, do bị ruồng bắt mà chúng may mắn được một số người quan tâm đến văn hóa lưu tâm tới và có dịp giới thiệu chúng với công chúng.

Ngay cả những cố gắng vượt ngưỡng với chuyện của “Thầy Lazarô Phiền” (1887) của Nguyễn Trọng Quản, nguyên bản là của thư viện Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Trung giới thiệu. Ông Nguyễn Trọng Quản lấy con gái trương Vĩnh Ký là bà Trương Thị Tự. Truyện được viết theo lối viết truyện của Tây Phương sớm hơn cả cũng ít ai biết tới nên mới có chuyện tiểu thuyết Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc Phách được coi là tiểu thuyết đầu tiên ở nước ta. Nói chi đến “Tuồng cha Minh” (1881) xuất hiện trước cả vở kịch Chén thuốc độc (1921) gần nửa thế kỷ. Rồi “Hồi ký của Trương Vĩnh Ký” (1876) và “Hồi ký của Michel Tình” (1910) cũng sớm sủa hơn cả. Cuốn “Đại Nam Việt Quấc triều sử ký” không đề tên tác giả(1), một trong những cuốn sử đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ theo lối biên niên ngoại sử. Sau này đã được các linh mục ở nhà thờ Tân Định biên soạn lại và cho in năm 1879 là cuốn sử viết bằng chữ Quốc ngữ đi trước cả bộ Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim (1949). Vậy mà cuốn sử vẫn bị đánh giá là ngoại sử vì không phải là thứ sử chính thức do vua quan nhà Nguyễn biên soạn. Cuốn sử này cũng vẫn bị chìm lặng trong sự quên lãng của giới sử gia. Tôi chưa thấy một ai trích dẫn nguồn từ cuốn sử này mặc dầu nó cung cấp nhiều dữ kiện sử mang tính đặc thù, mới mẻ nhất là ở thời kỳ nội chiến Trịnh-Nguyễn.

Dòng văn học mang dấu Chúa vẫn chưa có cơ hội bứt đi

Nói một cách khiêm tốn, dòng văn học ấy chỉ là những viên gạch lót đường. Và nói một cách chủ quan, nhiều bộ môn của dòng văn học ấy như sử ký, tuồng, truyện vẫn là một mảng văn học quốc ngữ bị bỏ quên. Lý do bị bỏ quên do vì kỹ thuật nhà in chưa có, việc phổ biến hạn chế, đôi khi chỉ là viết tay chép lại.

Đã thế, chính những thức giả Thiên Chúa giáo như Trương Vĩnh Ký, Huình Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản, Philiphê Bỉnh, Trần Chánh Chiếu, Michel Tình đều còn mang nặng tinh thần Nho giáo, chưa thoát ra khỏi ảnh hưởng của nho học.

Nói cho đúng ra, cố gắng của họ là tìm hiểu Kitô giáo trong tinh thần nho học.

Tuy nhiên, dù vậy, về một số mặt, người đọc vẫn không thể chối bỏ vai trò tiên phong về việc truyền bá chữ quốc ngữ của Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của như chúng ta thấy sau này. Trương Vĩnh Ký chẳng những có vai trò tiên phong mà còn đi trước thời đại trong nhiều lĩnh vực như ngôn ngữ học, sử học, v.v.. Hervé Bernard, một tác giả Pháp, chuyên sưu tầm và tự xuất bản về những tài liệu liên quan đến quân đội Pháp, đánh giá Trương Vĩnh Ký khi ông là thông dịch viên cho Pháp – đi cùng nhưng không thuộc đoàn Sứ giả Phan Thanh Giản sang Pháp năm 1863 – là “un Savant grand lettré, unique au monde” (Một nhà trí thức, học giả độc nhất trên thế giới)! Còn có lời khen tụng nào hơn!

page35Một đời người như Trương Vĩnh Ký, trong thời đại mà sự hiểu biết về văn hóa Tây Phương còn sơ sài, vậy mà ông đã để lại 141 tác phẩm đủ loại cho đời sau, sự đánh giá thật không dễ cho bất cứ ai.

Người đời sau có quyền nghĩ thế này thế kia về Trương Vĩnh Ký, nhưng người đương thời thường đánh giá cao về ông. Đạo Cao Đài đặt Trương Vĩnh Ký chung chỗ ngồi của một Victor Hugo, Lý Thái Bạch.

Tờ báo Nam Kỳ các số báo liên tiếp 47-48-49-50 năm 1898 đều đăng tải các bài văn ca tụng hoặc khóc quan Đốc Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký. Đến số 49 ngày 29 tháng 9, năm 1898 đã phải ra thông cáo:

“Kính cáo quốc viên có mua nhựt trình Nam Kỳ đặng rõ, xin các quốc viên đừng có gởi những văn tặng ông Trương Sĩ Tải tới nữa bởi vì trong một tờ nhựt trình như tờ này dẫu có muốn cho lắm, cũng không đem được những bài dẫn một tích như vậy hoài.”

(Nguyễn văn Trung, “Thế kỷ XXI Nhìn về Trương Vĩnh Ký. Một số tác giả. Vụ dựng tượng Trương Vĩnh Ký”, nxb Văn Hóa, Saigon, 2006, trang 224-225.)

Trong khi đó, người đời nay như tác giả Nguyên Vũ (tên thật là Vũ Ngự Chiêu) đã phê phán Trương Vĩnh Ký đủ điều từ thái độ chính trị đến khả năng ngôn ngữ học, sử học và văn phạm của Trương Vĩnh Ký. Bài biên khảo của Nguyên Vũ chứa đầy sự thiên lệch và chê trách một cách bất công đối với Trương Vĩnh Ký. Nó làm nổi bật cho thấy một thái độ thù địch đối với những người làm việc cho Tây như Trương Vĩnh Ký, Trần Lục, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Khả trong khi có hàng trăm, hàng ngàn người khác cũng làm việc cho Tây đã không đả động tới? Đó là những đánh đánh giá thiên lệch và thiếu công bằng.

(Nguyên Vũ, “Góp phần nghiên cứu về Trương Vĩnh Ký (1837-1898)”, Houston 11-2000 – Việt Nam 1-2005 – Houston 2-2010, © 2002, 2010 by Chieu N. Vu. All Rights Reserved)

Những con người như Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký, giữa cái việc đi làm cho Pháp và việc làm văn hóa, thì cái sau vượt xa hơn cái trước đến độ rất nhiều người khác chỉ coi các ông là những người đóng góp lớn lao cho dòng văn học mang dấu Chúa và văn học nói chung của Việt Nam.

Còn nếu nói một cách cục mịch như Vương Hồng Sển thì:

“Nhờ thiên tư dĩnh ngộ dĩnh ngộ làm vậy, nên ông ngày sau dễ trở nên một nhà tân học, biết trên mười thứ ngoại ngữ, hơn nữa đúng vào địa vị toàn cầu bác học thập bát thông thái gia (encyclopédiste) (tài liệu ghi trong báo : Le biographie : năm 1873- 1874) ngang hàng với các bác học đại danh trong toàn cầu thuở ấy. Ông dư sức bay nhẩy trong hội phong vân, ông gặp nhiều cơ hội hiếm có, ông có nhân duyên lạ lùng gần vua (Đồng Khánh), gần vị cầm đầu vận mạng Đông Dương(Paul Bert) nhưng ông vẫn là ông, trước sau là một học giả nghèo và đến chết còn thiếu nợ, bản lĩnh của ông là thế, con người Vĩnh Ký là thế, kẻ hậu sinh chưa sạch cứt mũi, xin đừng toan lấy đá liệng ông.”

(Vương Hồng Sển, “Thế kỷ XXI nhìn về Trương Vĩnh Ký, Thân thế và sự nghiệp của Trương Vĩnh Ký”, nxb Văn Hóa Saigon, 2006, trang 300)

Nhận định về một giai đoạn phát triển chữ Quốc ngữ thời thuộc địa qua báo chí

Dưới triều Nguyễn, nước Đại Nam chưa hề có báo chí.

Thật như vậy. Minh Mạng phải ra lệnh cho các tầu buôn mang về báo tiếng Anh, rồi nhờ mấy nhà truyền giáo ở Huế dịch ra tiếng Việt. Lúc ấy, nói đúng ra nước ta chỉ có ‘mõ’ mà chưa có báo. Vậy mà không một ai có ý tưởng phải ra một tờ báo? Quan chức triều đình đều không một ai nghĩ ra điều đó.

Nhưng, xin nhớ cho, ở giai đoạn này, việc truyền bá chữ quốc ngữ không còn còn là một độc quyền của nhà đạo nữa. Nó mang tầm cỡ quốc gia và được đủ thành phần chính trị khai thác, xử dụng.

Về chính trị, tính cho đến năm 1867 thì cả Nam Kỳ đã lọt vào tay người Pháp. Tự Đức là người trực tiếp ký các hòa ước nhượng cho Pháp nốt các tỉnh Nam Phần. Nhưng cũng chính Tự Đức là người trước đó đã cử đoàn sứ giả Việt Nam sang Paris năm 1863, do|Phan Thanh Giản cầm đầu để xin chuộc lại 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường.

Hervé Bernard trong “La Conquête de l’Indochine”, 2ème partie, trong một tập ảnh sưu tầm riêng của ông có đưa ra hai bức ảnh hiếm hoi còn lưu trữ lại là việc vua Tự Đức lần đầu tiên vào ngày 13/6/1863 tại kinh thành Huế đã đón tiếp phái đoàn của người Pháp do Phó Đô Dốc Louis Bonard cầm đầu. Người ta nhận thấy có những vệ binh triều đình cũng như những người hầu đi chân đất, theo tục lệ trong Triều, họ phải cởi giầy trong hoàng cung để tỏ lòng kính trọng nhà vua. Chỉ trừ có các quan là có quyền mang hài.

Nhà vua đã phê chuẩn hòa ước với Pháp trên một cái bàn bằng vàng. Phía người Pháp có Henri Rieunier trong phái đoàn đô đốc Louis Bonard vào cung điện nhà vua để phê chuẩn hòa ước. Người ta cũng được biết thêm một chi tiết là vua Tự Đức có đến 103 nàng hầu. Trong đó có khoảng chục người lo chuyện ăn uống, tắm rửa, y phục cho nhà vua. Và nếu tính chung, có khoảng 40.000 người phục vụ trong triều đình Huế.

Hình chụp của Adolphe Eugène Disdéri (1863) trước khi Sứ đoàn Phan Thanh Giản xuốn thuyền sang Pháp. Trừ trái: Toàn quyền nam Kỳ: Đề Đốc Pierre de la Grandière, Chánh sứ Phan Thanh Giản, Phó sứ Phạm Phú Thứ, Bồi sứ Nguỵ Khắc Đản.

Hình chụp của Adolphe Eugène Disdéri (1863) trước khi Sứ đoàn Phan Thanh Giản xuống thuyền sang Pháp. Trừ trái: Toàn quyền nam Kỳ: Đề Đốc Pierre de la Grandière, Chánh sứ Phan Thanh Giản, Phó sứ Phạm Phú Thứ, Bồi sứ Nguỵ Khắc Đản.

Tháng 12-1863. Ba ngày trước khi rời Saigòn sang Pháp, phái đoàn Phan Thanh Giản đã được Đề đốc Pierre de la Grandière, Toàn quyền thứ hai ở Nam Kỳ, khoản đãi phái đoàn một bữa ăn tối tại dinh Toàn Quyền Nam Kỳ trước khi lên chiếc tàu hơi nước Européen đến Kinh Suez.

Sau đây là trích dẫn sổ hành trình trên tàu “Européen” ghi lại cuộc bút đàm giữa Phan Thanh Giản và Thuyền trưởng Henri Rieunier (Sĩ quan phụ tá của Louis Bonard, phụ trách những vấn đề thuộc địa  1862-1863, sau này là Đề đốc Bộ trưởng Hải quân Pháp). Chữ viết từ chính tay Phan Thanh Giản như sau:

Quan lớn annam sẽ đi cống sứ vua phalansa, có ý xin vua châm chước một hai đều về việc giao hòa. v[V]ua Annnam cũng muốn cho hai đàng hòa hảo, mà bởi vì mất ba tỉnh thì tiếc lắm.

n[N]ếu vua Phalansa không muốn châm chước một hai đều về việc giao hòa thì vua annam sẽ không bằng lòng.”

thubutpahnthanhgian_

Thủ bút bằng chữ quốc ngữ của Chánh sứ Phan Thanh Giản. Thủ bút tiếng Pháp dịch lại là của Thuyền trưởng Henri Rieunier. Hervé Bernard, ibid. trang 37.

Trong khi đó cũng theo trích dẫn nêu trên. Napoléon III chỉ đáp lại bằng một vài lời xoa dịu:

“L’empereur Napoléon III répondit en quelques paroles, qu’il avait voulu certainement faire bienveillantes, dans la forme autant que dans le fond, sans en exclure la fermeté. En pssant par la bouche de l`interprète, elles prirent la tournure inattendue d`une menace qui terrifia les embassadeurs.”

(Hoàng đế Napoleon III đã đáp lại bằng vài lời mà chắc hẳn nhằm xoa dịu xét cả về mặt hình thức lẫn nội dung mà không thiếu sự cứng rắn. Qua lời thông dịch viên thì những lời nói của Napoléon III — những ai ngăn cản tiến trình của Pháp nhằm đem ánh sáng văn minh đến và bảo vệ kẻ yếu với thiện ý sẽ bị đối sử khắt khe trở thành “phải có sợ” — bất ngờ nó trở thành những lời đe dọa làm các vị đại sứ hoảng sợ theo như nhận xét của Henri Rieunier).

(Hervé Bernard, “Henri Reunier et la conquête de la Cochinchine”, La conquête de la Cochinchine, 2eme partie et fin. Collection privé Hervé Bernard. trang 36-7)

Khi đã chiếm Nam Kỳ, tạm ổn định quân sự và chính trị, do nhu cầu thông tin, người Pháp đã cho xuất bản các tờ báo đầu tiên bằng tiếng Pháp tại Sài gòn như tờ Le Bulletin officiel de l’expedition de la Cochinchine. Rồi có thêm tờ Le Courrier de Saigon. Các tờ này thật ra chỉ có nhiệm vụ thông tin hoặc đăng các thông tư, nghị định của nhà cầm quyền Pháp.

Sự ổn định quân sự và chính trị của người Pháp đã dần dần tạo ra một tình thế đã rồi và từ đó có mặt một lớp trí thức thành thị bản xứ, có tiền, có địa vị xã hội. Tầng lớp này cùng với lớp điền chủ giàu có buôn bán trở thành một thứ trung gian bản xứ, một khuôn mặt mới về chính trị và xã hội của xứ Nam Kỳ.

Tiêu biểu cho hai thành phần xã hội dân sự trên nên do nhu cầu có hai tờ báo đại diện cho các thành phần trên. Đó là các tờ “Nông-cổ Mín-đàm” (1901-1924), đại diện cho giới điền chủ và tờ “Lục tỉnh Tân văn” (1907-1943), đại diện cho lớp tư sản thành thị.

Nguồn: OntheNet

Nguồn: OntheNet

Theo sách “Lịch sử báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1930” của Huỳnh Văn Tòng, xuất bản năm 1973, nxb Trí Đăng đã có hằng trăm tờ báo được xuất bản trong suốt giai đoạn thế chiến thứ I.

Nguồn: OntheNet

Nguồn: OntheNet

Nhận xét của Huỳnh Văn Tòng đặt ra những vấn đề quan trọng là tại sao thời thuộc địa ở Nam Kỳ lại có nhiều báo chí như thế, mặc dầu người Pháp có chế độ kiểm duyệt khá kỹ càng như thể lệ xin phép ra báo và kiểm duyệt nội dung bài vở.

Tuy nhiên, tùy từng thời kỳ, người ta được biết rằng theo đạo luật được ban hành ở Pháp và được áp dụng ở Nam Kỳ ngày 29/7/1881 cho thấy luật báo chí tại Nam Kỳ thuộc địa được nới lỏng hơn dưới chế độ bảo hộ như Trung Kỳ và Bắc Kỳ và luật ấy được quy định một cách rộng rãi như sau:

“Việc ấn hành sách báo ở Nam Kỳ được hoàn toàn tự do, dù báo chữ Pháp hay chữ Việt. Không có điều kiện tiên quyết nào để thành lập một tờ báo ở Nam Kỳ. Tất cả các loại báo sẽ được phát hành không cần sự cho phép trước và không cần ký quỹ tiền, sau khi được công bố đúng theo điều 7.”

(Ngô Hà, “Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh”. Mục Lược sử báo chí thành phố (1865-1945), nxb TP. HCM, 1988, trang 323.)

Điều thứ hai củng cố thêm việc phát triển báo chí vì việc giáo dục và phổ biến chữ quốc ngữ được phổ biến rộng rãi tại các trường trong Nam mà ngay một trường làng cũng có một trường học dạy chữ quốc ngữ. Số người biết chữ trong Nam Kỳ hẳn là trội vượt hơn Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Vì thế, Sau 1955, ở Sài Gòn, người ta không lấy làm lạ là ngay những phu xe đạp xích-lô buổi trưa nhàn nhã cũng có thể vừa nghỉ ngơi, vừa đọc báo thoải mái.

Thứ ba, trước đây chữ Quốc ngữ chỉ là công cụ của nhà đạo trong mục đích rất khiêm tốn và giới hạn như đã trình bày trong phần đầu của bài viết qua “Sấm Truyền ca của Lữ Y Đoàn” và trong “Sách sử sang chép các việc” của lm Philiphê Bỉnh. Sau này tình trạng ấy đã vượt khỏi tầm nhìn và mục đích ban đầu của những người sáng lập ra chữ quốc ngữ.


(còn tiếp)

Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline
25 Tháng Tám 201712:25 CH(Xem: 14105)
Đời người ngắn ngủi vô thường Nói năng cẩn trọng, nhúng nhường mọi khi Đường trần khúc khuỷu, thịnh suy Không ganh đua chớ so bì thiệt hơn
25 Tháng Tám 201712:22 CH(Xem: 26698)
Hoa nào nở cũng héo tàn thôi Rực rỡ hoa xuân ngát đất trời Xuân đi hạ đến mai đào rụng Phượng đỏ hạ đi cũng úa rơi
25 Tháng Tám 201712:17 CH(Xem: 18806)
Mưa... Có lạ gì đâu! Cớ sao ru mãi điệu cung sầu! Đánh thức bao lòng thêm tê tái, Lạnh lùng, rét mướt những đêm thâu.
25 Tháng Tám 201712:15 SA(Xem: 9877)
Sáng nay mặt trời dậy muộn Hơi sương đồi núi mơ màng Heo may vờn qua kẽ lá Mi cong, dường như thu sang Ngọn núi Châu Thới, Bửu Long Lơi lơi…một khúc chuông đồng
24 Tháng Tám 201711:03 CH(Xem: 21085)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức: Liên Khúc Tình Mẹ (Mùa Vu Lan, 2017) MẸ TÔI - Nhị Hà - Hoàng Oanh Trình bày, TÌNH MẸ - Lam Phương - Thanh Thúy trình bày
24 Tháng Tám 201710:49 CH(Xem: 19776)
Ba mươi năm, có lần sau!! Tám năm nắng hạn mưa rào đủ không? Nhìn lên tóc trắng phiêu bồng Cuộc đời dâu bể, tình không đổi dời.
19 Tháng Tám 201710:31 CH(Xem: 22857)
Năm mươi năm trước, chừng như cũ Chuyện những ngày đầu mới gặp nhau Đọc lại bài thơ, thương quá đỗi Bậu ơi! Giờ bậu ở phương nào?
19 Tháng Tám 201710:20 CH(Xem: 25440)
Câu thơ thắp nến lung linh Soi ngôi trường cũ nghĩa tình sáng trong Qua sông nhớ nhịp cầu sông Qua trường là ngọn gió lồng lộng thương
19 Tháng Tám 201710:15 CH(Xem: 19531)
Hoa lá cười trên đường ta gặp gỡ Câu chuyện vui theo đến cả mọi người Nắng vàng chan trên ngọn chuối xanh tươi Tự hỏi Bạn là người từ đâu đến?
19 Tháng Tám 20178:25 CH(Xem: 16878)
Ngôn ngữ thi ca của Nguyễn Lương Vỵ sẽ đưa chúng ta chạm trán điều gì qua ba đoản khúc trong sự liên hoàn hoài niệm của bài thơ Niệm Khúc?
19 Tháng Tám 20172:12 SA(Xem: 22895)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức. Liên khúc nhạc Trần Thiện Thanh: "Chuyện Tình TT Kh. - Hai Sắc Hoa Ti Gôn. Ca sĩ: Như Mai-Ngọc Lan & Trung Chỉnh.... Kiều Oanh thực hiện youtube
18 Tháng Tám 20171:00 CH(Xem: 21099)
Giọt mưa bám níu gót chân Em qua phố vắng phân vân đi về Dừa tươi mát lạnh đê mê Dù nghiêng che mái tóc thề rối bung.
18 Tháng Tám 201712:51 CH(Xem: 20617)
Chiều nay, ngồi đây ngắm Mây trôi... Nhớ thuở xưa xanh qua mất rồi! Một chút nắng vàng còn sót lại, Khuất núi: Mây, Đời... vẫn thế thôi!
18 Tháng Tám 201712:43 CH(Xem: 22731)
Ai còn nhớ lại tuổi thơ, Đã từng ước muốn mộng mơ rất nhiều. Vui cùng chúng bạn thả diều, Trên đê rong ruổi ngắm chiều hoàng hôn.
18 Tháng Tám 201712:38 CH(Xem: 18761)
Chính vì vì bị đối xử oan ức và bất công nên mới có trường hợp ông Dư Văn Chất, tập hợp đám cựu tù nhân thời ông Cẩn viết lại những trải nghiệm của họ
18 Tháng Tám 201712:27 SA(Xem: 19419)
Đêm nay một ánh trăng chìm Như ai nức nở bên thềm tiếng mưa Và em như dáng thu xưa Về trong nỗi nhớ lúc chưa lạc người !
13 Tháng Tám 20179:44 SA(Xem: 19261)
Chúng ta vừa cùng nhau khảo sát tướng trạng, nguyên nhân, và phương pháp thực hành để giải quyết vấn đề Khổ.
12 Tháng Tám 201710:38 CH(Xem: 21030)
Ta về khép cửa giấu mùa thu Lối nhỏ rêu phong nẻo mịt mù Tơ nhện phủ giăng màu lạnh lẽo Gió hờn thôi chẳng tiếng vi vu
12 Tháng Tám 201710:21 CH(Xem: 20010)
Chút thu phong làm ta se sắt nhớ Khăn choàng vai vương tóc rối bềnh bồng Vẫy tay chào hôm người đi kẻ ở Bay mất rồi khăn tím đẫm chờ mong.
12 Tháng Tám 20178:42 SA(Xem: 22025)
Rủ Gió, đi chơi khắp mọi miền, Ngại ngùng không đi, sợ mất duyên! Lủi thủi một mình trên đồi vắng, Bao giờ có bạn, bước chung thuyền?
12 Tháng Tám 20176:46 SA(Xem: 17952)
Tôi mê nhất là mùi hương bồ kết tỏa ra từ tóc Mẹ. Cứ mỗi lần Mẹ ngồi hong tóc, tôi hay đến gần, xin Mẹ cho nhổ tóc bạc. Thật ra là để ngửi mùi thơm từ mái tóc Mẹ vừa gội thôi,
12 Tháng Tám 20172:20 SA(Xem: 26624)
Buổi tiệc trà do nhóm cựu HĐS. Biên Hòa xưa chúc mừng Đại thọ huynh trưởng Bò lém Trần Văn Lược đã diễn ra trong không khí thân tình, sôi nổi hồn nhiên theo phong cách rất… hướng đạo:
11 Tháng Tám 20172:10 CH(Xem: 18529)
Mặt trời xuống, mặt trời lên Bắt đầu ngày mới sấm rền mưa dông Nghe trong lồng ngực căng phồng Thở bầu khí mát thong dong cuộc đời.
11 Tháng Tám 20171:59 CH(Xem: 23605)
Một hôm về thăm trường cũ Sân trường gió mát lao xao Dãy hàng lang dài hun hút Líu lo tiếng chim rơi vào
11 Tháng Tám 20171:53 CH(Xem: 22648)
Xin Người đừng có hững hờ, Muốn cùng sum họp đành chờ năm sau. Giờ ta cũng đã xa nhau, Nắng vàng đã nhạt chiều mau qua dần.
11 Tháng Tám 20171:42 CH(Xem: 17429)
Huế là sân khấu chính trị của biết bao biến cố lớn nhỏ. Vậy mà nay nó để lại gì? Ai muốn đi tìm di tích đồn Mang Cá thì tìm ở đâu?
05 Tháng Tám 20179:35 CH(Xem: 19376)
Trăng đêm nay... bỗng sáng lạ lùng, Một mình vằng vặc... giữa không trung. Sao mờ lẩn khuất, nơi xa thẳm! Không đến cùng Trăng, tâm sự chung.
05 Tháng Tám 20178:45 CH(Xem: 18396)
Sống trọn vẹn trong tính xác thực và tính khả dĩ của cái Chết sẽ làm cho đời sống sung mãn và tràn đầy ý nghĩa. Hãy sống phút này đây như là phút cuối.
05 Tháng Tám 20177:21 SA(Xem: 10937)
Tháng tám vừa ngang qua ngõ Xôn xao ký ức hiện về Hồn thơ bao ngày trăn trở Đắm chìm mộng mị tỉnh mê
05 Tháng Tám 20177:14 SA(Xem: 22901)
Câu thơ tôi viết gửi em Gùi theo tiếng gió êm đềm gọi nhau Em dài mái tóc hương cau Nghiêng che vành nón qua cầu áo bay
04 Tháng Tám 20174:52 CH(Xem: 19734)
.Thức ăn đơn giản như cái tâm tha thứ, buông xả của bà Hoa. Bà đã ngộ ra sự vi diệu của luân hồi, nhân quả. Bà đang hướng tới những cái nhẹ nhàng, tươi đẹp của đất trời.
04 Tháng Tám 20174:41 CH(Xem: 25924)
Và thế đó khám bệnh xong về bận lắm. Giờ khuya rồi viết lại đọc cho vui. Một ngày phù du, thoắt cái đã qua rồi. Vui hiện tại, ngày mai rồi sẽ tính.
04 Tháng Tám 20171:28 CH(Xem: 20531)
Ta về thăm lại ngôi trường cũ Xanh lớp rong rêu phủ bụi mờ Bạn bè chung lớp còn dăm đứa Bàn tròn kể chuyện những ngày thơ.
04 Tháng Tám 20171:20 CH(Xem: 18660)
Mong chờ Xuân thắm tới mau, Để xem hoa nở đua nhau khoe màu. Cho dân nước Việt bớt sầu, Tự do dân chủ dân giàu mạnh lên.
04 Tháng Tám 20171:14 CH(Xem: 18863)
Người còn sống là nhà sư Thích Trí Quang. Ông có đảm lược chính trị, ông là người có đủ dũng khí làm khuynh đảo cả một chế độ đem lại cái chết thảm khốc cho ba người.
04 Tháng Tám 20175:14 SA(Xem: 25356)
Mùa Hè có những cơn mưa rất lạ Mưa rạt rào, ướt đẫm mảnh vườn khô Sân cỏ cháy, nhờ mưa tuôn tưới mát Mây nhạt nhòa, đang nắng, bất chợt mưa
31 Tháng Bảy 201711:28 SA(Xem: 16056)
Nắng nhẹ vàng như màu mật Vương trên mái tóc lứa đôi Ngang qua…mặt hồ xao động Hương mùa thu lẫn bóng thơ bềnh bồng!
31 Tháng Bảy 201711:20 SA(Xem: 20129)
Tóc rối, môi thơm; lời nồng say có thể Ví như em như lộc biếc của trời Rồi mây hồng theo ngọn gió xa xôi Đưa em đến và ra đi lặng lẽ
29 Tháng Bảy 20178:31 CH(Xem: 10977)
Hãy để cho các Pháp tự vận hành và chiêm nghiệm lại (trong tĩnh lặng) sự vận hành của chúng theo đúng như lời dạy thâm sâu sau đây của Đức Thế Tôn.
28 Tháng Bảy 201710:34 CH(Xem: 18858)
Sáng ngồi bỗng nhớ phương xa Chừng như có nụ cười hoa trổ bừng Thoảng qua ngan ngát nắng hồng Là đôi tà áo em hong mây trời
28 Tháng Bảy 201710:27 CH(Xem: 24962)
Em trở về thăm lại nhánh sông xưa Tội bến nước tủi hờn nghiêng dáng đợi Đám lục bình ngược xuôi không mệt mỏi Còn riêng em nghe nỗi nhớ tràn về
28 Tháng Bảy 20172:06 CH(Xem: 25529)
Dân cao su nhọc nhằn như vậy đó. Da tái xanh vì thiếu ánh mặt trời Giọt mũ trắng tinh đổi bằng những mồ hôi. Thấm thía lắm. Cuộc đời dân phu cạo mũ
28 Tháng Bảy 20171:33 CH(Xem: 19693)
Lời thương muốn ngỏ trăm lần, Gần nhau bối rối tần ngần lặng im. Ra về buồn nát con tim, Trời cao xa tắp biết tìm Nhạn đâu?
28 Tháng Bảy 20171:14 CH(Xem: 15031)
Lâu lắm rồi tôi không trở về quê cũ. Nhưng tôi biết tất cả đã không còn như trong ký ức của tôi. Có lẽ tôi sẽ lạc lõng ngay trên quê hương mình. Ngay nơi mình sinh ra và lớn lên. Nhưng dù gì chăng nữa khi nhìn các cháu nội ngoại ngây thơ đùa giỡn tôi lại thấy hình bóng mình trong đó. Thật đáng yêu và vô cùng thánh thiện hồn nhiên.
28 Tháng Bảy 20171:10 CH(Xem: 9056)
Người còn sống là nhà sư Thích Trí Quang. Ông có đảm lược chính trị, ông là người có đủ dũng khí làm khuynh đảo cả một chế độ đem lại cái chết thảm khốc cho ba người. Chỉ có ông là người biết và nắm giữ nhiều sự thật, bí mật.
27 Tháng Bảy 20179:30 CH(Xem: 25230)
Mắt nặng chĩu, buồn vương vương ngấn lệ Nhìn quê Hương mà thương xót ngậm ngùi Mang cô đơn, dấn thân người viễn xứ Trở về đây nghe chuông đổ “Chiều Tàn”
27 Tháng Bảy 20176:30 CH(Xem: 23153)
Vẫn một mình ...lội mãi thế sao ?! Sáng bên kia , tối qua bên nào ? Rồi có một ngày , bổng dưng thấy: Một góc ao buồn ,rời rã ...thân đau
27 Tháng Bảy 20176:21 CH(Xem: 23711)
Bụi bay mờ mịt con đường Mưa rơi giũ sạch buồn vương gót đời Tôi ngồi nhìn lại bóng tôi Bừng con mắt tỉnh khóc cười thiên thu...
22 Tháng Bảy 201712:42 CH(Xem: 18591)
Và bây giờ ta không còn nhau nữa Người phương xa khắc khoải nhớ bờ gần Đồi cỏ xưa cùng bài ca chan chứa Đã trôi vào vùng xa lắc bâng khuâng.
22 Tháng Bảy 20178:16 SA(Xem: 20420)
Tại phố núi chiều nào mây cũng giăng kéo tình ta Làm viên kẹo sô cô la ngọt trở thành vị đắng Xin hãy giữ dùm anh chiếc nón đôi màu trắng Để một ngày nào lẳng lặng đến tìm nhau...
22 Tháng Bảy 20177:38 SA(Xem: 19356)
Ai đem hương rải hàng cây Mà con phố đẹp sáng này ngẩn ngơ Hương bay ngan ngát ngõ chờ Ngả nghiêng cánh phượng đỏ bờ hạ thương
21 Tháng Bảy 20175:50 CH(Xem: 14488)
Mong rằng kiếp sau nó đầu thai làm người. nếu vẫn không thoát khỏi kiếp chó, xin cho nó được sinh ra ở Nhật, ở Mỹ, hay ở những nước văn minh. Nơi đó họ coi chó như bạn và chó sẽ có những điều kiện chăm sóc thật tốt như con người. Một câu cuối cùng, tôi xin viết để chấm dứt bài này:" XIN ĐỪNG ĂN THỊT CHÓ "
21 Tháng Bảy 20175:34 CH(Xem: 16275)
Chỉ còn lại đây , nổi nhớ nhung ! Nhen nhúm tâm tư ...buồi tương phùng , Những bóng dáng xưa , bao giờ gặp lại ? Trút hết tơ lòng ...hoà bản đàn chung ./.
21 Tháng Bảy 20173:48 CH(Xem: 29312)
Giọt mưa buồn tháng Bảy Thấm ướt mảnh vườn xanh Mưa dạt dào trên lá Giọt nắng vàng lung linh
21 Tháng Bảy 20172:33 CH(Xem: 12466)
có thể họ muốn che dấu kế hoạch mưu sát làm cho ông Lưu Hiểu Ba bị bịnh ung thư gan do tác hại của vi trùng căn bịnh Hepatitis C
21 Tháng Bảy 20171:38 CH(Xem: 13455)
Mừng nhau cuộc sống an khang, Họp nhau ca hát vang vang một trời. Tình Ta bừng sáng tuyệt vời, Hương, Hoa tô điểm cho đời thêm tươi.
21 Tháng Bảy 20171:30 CH(Xem: 10287)
Cứ như ông Từ viết, lúc xảy ra có tiếng nổ, ông ở trong đài và ẩn trong một phòng hoà âm cùng với các Thượng Tọa, Đại Đức. Vậy bằng cách nào, ông có thể nhìn thấy cảnh xe tăng tiến vào với ba tiếng súng lục nổ.
20 Tháng Bảy 201711:26 CH(Xem: 35872)
Lạy Phật Tổ Dẫn lối soi đường. Lời kinh sám hối. Cầu an Chiều nay Tôi đã tụng.
20 Tháng Bảy 20179:20 SA(Xem: 15405)
Mưa rơi giọt ngắn giọt dài Mây trôi dạo khúc bi ai dậm trường Em còn đi giữa gió sương Anh còn rong ruổi muôn phương ấm nồng. Mùa Về Tháng Bảy Mưa Dông Em ngồi trang điểm má hồng cho ai...
15 Tháng Bảy 201711:47 SA(Xem: 34875)
Nghiêp căn, dẫu đến hạn kỳ Bước ra khỏi kiếp còn gì nữa đâu Rời xa cõi tạm phù du Đi về thiên cổ ngàn thu vĩnh hằng.
15 Tháng Bảy 20178:49 SA(Xem: 9329)
Đặng Sỹ đáng lẽ phải đi theo gót chân Ngô Đình Cẩn sớm về bên kia thế giới. Nhưng vì sao ông tránh được bản án tử hình? Chúng ta cùng nhau nhìn lại vụ án Đặng Sỹ.
15 Tháng Bảy 20177:44 SA(Xem: 24633)
Để hồn Bạn sớm siêu sinh, Cầu xin Đức Phât hiển linh đưa đường. Thiên thai chốn ấy nghê thường, Vô ưu thanh thản, chẳng vương bụi trần.
15 Tháng Bảy 20177:15 SA(Xem: 30927)
Con đường tôi về, niềm đau tan tác Đón chào tôi, chập choạng, bước chân hoang Quê Mẹ đó, giờ như manh áo rách Rách tả tơi, vá mãi vẫn điêu tàn…
14 Tháng Bảy 201711:09 CH(Xem: 17363)
Hình thành từ chốn trùng khơi Gió mang mưa bão về nơi đất liền Lặng chờ giông tố nỗi lên Chừng nghe bão rớt qua miền cô đơn...
14 Tháng Bảy 20176:26 CH(Xem: 15535)
Cám ơn anh chị Kiệt & Chung đã cho chúng tôi có một nơi họp mặt đông vui. Nụ cười đôn hậu của hai anh chị đã làm cho buổi tiệc thêm đậm đà tình nghĩa
12 Tháng Bảy 20173:52 CH(Xem: 17717)
Ngày em đến , xôn xao lá xạc xào, Nghe ngập tràn con tim đầy sức sống. Ôm vào lòng , ôi đêm sao huyền diệu, Nỗi nhớ mong , ngập tràn nỗi nhớ mong.
09 Tháng Bảy 20172:12 SA(Xem: 11132)
chiều nay bước nhẹ với thời gian ôi lãng du quay về điêu tàn câu hát vang thầm theo cát bụi tiếng đàn rung nhẹ với tro than sương rơi nương bóng thềm rêu nhạt lá rụng nghiêng vai giọt nắng tràn
09 Tháng Bảy 20171:59 SA(Xem: 9281)
Bài thơ Không Đề Tháng Tư của Nguyễn Lương Vỵ là một bài thơ thâm sâu, thấm đậm một nhận thức dung hòa cả đời và đạo về một biến cố lịch sử ...
08 Tháng Bảy 20179:50 SA(Xem: 15392)
Cám ơn những người Mỹ đã đi ngang qua tôi trong buổi diễn hành với nụ cười, vẫy tay và những tiếng hô "God Bless America" " Happy 4th of July" thật hạnh phúc. Vâng! "God Bless The USA" phải không các bạn?.
08 Tháng Bảy 20179:34 SA(Xem: 15182)
cầm tay em trong dáng đi tha thướt ấp ung, vụng về, anh ngất ngây sung sướng không gian lan toả một mùi hương nàng Tiên ơi, anh thương em lạ thường! bừng mắt dặy...ôi giấc mộng chàng Trương!
08 Tháng Bảy 20172:21 SA(Xem: 9683)
Họp "toàn thế giới" tưng bừng, Đẹp, vui, vĩ đại chưa từng thấy qua. "Tâm" " Tình" chan chứa thiết tha, Không gian xa cách lòng Ta vẫn gần. Dù cho con Tạo xoay vần, Chúng ta luôn sẽ quây quần bên nhau.
08 Tháng Bảy 20172:11 SA(Xem: 9872)
Tôi đã sống trọn vẹn tuổi trẻ và tuổi trưởng thành của tôi giữa hai nền Đệ Nhất và nền Đệ Nhị Công Hòa. Tôi hiểu được phần nào những thành tựu cũng như những thất bại của cả hai.
08 Tháng Bảy 20171:53 SA(Xem: 9419)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức Sao Rơi Trên Biển & Anh Sẽ Về Thăm Em" - Nhạc Nguyên Vũ Giao Linh-Trường Hải & Ngọc Thu... Kiều Oanh thực hiện youtube
06 Tháng Bảy 20173:53 CH(Xem: 23918)
Đêm không là biển đen, Ngày không là bão nổi. Như cánh đồng mát rượi. Tâm ta thật an vui.
06 Tháng Bảy 20177:54 SA(Xem: 17708)
Chênh chếch Trăng khuya ...khuất xa mờ, Lạnh lùng nửa bóng, đứng bơ vơ Nhớ thuở Trăng tròn ... thời son trẻ . Trăng nào đẹp hơn, Trăng tuổi thơ.
04 Tháng Bảy 20176:59 SA(Xem: 24559)
Tháng Năm hái chút nắng vừa lên. Kết hoa dâng cúng đấng Cha hiền Mừng ngày Phật Đản. Con quỳ xuống Niệm Phật cầu an khắp mọi miền.
03 Tháng Bảy 20171:44 SA(Xem: 10286)
Ta lại về đây ngày họp mặt. Nhà chị Chung rộn rã vui thay. Mỗi một năm ta lại có một ngày. Tiền hội ngộ, bạn bè cùng tâm sự.
03 Tháng Bảy 20171:00 SA(Xem: 18144)
Chúng ta cũng vậy, tuổi cũng không còn trẻ. Mỗi năm chỉ có một ngày để họp mặt. Được nhìn lại thầy, cô xưa. Được gặp gỡ bạn bè, được chụp hình chung và cùng nhau tâm sự.
02 Tháng Bảy 20179:58 CH(Xem: 21198)
Trở về mái nhà xưa? Đó là một hình ảnh ẩn dụ, vừa lãng mạn vừa mang ý nghĩa tâm linh. Bước lãng du nào rốt ráo cũng cần một nơi chốn để trở về!
02 Tháng Bảy 20178:37 CH(Xem: 21158)
có ai về xứ Bưởi quê tôi xin cho nhắn gửi một đôi lời nghìn trùng xa cách buồn viễn xứ chạnh nhớ Đồng Nai,nhớ một người
02 Tháng Bảy 201712:25 CH(Xem: 22772)
Nhạt nhòa mắt lệ chiều mưa, Bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa tràn về. Mưa còn rả rích lê thê, Hai mùa mưa nắng nhớ quê hương mình.
02 Tháng Bảy 201711:30 SA(Xem: 19538)
Nếu người Mỹ không đổ quân ồ ạt vào Việt Nam với tổn phi rất cao về sinh mạng và tiền bạc, liệu người Mỹ có bỏ cuộc và bỏ rơi Việt Nam hay không?
02 Tháng Bảy 20178:27 SA(Xem: 19550)
Cầm tay tháng bảy mà thương Bàn giao chuyển hướng Hạ nhường Thu sang Mông mênh thu tím lá vàng Hàng cây rũ bóng gió ngàn lũng sâu.
01 Tháng Bảy 20171:16 SA(Xem: 24390)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức: KỶ NIỆM NÀO BUỒN - GIÂY PHÚT TẠ TỬ - Hoàng Oanh trình bày Kiều Oanh thực hiện youtube
01 Tháng Bảy 201712:52 SA(Xem: 17583)
Ánh nắng chiều yếu dần. Đưa mẹ vào giường bệnh. Con hôn mẹ để chào Còn bao ngày bên nhau. Mẹ ơi! Con đã khóc. Hoàng hôn đà buông xuống
30 Tháng Sáu 20171:42 SA(Xem: 21248)
Lá sân trừơng ...chào bước tương lai , Luôn ủ mầm xanh , qua tháng ngày . Sẽ có lần buồn...rơi theo gió , Em rời trường ...áo trắng thôi bay !
26 Tháng Sáu 20171:50 SA(Xem: 18805)
Mai vàng trên vai vẫn chan màu rực rỡ Dáng oai hùng vẫn nhịp bước hiên ngang Ai gieo chi cảnh tan tác bàng hoàng? Để tháng sáu tơ sầu giăng lãng đãng!
26 Tháng Sáu 20171:40 SA(Xem: 20822)
Chiếc xe lam ngày xưa, nhớ thương nhiều lắm. Dẫu chẳng đẹp, chẳng sang. Nhưng ấm áp tình quê Biên hòa -Long Thành những cuối tuần đi về
26 Tháng Sáu 20171:39 SA(Xem: 20455)
Mùa mưa đã đến hôm rày Em đi bao đoạn đường dài nắng mưa Tôi ngồi đếm giọt mưa thưa Gói tròn kỷ niệm bao mùa xa nhau.
26 Tháng Sáu 201712:44 SA(Xem: 21246)
Thầy, Cô, bạn hữu xa rời, Tóc xanh dần bạc nhớ thời còn thơ. Hè về sống lại giấc mơ, Gặp nhau để bớt bơ vơ phận mình.
25 Tháng Sáu 201711:28 CH(Xem: 19193)
Viết tới đây, tôi lại nghĩ đến loài chim tu hú. Chúng không thèm làm tổ. Chỉ tìm những tổ có sẳn để đẻ vào.
24 Tháng Sáu 201710:16 SA(Xem: 18539)
Cho đến nay, sau hơn nửa thế kỷ, nhiều người vẫn đánh giá sai lầm về công tác của Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung của ông Cẩn
18 Tháng Sáu 20179:56 SA(Xem: 31127)
Cha ơi, sinh tử vô thường Con xin Cha chớ vấn vương, nặng lòng Nhớ Cha con vẫn cầu mong Linh hồn siêu thoát non Bồng, cảnh Tiên.
17 Tháng Sáu 20171:49 SA(Xem: 15213)
Nếu ba ra đi, hãy chăm sóc và yêu kính mẹ con . Người đàn bà đã dâng hiến cả đời vì cha con chúng ta.
17 Tháng Sáu 20171:13 SA(Xem: 19517)
Khúc Hát Cha Yêu" Lý Hải trình bày. Thân chúc quý Hiền Phụ một ngày Father's Day vui mạnh, hạnh phúc. Thâm tâm an lạc. Kiều Oanh
17 Tháng Sáu 201712:52 SA(Xem: 25706)
Bắc Nam cách trở xa xôi, Bờ vai nặng gánh Mẹ tôi ốm gầy. Thương Cha khổ cực đọa đày, Xót đau thấy Mẹ đêm ngày đợi Cha.
17 Tháng Sáu 201712:32 SA(Xem: 19648)
Tôi xin nói thẳng, không có ông Ngô Đình Cẩn và đám Mật vụ của ông, Huế và các vùng phụ cận sẽ không có được những ngay thanh bình, yên ổn.
16 Tháng Sáu 201711:05 CH(Xem: 22088)
Không thể đắm chìm trong khối lãng quên Tự nhủ lòng mình sẽ không cô độc Trong nụ cười dù có ngàn tiếng khóc Ngô Quyền mãi đầy nỗi nhớ tròn vo!
16 Tháng Sáu 20172:04 SA(Xem: 19309)
Ngày ''Lễ Cha'' nghĩ về Ba nhiều lắm Quỳ xuống đây, chân thành để lạy Ba Nguyện hư không ở nơi cõi ta bà Ba chứng giám tấm lòng con gái nhỏ.
16 Tháng Sáu 20171:55 SA(Xem: 22717)
Bài thơ viết thứ một ngàn (1.000) Tặng Cha thương mến vô vàn kính yêu Loay xoay giọt nắng cuối chiều Con ngồi góc phố nặng nhiều âu lo...