Bất thình lình hắn đẩy chúi tôi về phía trước. Tôi tưởng mình bị ngã sấp xuống. Cái chân đau của tôi bị nhói thấu xương.
Chỉ mấy bước ngắn hắn xô tôi qua một bên tra chìa khóa vào cánh cửa gỗ mở toang ra.
Một mùi hôi nồng nặc xông lên. Tôi đang chần chờ. Hắn đập mạnh vào ót tôi bằng một vật cứng. Tôi ngã xuống.
Tôi không nhớ mình nằm dưới mặt đất ẩm hôi hám này trong bao lâu, nhưng khi tôi tỉnh dậy, bắt đầu quen bóng tối, tôi thấy lờ mờ còn có một người tù khác đang ngồi tựa lưng vào tường. Phòng chật, tôi nghĩ vậy, bởi vì chân tôi đụng vách và tay tôi chạm vào chân một người. Không, nói đúng hơn tôi chạm vào sợi xích sắt buột vòng cổ chân người tù kia. Có lẽ ông ta còn thức, bởi vì thỉnh thoảng tôi nghe thấy tiếng khua động của sợi xích. Bọn cán bộ đang điểm danh tù bên ngoài. Xà lim tối om.
“Có thuốc lá không?” Bất ngờ ông ta hỏi.
“Không.” Tôi trả lời thật nhanh.
Tôi không phải là người nghiện thuốc lá. Có thì hút phì phà mấy sợi khói chơi, còn không có thì thôi. Vả lại ở Rạch Sỏi, hai tên công an biên phòng đã thu hết mọi thứ trên người tôi, giấy tờ tùy thân của tôi, kể cả gói thuốc, và cái hộp quẹt zippo.
“Mới hả?”
“Mới.”
“Tội gì?”
“Tình nghi vượt biên.”
“Tình nghi?”
“Phải. Tình nghi.”
“Vậy, chắc sẽ ở lâu.”
“Tại sao?”
“Tình nghi thì phải ở lâu, tại vì có biết tội gì mà buộc mà xử.”
“Vậy có tội thì về sớm sao?”
“Tùy tội chớ. Lâu hay mau là tùy tội nặng hay là nhẹ.”
“Còn ông, ông tội gì?” Tôi hỏi.
“Không phải chuyện vượt biên đâu.”
Ông ta nói chưa hết câu, tôi chống tay ngồi dậy, dựa lưng vào vách chờ đợi ông nói tiếp. Tôi có cảm tưởng như ông sắp nói thêm một điều gì nữa.
Nhưng ông ta vẫn im lặng. Tôi duỗi chân. Căn phòng này không thể giam quá một người, không khí khó thở. Mùi hôi mỗi lúc một nồng nặc.
Tại sao tôi đến chốn này? Ban đêm thì tối, ban ngày thì đen.
Tôi tuyệt vọng.
Tôi như một người đi trong đường hầm. Hầm thì hun hút tối tăm đi hoài không dứt. Còn tôi thì giống như người bị chặt hết hai tay và hai chân, chỉ còn có cái đầu và thân hình bị lăn lông lốc trong đường hầm trơn trợt.
“Nè, người anh em...” Người tù bỗng gọi tôi.
Tôi không lên tiếng. Tôi chờ đợi.
“Bao nhiêu tuổi?”
“Bốn mươi.” Tôi trả lời.
“Tứ thập nhi bất hoặc! Ông nhỏ hơn tôi một con giáp.”
Tôi vẫn có cảm tưởng như ông chưa nói điều ông định nói. Một đỗi lâu, người tù tiếp:
“Ông có biết trong tù người ta dùng một người tù khác để điều tra khai thác một người hiện bị giam gọi là gì không?”
“Không!” Tôi trả lời, vì thật sự tôi không hiểu gì cả.
“Nó gọi là đặc tình.”
“Đặc tình?”
“Phải. Nó gọi là đặc tình... Ông có phải là đặc tình không?”
Câu hỏi của ông làm tôi sửng sốt.
Vậy là sao? Trong tù còn có đặc công nằm vùng sao? Chốn nào là chốn nương thân? Tôi chồm về phía trước, nhướng to mắt nhìn chằm chằm người đối diện. Tôi không cách nào thấy rõ mặt ông ta. Tôi muốn biết sắc diện ông ra sao khi hỏi tôi và tôi cũng muốn biết phản ứng của ông khi tôi trả lời. Chịu thôi.
“Ông nghĩ tôi là đặc tình sao?”
“Tôi không nghĩ ngợi gì hết. Tôi nói trước để đề cao cảnh giác.”
“Ông khỏi cần đề cao cảnh giác. Tôi tên Trần Lâm Thăng, bị bắt ở Rạch Sỏi...”
Tôi nói một hơi. Thật tình trong thâm tâm tôi, tôi muốn mở lòng mình ra cho người cùng tù biết tôi không phải là chó săn. Tôi căm thù bọn chó săn.
“Thôi, thôi... không phải khai. Tôi đâu phải công an chấp pháp. Đủ rồi! Tôi không phải là người dễ tin đâu.”
Người tù nói giọng nhỏ, chậm, đã bớt hoài nghi.
“Nè, người anh em. Cần phải bình tĩnh. Ở đâu cũng vậy. Cần bình tĩnh, luôn luôn bình tĩnh. Không sợ hãi. Không căm thù...”
Tôi không hiểu ông ta muốn nói gì. Tôi chợt thấy toàn thân ê ẩm mệt mỏi. Tôi nhắm mắt lại, nghe rõ hơi thở của mình bắt đầu đều đặn.
“Rượu đã rót ra rồi phải uống, uống cho đến cặn.”
Tôi tưởng chừng nghe tiếng một người nào đó nói bên tai tôi một câu gần như vô nghĩa, chẳng ăn nhập gì với câu chuyện của tôi cả.
Những tia sáng của mặt trời chiếu qua song khung cửa nhỏ đánh thức tôi dậy.
Suốt đêm tôi đã ngủ theo kiểu duỗi chân và lưng tựa tường. Người cùng tù cũng ngủ theo cách đó. Nếu không có thêm một người thứ hai có thể ông ta đã nằm co gối ngủ được. Tôi thấy ông đang nhìn mình. Hai con mắt thụt sâu vào như hai cái hố. Cả khuôn mặt như cái đầu lâu của người chết nếu bóc đi làn da nhăn nheo. Đầu ông ta không có lấy một sợi tóc. Tôi bốn mươi tuổi. Ông năm mươi hai. Hơn nhau một con giáp, ông ta nói như vậy đêm qua, nhưng nhìn ông tôi tưởng đó là người của trăm năm. Hay đúng hơn, một người đã chết vừa đội mồ đứng dậy. Hai cánh tay khẳng khiu da bọc xương của ông xếp lại đặt lên bụng, cả hai bàn tay ấp lên sợi xích sắt. Ông mặc quần đùi. Hai ống xương chân như hai cây que. Và một sợi xích sắt khác buộc vào sát cổ chân. Mùi hôi từ thân thể ông ta bốc ra cùng với cái thùng nhỏ bằng nhựa đặt ở phía tay phải tôi.
“Nè, người anh em...” Người cùng tù nói.
Tôi nhìn thấy quai hàm ông cử động. Quả thật đêm qua tôi đã hình dung ông ta khác hẳn con người bằng xương - chớ không bằng thịt trước mắt tôi.
“Không sợ hãi. Không căm thù.” Ông ta tiếp, “Rượu đã rót ra rồi phải uống, uống cho đến cặn.” Ông ta lặp lại những lời tôi đã nghe đêm qua.
Nhưng mà tôi không hiểu gì hết. Tôi nhớ Quỳnh, nhớ con tôi, nhớ khuôn mặt của Tâm khô-khốc-thiền-sư khi nhắc đến chuyện vợ con đã bị làm mồi cho biển cả trong chuyến vượt biên. Cái hình ảnh Nhật đứng với tôi trên con đường nhỏ trước một ngôi nhà ở Phú Nhuận, dưới chân đầy những sổ thông hành, bỗng nhiên hiện ra trong trí tôi. Năm năm rồi, Nhật đã bị chế độ mới bắt nhốt giam giữ tù đày ra tận miền Bắc. Những tin tức vọng về cho biết Nhật luôn luôn dũng cảm. Bố là đảng viên trung kiên không thuyết phục được Nhật “phản tỉnh” về những gì anh đã viết. Bố anh không cứu được anh, hay không dám cứu anh. Mà Nhật cũng chẳng cần kêu cứu. Sự can đảm của người trong tù luôn luôn là liều thuốc khích lệ những kẻ ngoài tù. Kỳ lạ không, chính những con người như tôi đã sống bằng hy vọng của những người đang bị giam hãm. Ký cũng đi tù chỉ để bên ngoài mối “sầu ở lại.” Lộc trình diện bọn quân quản mang theo những kỷ niệm tình ái của Sorbonne Paris, những đêm say ngất trời Chợ Đũi. Yvonne, Denise, Catherine, Rosalie, Dominique... tóc vàng sợi nhỏ..., hắn mang tuốt luốt theo vào nhà giam. Nghĩa biến mất. Phùng biệt tăm. Đình thu mình vào khu làng báo chí Thủ Đức. Những chuyến vượt biên hụt, những lời nói mở ra đóng lại, hoài nghi cả người thân ruột thịt... Kiệt đâu? Tôi chợt nhớ đến người học trò đã đưa tôi đi xem ghe. Tôi lo cho Kiệt. Tôi sợ chú nhỏ không chịu nổi những nhục nhằn. Nỗi đau khổ về cái chết của người cha chưa nguôi trong trái tim chú, bây giờ chính chú gánh thêm trên vai những điều đau đớn khác. Những điều tôi từng giảng trong lớp học, tôi nghiệm ra chưa đủ giải tỏa cho tôi, liệu nó có giải tỏa được gì cho Kiệt. Đau khổ sẽ tăng lên nếu nó đi sau một hạnh phúc. Niềm vui lúc nào cũng lớn sau một điều bất hạnh. Hạnh phúc chỉ là khoảnh khắc, và tình yêu cũng không là vĩnh cửu. Và Noccolo Machiavelli? A, tôi nhớ ra rồi, “kẻ thiết lập một nền độc tài mà không giết Brutus, thì chắc chắn ba bảy hai mươi mốt ngày...” Nhưng nó là cái gì. Chế độ mới nó là bá đạo hay vương đạo? Vương thế nào được! Machiavélisme.
Cánh cửa phòng bỗng xịch mở. Mở hé thôi. Một bàn tay đẩy vào hai chén cơm. Cơm không, không có thứ gì khác. Cánh cửa đóng lại. Bây giờ tôi mới nghe tiếng khóa. Tôi bưng chén cơm đưa cho người cùng tù. Ông ta không buồn cầm. Hai con mắt ông ngó chén cơm, chân phải ông co lại, duỗi ra, sau đó chân trái ông làm một động tác y như vậy. Tôi nhìn ông, đặt chén cơm xuống đất. Tôi thấy đói, đói lắm. Tôi dúm tay bốc cơm. Tôi ăn bằng những ngón tay. Tôi nghe vị ngọt ở đầu lưỡi. Những hột cơm đi qua cuống họng, sau khi đã bị răng nghiền nát, thơm như mùi chả ram. Tôi cảm thấy như vậy. Tôi không hề cảm tưởng. Mắt tôi, cả thân thể tôi chằm chằm vào chén cơm. Tôi đói như chưa bao giờ đói như thế.
Bỗng nhiên có một cái gì đó nhói trong đầu tôi. Tôi ngước nhìn lên, người tù già đang nhìn tôi. Hình như, tôi ngượng. Tôi đặt chén cơm xuống đất.
Những ngón tay tôi còn dích những hột cơm. Tôi không biết để vào đâu bàn tay của mình.
“Ông không đói sao?”
“Không.” Ông ta lắc đầu. “Chưa tới giờ ăn của tôi.” Ông tiếp tục nhìn tôi đỗi lâu, tiếp, “Mà người anh em chưa ăn uống mấy bữa rồi?”
(Còn tiếp)