Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục: MAI THẢO - MỘT THỜI VANG BÓNG

31 Tháng Giêng 202310:35 CH(Xem: 3124)
GS. Nguyễn Văn Lục: MAI THẢO - MỘT THỜI VANG BÓNG


MAI THẢO - MỘT THỜI VANG BÓNG

(8-6-1927- 10-01-1998)


Nguyễn Văn Lục

 

Tôi tự hỏi mình, Mai Thảo cuối cùng chỉ là một nhà thơ xuất chúng. Hay trong văn của ông đã có thơ và trong thơ là cả trời đất.

Nhà văn Mai Thảo — Một thời vang bóng


Ngày 1-10-1998, nhà văn Mai Thảo đã vĩnh viễn ra đi về miền cực lạc.

Mai Thảo tên là Nguyễn Đăng Quý, sinh tại chợ Cồn, huyện Hải Hậu, Nam Định. Cha là một điền chủ giàu có. Thuở nhỏ học trường làng, lớn lên học ở Nam Định, rồi ra Hà Nội học trường Đỗ Hữu Vị, sau là Chu Văn An.

 Năm 1946, chiến tranh bùng nổ, Mai Thảo vào Thanh Hóa.

image002Mai Thảo. Ảnh Jane Katz.

 Vào năm 1948, như nhiều thanh niên khác, ông đã đi theo kháng chiến và cũng như nhiều người khác, như Phạm Duy, ông đã giã từ kháng chiến, “dinh tê” về thành phố, rồi 1954 vào Nam.

 Những kỷ niệm quá khứ với Hà Nội, thời đi kháng chiến, thời từ Nam Định lên Hà Nội học, đã để lại nhiều dấu ấn và sau này đã làm nên sự nghiệp khởi đầu với tác phẩm “Đêm giã từ Hà Nội”.

Vì thế, xin được gọi chung đó là Một Thời Vang Bóng. Thời Vang Bóng ấy đã đeo đuổi ông từ 1960 đến sau 1975, rồi vượt biên năm 1977 đến Pulau Besa, Mã Lai, và điểm dừng chân cuối đời tại Mỹ.

Kỳ tích cuộc vượt biên sau này đã được ông kể lại cho Jane Katz trong cuộc phỏng vấn khi ông đến Mỹ được hai năm. Ông bị Hà Nội liệt vào loại “những tên biệt kích” nguy hiểm cần phải truy lùng. Nhưng may mắn là có nhiều người liều mạng chứa chấp và che dấu cho ông ở 8 căn nhà khác nhau trong vòng 2 năm trời. Cộng sản đã lục soát, nhưng không hiệu quả. Ông cho biết , hai năm đó ông sống như một con vật trong bóng tối với những ngày giống nhau buồn chán, đôi khi trong nỗi tuyệt vọng.

Ông kể lại,

“Vào cuối năm 1977, có các tổ chức tư nhân giúp người vượt biên.

Họ liên lạc với tôi và bảo tôi cứ chờ ở nơi đang ẩn náu. Nhưng hành trình ra được biển lớn, gặp sóng to gió lớn, thuyền bắt buộc phải quay về, tôi trở lại nơi ẩn náu.

Rồi có một chiếc xe máy khác, đến trong đêm tối, chuyến đào thoát thứ hai nguy hiểm hơn lần trước. Chiếc thuyền đánh cá nhỏ đưa tôi tới một chiếc chòi. Tôi phải núp ở đó suốt hai ngày trong vùng sình lầy có cây che khuất. Cuối cùng thì một chiếc ghe tới đưa tôi ra khơi và trong đêm tối, tôi được chuyển qua một chiếc tàu đánh cá lớn hơn. Bất chợt có một tín hiệu đèn và không tiếng động. Một toan tính kỹ lưỡng và cả nhiều may mắn. Tôi bước lên một con tàu sức chứa 20 người, nhưng số người lên tàu là 58.

Trên tàu gồm những người tỵ nạn chính trị, sinh viên, học sinh, người già, các gia đình với trẻ thơ. Chúng tôi trải qua 6 ngày đêm. Mọi người đói và khát, một số ngã bệnh. Khi chúng tôi tới gần Mã Lai, biển lặng trời trong và mọi người bắt đầu cất tiếng hát.

 Tới Mã Lai nhưng họ không muốn tiếp nhận chúng tôi. Các giới chức tỏ ra không thân thiện. Mỗi lần chúng tôi cố cập bến, họ đẩy chúng tôi ra xa, cuối cùng một ngư phủ Mã Lai ra dấu cho chúng tôi: họ bảo cứ ủi vào bãi, nếu tàu bị vỡ hư hại thì họ phải nhận chúng tôi.

Chúng tôi đã làm như vậy và có hiệu quả. Con tàu chúng tôi bị vỡ. Chúng tôi giúp trẻ em, người già bệnh hoạn lên bờ. Viên chức Liên Hiệp Quốc tới gặp chúng tôi tặng tiền để chúng tôi mua thục phẩm.

Món hàng đầu tiên tôi mua là một bao thuốc lá. Tôi được giữ chức chủ tịch trại. Tôi tới Mỹ vì có hai em ở đó.

Có lẽ một ngày nào đó Việt Nam sẽ tự do và tôi có thể trở về. Tôi đang hạnh phúc ở đây nhưng nội tâm thì rất buồn bã. Buồn cho dân tộc tôi. Tôi không biết liệu chúng tôi có một tương lai. Xa quê hương, thật khó mà duy trì truyền thống của chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy như bị đánh mất phần hồn.”

Tóm lược “Jane Katz Phỏng Vấn Nhà Văn Mai Thảo” do Tâm Bình lược dịch, Hợp Lưu, 27 Tháng Tám 2014. Nguyên tác JANE KATZ, Artists in Exile, American Odyssey, Stein & Day Publishers, NY 1983, p.74 – p. 81

Di cư vào Nam

Nội dung tác phẩm Đêm giã từ Hà Nội nói lên tâm trạng dứt khoát của ông gửi những người còn lại bên kia vĩ tuyến 17 còn luyến tiếc say mê những ảo ảnh của một thời.

Hành lý mang theo trong Đêm Giã Từ Hà Nội vào miền Nam là cả một dĩ vãng và những hoài niệm mang về nơi  được coi là miền đất hứa. Và một cách gián tiếp, ông cũng nói lên những tâm trạng riêng tư mà lòng vẫn vấn vương những kỷ niệm của Hà Nội băm sáu phố phố phường thuở nào.



image003
Nguồn: NXB Kim Đồng


 Đó cũng là lẽ bình thường vì ai cũng có một quê hương để nhớ, để hoài niệm mà với ông là Hà Nội. Hà Nội với những ngõ hẻm chật hẹp lúc nhúc những người sống chen chúc hay năm cửa ô dẫn vào thành phố, hoặc những căn gác chật hẹp, hoặc những vỉa hè bẩn thỉu với cống rãnh hai bên vệ đường.

Hà Nội với những người bán hàng rong, gánh những rau quả, hoa tươi từ Ngọc Hà đem vào thành phố, gọi chung là những hàng quà với những lời rao reo vui buổi sáng. Họ bán đủ thứ, từ gói xôi, chè, kẹo bánh với tên gọi tùy theo xuất xứ của món ăn. Phải chăng ngày nay nó đang mất đần và chỉ còn là một thời vang bóng. Nó mất đi tất cả những nét mộc mạc, thân thương của một Hà Nội với tiếng kèn xe điện chỉ hai toa gỗ chạy chậm như rùa bò. Phở. Người bán phở rong chỉ cần gánh hai quầy trong đó có thùng nước lèo một bên, bên kia có tủ kính bày biện các miếng thịt đã thái sẵn. Tôi còn nhớ buổi sáng tinh mơ, sương mù còn lãng đảng, mùi nước phở bò quyện vào mũi. Giá thời đó là 5 đồng một tô. Nhưng bấy nhiêu thứ đó đã làm nên Hà Nội một thời như Thạch Lam đã viết lại trong: Hà Nội băm sáu phố phường.

Mai Thảo trước hết là một người sinh sống ở Hà Nội, mặc dầu  sinh ở Nam Định; ông lên Hà Nội học trung học; năm 1948, 21 tuổi, ông cũng như những thanh niên thời ấy, đi theo tiếng gọi non sông, rồi thất vọng, hồi cư rồi quyết định vào Nam như một sự dứt khoát lên đường, đi tìm tự do như một người lữ hành không đơn độc.

 Và sau này cái thời vang bóng ấy còn lãng đãng trong các tập truyện như trong Căn Nhà Vùng Nước Mặn hay cuốn Chuyến Tàu Trên Sông Hồng. Ở đấy, nó vẫn gợi nhớ đến một thời vang bóng.

Mai Thảo với nguyệt san Sáng Tạo và những nghi vấn chung quanh việc tài trợ của USIS.

Nhiều người coi Mai Thảo như ngọn cờ đứng đầu trong sinh hoạt văn học ở miền Nam. Tạp chí Sáng Tạo mở đường cho một thời kỳ đổi mới văn học trong một hoàn cảnh chính trị của một đất nước qua phân với sự lấn sâu sự có mặt của người Mỹ. Nhận xét ấy không sai. Nó ghi lại một thời điểm như dấu vàng son của một con người và của cả một thời kỳ đáng được trân trọng.

Nhưng, theo Nguyễn Văn Trung, trong một bài viết nhan đề: Văn học trong vòng tay chính trị. (Văn Học số 179, năm 2001) đã nêu bật một vài góc kín về sự hình thành tạp chí Sáng Tạo và sự tài trợ của Phòng thông tin USIS của Hoa Kỳ, tóm lược như sau.

“Mặc dầu nhan đề bài viết với dụng tâm coi văn học miền Nam đã bị chính trị hóa, nói trắng ra bị Mỹ chi phối và giật giây. Phần tôi không đơn giản nghĩ như vậy.

Tôi viết lại phần thông tin này vì một lẽ là không thấy giới truyền thông hải ngoại nhắc nhở xa gần đến điều này.

Do mặc cảm chăng. Do nghĩ rằng nhận sự tài trợ của Mỹ là một điều nên che đậy chăng. Đến độ  ngay những người trong nhóm Sáng Tạo như Doãn Quốc Sỹ, Trần Thanh Hiệp cũng không nhắc tới.

 Riêng người em ruột Mai Thảo Nguyễn Đăng Khánh khẳng định Mai Thảo không nhận tiền của Phòng Thông Tin Hoa Kỳ. Tiền chi phí cho tạp chí Sáng Tạo là do người anh của Mai Thảo là luật sư Nguyễn Đăng Thiện tài trợ.

Tôi xin được ghi rõ thêm về việc USIS tài trợ như thế nào.

Việc cho phép tờ Sáng Tạo được phát hành là do Bộ trưởng thông tin Trần Chánh Thành, thời Đệ I Cộng Hòa ký theo đơn xin của ông Robert P. Speer, giám đốc thông tin Hoa Kỳ đứng đơn. Những người Mỹ thuộc USIS này đều thông thạo tiếng Pháp để có thể giao thiệp với trí thức Việt Nam. Mục đích của ông Robert P. Speer là muốn coi Sài gòn là thủ đô văn hóa của giới văn nghệ và trí thức Việt Nam.

 Điều chính yếu là phải do chính người Việt Nam đảm nhiệm mà người Mỹ không can thiệp trực tiếp vào.

Trong văn thư còn nói rõ, “mục tiêu của tờ báo là để dành cho giới công chức, trí thức của Việt Nam gồm các sáng tác, truyện ngắn, phóng sự, không có tính cách chính trị, nhằm mục đích đề cao Sài Gòn là thủ đô văn hóa và trí thức của Việt Nam, vạch rõ tại Việt Nam tự do các học giả, trí thức, văn sĩ đứng đắn được hoạt động tự do trong phạm vi văn nghệ.” 

Sự ủy nhiệm ấy đã chính thức được nhìn nhận một cách  hợp pháp và thầm lặng.

Trong số Sáng Tạo ra mắt có bài “Sài Gòn, thủ đô Văn Hóa Việt Nam”. Mai Thảo viết: “Sài gòn thay thế cho Hà Nội, từ một đô thị miền Nam trở thành thủ đô tinh thần của toàn thể đất nước. Sài Gòn sáng tạo và suy tưởng.”

Nguyễn Văn Trung, Văn học trong vòng tay chính trị. (Văn Học số 179, năm 2001)

Cũng cần nói thêm, không phải chỉ mình Mai Thảo và tờ Sáng Tạo được Mỹ tài trợ. Các tờ khác như Hiện Đại (Nguyên Sa, chủ bút), Thế Kỷ 20 (Nguyễn Khắc Hoạch, chủ bút) được tài trợ trục tiếp hoặc gián tiếp qua trung gian Trần Kim Tuyến. Nguyệt san Sáng Tạo ra được 31 số, từ tháng 10-1956 đến tháng 9-1959; Tạm đình bản khi hết tiền tài trợ. Tháng 7, 1960 tái bản lại kéo dài được 7 số thì ngưng hẳn.

Việc tài trợ ấy hầu như công khai ai cũng biết, nhưng khi viết người ta lại che dấu. Thực tế, không có sự tài trợ thì không cách gì tồn tại được. Trước sau gì báo cũng phải đóng cửa vì không có tiền trang trải mọi chi phí. Sau này, Nguyên Sa Trần Bich Lan đã nói huỵch tẹt ra, tờ Hiện Đại là thứ báo nhà nước tài trợ.

Thực tế mà nói, nếu không có sự trợ giúp ấy, liệu tờ báo nào có thể hoạt động lâu được. Cũng cần nói thêm cho rõ, Sau 1954, nền báo chí của miền Nam còn sơ sài và nghèo nàn lắm. Các tờ nhật báo như tờ Tự Do (Phạm Việt Tuyền, chủ bút), tờ Chính Luận của Đặng Văn Sung cũng gián tiếp được tài trợ.

Nói chi đến các nguyệt san như Văn Hóa Á Châu do cụ Nguyễn Đăng chủ nhiệm, hay tờ Quê Hương- bề dày mỗi số như một cuốn sách- do giáo sư Nguyễn Cao Hách và các giáo sư trường Luật chủ trương cũng được tài trợ.

 Trường hợp  báo Bách Khoa do Huỳnh Văn Lang chủ trương, nhờ có sự quen biết được các ngân hàng và các công ty kỹ nghệ làm ăn ở Việt Nam tài trợ nên đã hoạt động lâu dài nhất trong tất cả các báo chí ở miền Nam, cho đến 1975.

Sau 1975, phải nhìn nhận rằng văn học miền Nam phong phú, đa dạng, phóng khoáng, tự do và nhân bản đến làm ngạc nhiên giới văn nghệ miền Bắc, chính là nhờ việc tài trợ gián tiếp và kín đáo của Hoa Kỳ và không bao giờ có sự kiểm soát hoặc can thiệp vào nội bộ một cách trực tiếp cả.

Xin nói lại một lần cho xong.

Trước khi ra tờ Sáng Tạo, Mai Thảo đã từng cộng tác với tờ Lửa Việt rồi tờ Người Việt của nhóm luật sư Trần Thanh Hiệp  và Nguyễn Sỹ Tế. Nhưng chỉ ra được vài số rồi cũng đình bản.

Về bản thân Mai Thảo. 

Nhờ có tài trợ, ngoài chuyện thuê tòa soạn, chi phí văn phòng và ấn loạt, ông còn có tiền túi dư thừa rộng rãi, rủng rỉnh để giải trí nào đi phòng trà, tiệm nhảy, bao gái nhảy, trong đó có vũ nữ Cẩm Nhung.

Nguyên Sa Trần Bích Lan thì khác; ông là một người tuyềnh toàng với cách ăn mặc áo bốn túi, đội mũ phở, đi đôi dép lẹt quẹt như một nghệ sĩ hơn một nhà giáo. Nguyên Sa xuề xòa với mọi người, nhưng lại nghiêm khắc với chính mình. Ông kể lại thường lái xe con cóc chở Mai Thảo đến chỗ này chỗ kia, như đến nhà vũ nữ Cẩm Nhung để đón cô này đi nhảy ở phòng trà Văn Cảnh hoặc vũ trường Kim Sơn trên đường Tự Do.

 Mai Thảo và Nguyên Sa khác nhau về nhiều mặt, mặt đời sống cũng như mặt văn học, chính trị.

Mai Thảo độc thân, ăn chơi đã đành, không nói làm gì. Ông là hiện thân của phòng trà, của vũ trường, của rượu. Chúng như những người bạn đường của ông. Chất nghệ sĩ, chất lãng mạn, chất phóng túng và sau này cộng thêm sự cô đơn, sự đơn độc và những nỗi u hoài thăm thẳm về một thời vang bóng cuốn hút ông.

Nguyên Sa nể bạn mà đi, nhưng không sa đà vào các chuyện ăn nhậu, gái gú. Ông rất mực vẫn là một là một nhà giáo mực thước. Chẳng hạn đến giờ ăn bao giờ ông cũng về nhà cơm tối bên vợ con.

 Sau này, vũ nữ Cẩm Nhung bị bà vợ trung tá công binh Trần Ngọc Thức ghen tuông, thuê người tạt át xít vào mặt, thành người phế tật phải đi ăn xin. Nguyên Sa  lại chở Mai Thảo đến kín đáo giúp đỡ. Mai Thảo bỏ một sấp tiền cho người phụ nữ xấu số vào nón và Cẩm Nhung vẫn cảm nhận ra người cho tiền là ai. Những tình cảm như thế thật đáng quý lắm

Những đóng góp tích cực của Sáng Tạo và Mai Thảo trong sinh hoạt văn học miền Nam.

Công bằng mà nói, nguyệt san Sáng Tạo đã giúp sinh hoạt báo chí miền Nam  khởi sắc, canh tân, đa dạng và đổi mới như một sự vươn lên, trổi bật tỏa sáng. Nhiều người đã tin tưởng và có cảm nghĩ như thế, nhất là nơi giới trẻ thành thị. Người ta cứ giả dụ rằng không có Mai Thảo, liệu có được thế không. Nó có hình thù hay méo mó không. Nó có là điểm sáng chói như ngọn hải đăng dẫn đường trong đêm tối chăng.

Nhưng mặt khác, thực chất nó là sự đóng góp và công sức của nhiều người. Nó không chỉ thu gọn vào con số 7 người, Mai Thảo, Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Duy Thanh, Thái Tuấn. Nó còn có sự có mặt ngay từ đầu của Nguyên Sa Trần Bích Lan, Phan Mai, Hoàng Thái Linh (bút hiệu của Nguyễn văn Trung). Ngoài ra còn có thi sĩ Quách Thoại, mệnh yểu lúc mới 27 tuổi. Thi sĩ Cung Trầm Tưởng, Sao Trên Rừng (Nguyễn Đức Sơn), Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Thạch Chương (nhạc sĩ Cung Tiến), Viên Linh, Mặc Đỗ, Thảo Trường, Dương Nghiễm Mậu.

Trong ngững đóng góp ấy, có tinh thần muốn đổi mới, muốn cách tân, muốn vươn lên, muốn vượt trội. Tôi thật ngạc nhiên sau này biết Thạch Chương lại là nhạc sĩ Cung Tiến.

 Về văn, Mai Thảo đã có những phong cách mới trong cách viết văn, từ cách xử dụng từ ngữ mới, cách chấm câu đứt đoạn, phá cách văn phạm, đặt ngược chủ từ với túc từ.

 Cách viết ấy bàng bạc trong các tác phẩm của ông mà đọc lần đầu thấy lạ, thấy ngạc nhiên, thấy khác thường. Sự quyến rũ là có thật. Xin trích một đoạn trong tác phẩm “Tháng Giêng Cỏ Non”.

“Thời gian nghiêng đi (.…) Vậy mà xuân đã về rồi. Mùa xuân của những ngả đường cỏ non, của những ngày khởi đầu nhung lụa, của những khói hương thơm ngát trong đêm giao thừa, của buổi gặp lại, của ngày trở về. Mùa xuân tự do nhất ở đây vẫn chứa đựng cái hình hài muôn đời đôn hậu của Đoàn Viên.” 

Mai Thảo, Tháng Giêng Cỏ Non”

Góc độ trong Tháng Giêng Cỏ Non, một trong những tác phẩm đầu đời còn mượt mà thẩm mỹ, đẹp như một bức tranh chấm phá, khơi mở một thế giới nghệ thuật ngoài biên độ. Nó mở ra một chân trời tình tự con người. Nó mời gọi và hấp dẫn như uống phải một ly chanh đường.

Ở một trích đoạn khác của một thứ ngôn ngữ khác người: “Mái nhà ngó xuống, cửa sổ nhìn ra, nước trong bể nhìn lên, quê hương vây lấy tôi.” 

Nhưng thảng hoặc những khác thường đến lập dị, lập đi lập lại, trong nhiều tác phẩm khác, liệu nó được bao lâu. Nghệ thuật thường đố kỵ với cái lặp lại, cái dư thừa như một nhàm chán.

Và đây là bằng chứng nổi cộm của chủ nghĩa hình thức, trống rỗng nội dung.

 Hãy khoan nói đến nội dung, như Trần Doãn Nho nhận xét gợi ý

thế gới của Mai Thảo là thế giới của chữ. Dường như đọc ông, ta bị rơi vào trong một vòng chữ. Chữ đưa lui, đẩy tới, chạy lòng vòng… (…) Khi thì đột ngột dừng lại. Như bị thắng gấp.

Với chữ, văn Mai Thảo tạo ra hiện thực. Hiện thực chỉ riêng của ông. Tôi đọc ông. Và cảm thấy mình mới hẳn ra. Cũng từ chữ.”

Trần Doãn Nho, “Tản mạn về văn Mai Thảo”, Hợp Lưu, số 100, tháng 5-6- 2008.

Tâm tình ấy cũng hiểu được và chia xẻ trong bối cảnh Văn Học lúc bấy giờ. Chê đấy mà cũng là một lời gợi ý khen ngầm.

Những mặt tỏ ra tiêu cực và yếu kém

Cá nhân Mai Thảo

Một trong những yếu kém của nhóm Sáng Tạo là chính phong cách viết của Mai Thảo. Thật ra cũng khó mà phê phán rốt ráo trong một vài dòng. Làm như thế tỏ ra bất công với trên 50 năm cầm bút, với 42 tác phẩm, từ trong Nam ra đến hải ngoại, nhất là giai đoạn điều khiển tạp chí Văn.

 Nhiều người chỉ nghĩ rằng Mai Thảo là Sáng Tạo và không là gì khác. Nhưng tạp chí Văn cũng là người bạn đồng hành từ trong nước ra đến hải trong nhiều năm tháng ông miệt mài và nơi giao lưu với bạn văn và người đọc trong những điều kiện tài chánh thu hẹp, bạn đọc lơi dần.

Người viết xin giới thiệu với người đọc bài viết phê bình của Bùi Vĩnh Phúc, “Văn Chương Mai Thảo, biên địa của cảm xúc và cái đẹp, giao thoa với ý thức hệ về đời sống”.

Bài viết này, tôi chỉ đồng ý một nửa với tác giả về sự phân biệt có hai dòng dư luận.

Một dòng dư luận cho rằng: “Văn chương Mai Thảo cầu kỳ làm dáng, hàm ý văn chương ấy không tự nhiên vì nó không có giá trị nội tại, vì nó được ‘may mặc’ và  ‘tô vẽ’ nhiều quá (…)” Và đi xa hơn nữa  “buộc  tội Mai Thảo như người bất tham dự, chỉ đứng vòng ngoài và quay mặt với thân phận chung của dân tộc.”

Một dòng văn học cho rằng: “Đây mới đúng là văn chương làm thăng hoa đời sống, hay rõ hơn từ ‘’ thăng hoa » đời sống được hiểu theo nghĩa hẹp, là làm cho đời sống với những góc cạnh bình thường của nó trở nên đẹp, lấp lánh và lãng mạn hơn, và như thế, giúp cho người ta quên đi những nỗi đau đớn, quên đi những thực tại cay đắng của xã hội.” 

Tôi hoàn toàn đồng ý với dòng văn học phê phán. Và tôi nhớ rằng đã có lần tôi viết,

“Mai Thảo cầm bút những năm 1956 đã là một lẽ. Những năm 60 vẫn là một Mai Thảo và nhất là thập niên 1970-1975 với những biến động xã hội chính trị một mất một còn với cộng sản vẫn là một Mai Thảo sống trong tháp ngà.”

Mai Thảo trước sau cũng vẫn là một Mai Thảo.

Tác giả Bùi Vĩnh Phúc còn sa đà vào việc xưng tụng tùy bút của Mai Thảo so sánh với tùy bút của Nguyễn Tuân và Thạch Lam. Thật ra mỗi nhà văn có bút pháp riêng, độc đáo, không ai giống ai. Nhất là trường hợp Nguyễn Tuân mà từng chữ, từng câu trở thành sự chọn lựa không thay thế được khi ông đã giáng bút. Ông Bùi Vĩnh Phúc so với Nguyễn Tuân và Thạch Lam và còn quả quyết rằng, tùy bút của Mai Thảo có phần còn vượt trội. Bùi Vĩnh Phúc viết:

“Về tính chất duy cảm, Mai Thảo vượt xa Nguyễn Tuân (..) Tôi chỉ muốn nói về khía cạnh cảm xúc, văn chương Mai Thảo cảm xúc tràn đầy, mà ở Nguyễn Tuân và Thạch Lam chỉ dâng tới một độ nào đó thôi.”

Bùi Vĩnh Phúc

Tôi cho rằng đó là một sự so sánh khập khiễng và vụng về.  

Trong giai đoạn từ 1955 đến 1975 biết bao nhiến đổi chính trị, xã hội với cường độ chiến tranh càng ngày càng ác liệt.. Tôi cảm thấy buồn vì Mai Thảo như thể “Đứng ngoài cuộc chiến”. Ký ức những ngày kháng chiến hay những ngày rời xa Hà Nội trong Đêm giã từ Hà Nội như nhòe nhoẹt đi, có mặt mà như không có mặt, mặc cho thế sự xoay vần. Ta vẫn ăn, vẫn ngủ, vẫn làm tình mà như thế mãi trong một vũng lầy nhầy không lối thoát. Hình như từ đây, có một khoảng cách chính trị mà ông  tự dựng lên cho mình trong sự bất lực của chính ông trước thời cuộc.

Phần ông, một thế giới phiền muộn với nỗi chán chường, nhức buốt và mệt mỏi, bất lực của một tâm trạng bất cần hay một thứ hiện sinh của một thứ hư vô chủ nghĩa.

Hiện sinh của Mai Thảo chút nào ảnh hưởng J.P. Sartre, A. Camus. Hiện sinh xuất hiện con người như một cái rễ cây xù xì, thô kệch như một vật thừa. Đời chẳng có gì đáng nói với những nỗi phiền đa, lang thang và vô định không lối về. Mà về đâu. Hướng nào.

Sự phủ nhận Văn Nghệ tiền chiến

Tuy nhiên, theo tôi, cho rằng việc phủ nhận tiền chiến là lỗi phạm ngông cuồng và mang tính triệt để hầu như muốn xóa bỏ, triệt tiêu chỗ ngồi của các nhà văn tiền chiến, trong đó đặc biệt có nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Đồng ý văn  chương là phủ nhận, đồng ý là phải vượt qua.

Nhưng phủ nhận như một phủ nhận với ý hướng triệt tiêu thì lại như đi vào một ngõ cụt hay một thứ con đường một chiều. Phủ nhận luôn đan xen cái cũ và cái mới như thế cài răng lược, ảnh hưởng qua loại, giao thoa.  Phủ nhận triệt để như thế vị tất đã được nhìn nhận như một cái mới cần có để thay cái cũ. Bởi vì cách phủ nhận trở nên cần thiết và thích đáng nhất là làm thế nào đưa ra được cái mới thật sự của văn nghệ hôm nay khác với văn nghệ đã qua.

Điều ấy Mai Thảo mới chỉ đưa ra một Tuyên Ngôn lý thuyết hơn là một thực tại có thật. Và cũng không một ai dứt khoát làm được việc phủ nhận ấy.

Thực tế Tự Lực Văn Đoàn với Đoạn Tuyệt của Nhất Linh, Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng đã có chỗ đứng vững chãi trong chương trình giáo dục tú tài Phần một. Mà không có sự dự phần của Mai Thảo.

Sau này như ông thú nhận trong cuộc phỏng vấn của Jane Katz ngày 10-07-1980 là không một cuốn sách nào của ông được dịch ra tiếng ngoại quốc, mặc dầu không thể đánh giá trị một tác phẩm chỉ vì lý do nó được dịch ra tiếng ngước ngoài.

Có lẽ sự phủ nhận công bằng nhất nên dành để dành cho người đọc tự thẩm định. Hay thì người ta đọc. Dở thì bị bỏ qua, bỏ quên như luật đào thải tự nhiên.

Cái cảm nhận của riêng cá nhân tôi khi đọc chữ nghĩa của Mai Thảo là một xảo thuật ngôn ngữ, biến nó thành một trò chơi chữ nghĩa mà tự nó không chuyên chở được một nội dung đích thực nào. Trò chơi chữ nghĩa ấy riết trở thành nhàm chán mà với 42 tác phẩm của ông, liệu có cứu vãn được trò chơi đó không.

Chữ nghĩa Mai Thảo làm tôi bắt nghĩ đến ca từ trong âm nhạc họ Trịnh. Nó cùng một điệu, cùng một cách thức chấm câu, nhảy từ ý nọ sang ý kia. Phân tích rạch ròi nó thật vô nghĩa.  Cùng lắm nó đánh động được cảm tính. Nó lạc lõng giữa các dòng chữ, xô đẩy nhau để trồi lên, để có mặt.

Nhưng ít ra trong âm nhạc họ Trịnh, chữ nghĩa ấy đã bị dòng nhạc khỏa lấp đi thành những âm thanh mượt mà đầy quái dị, ma thuật. Vì thế, người ta gọi Trịnh Công Sơn là ‘phù thủy âm nhạc’ cũng vì lẽ ấy. Ca từ cũng như điệu nhạc như cùng chấp cánh bay lên, hòa quyện vào nhau như một.

Một điều hầu như không một ai nhắc tới là Mai Thảo lấy rượu mạnh làm bạn, say túy lúy. Rượu phải chăng là loại thuốc an thần để quên đời hay để nhà văn mượn rượu như một sự hủy diệt cố ý.

Ở hải ngoại, ông ở tại căn nhà thuê số 209 rất nhỏ dành cho người cao niên, sau hẻm là nhà hàng Song Long. Căn nhà tuềnh toàng, nhếch nhác chỉ đủ kê có một chiếc giường đơn, một cái bàn nhỏ. Trên tường có treo vài bức ảnh trong đó có hình chụp với Vũ Hoàng Chương chụp trước 1975 trước hiên nhà. Và đặc biệt dưới gầm giường lỏng chỏng vài chai rượu mạnh. Ông đi đứng siêu đổ trong những ngày cuối đời thật đến tội nghiệp cho một đấng tài hoa đã một thời vang bóng. Phải chăng rượu đã một phần làm nên nông nỗi này.

Nguyên Sa Trần Bích Lan với Mai Thảo.

Họ là những người bạn đường tài hoa bạc mệnh, kẻ trước người sau chết chỉ cách nhau ít tháng. Mai Thảo mất ngày 10-01-1998. Nguyên Sa mất ngày 27-04-1998. Họ hẳn có dịp dắt tay nhau bên kia miền cực lạc miên viễn.

Nhưng Nguyên Sa có những nhận thức của một người trí thức dấn thân và nhập cuộc khác hẳn với Mai Thảo.

Nguyên Sa đã viết như một bản Tuyên Ngôn: Rời bỏ nền văn chương trú ẩn.

Ông cho rằng

“Trong cái hoàn cảnh vệ tinh chia cực mà chúng tôi chỉ là chầu rìa này như hoàn cảnh viện trợ, hoàn cảnh phân chia này để tìm một lối thoát.

 Chúng tôi có một dân tộc và chúng tôi yêu lắm chứ. Biết cầm bút, chúng tôi biết nỗi nhục, biết mơ ước dân tộc đang ước mơ, biết hãnh diện về một nền kiêu hãnh chưa đạt tới.

Rời bỏ nền văn chương trú ẩn, khuôn thước, rời bỏ động đá vững vàng. Hãy khởi đi về trước mặt. Đi đâu. Chưa biết.

Đó là một cuộc phiêu lưu. Có thể là một khám phá. Có thể là sự gục ngã trong dại khờ còn hơn khôn ngoan. Chết ở chân trời thử thách, chết trong cuộc phiêu lưu còn hơn sống mãi trong tầm gửi trong động đá trú ẩn êm ấm.”

Tạp chí Đất nước, số 5. Tháng 6-7-1968

Bài đầu tiên như một phát súng lệnh là: Lời cầu siêu thoát cho Nguyễn Quang Đại ở Khe Sanh. Nguyên Sa.

Tiếp theo là: Cắt tóc ăn thề:

Cắt cho ta, hãy cắt cho ta
Cắt cho ta sợi dài
Cắt cho ta sợi ngắn
Cắt cái sợi ăn gian
Cắt cái sợi nói dối
Sợi ăn cắp trên đầu
Sợi vu oan dưới gáy
Sợi bè phái đâm ngang
Sợi ghen tuông đứng dọc
Sợi xích chiến xa, sợi dây thòng lọng
Sợi hưu chiến mỏng manh, sợi hận thù buộc chặt

(...)
Hãy cắt cho anh
Hãy cắt cho vợ
Hãy cắt cho chồng
Hãy cắt cho con
(…)

Hãy cắt tóc và nhìn
Một quê hương đổi mới

Nguyên Sa. Tạp chí Đất Nước. Tháng 9-10- 1968

Cái hay và quyến rũ của thơ có thể để dành một bên để nói lên được cái khát vọng chua chát, cái mất mát hao hụt tuổi trẻ, mà cái sống cái chết gần kề mà sống đôi khi chưa kịp ra lời.

Hiểu được tâm tư ấy liệu chăng mới chia xẻ được bài thơ: Giã từ đàn anh của tác giả.

Những dòng thơ tuyệt mệnh để lại cho đời như bản chúc thư của một người sắp ra đi.

Nói về con bệnh rình rập ông.

Dỗ bệnh

Mỗi lần cơ thể gây thành chuyện
Ta lại cùng cơ thể chuyện trò
Dỗ nó chớ gây thành chuyện lớn
Nó nghĩ sao rồi nó lại cho

Bệnh ở trong người thành bệnh bạn
Bệnh ở lâu dài thành bệnh thân
Gối tay lên bệnh nằm thanh thản
Thành một đôi ta rất đá vàng

Và sau đây là những câu thơ xuất thần

image006
Nguồn: Du Tử Lê


Không hiểu

Thế giới có triệu điều không hiểu
Càng hiểu không ra lúc cuối đời
Chẳng sao khi đã nằm trong đất
Đọc ở sao trời sẽ hiểu thôi

Rốt cuộc hiểu hay không hiểu cũng vậy thôi. Có khác chi đâu. 

Và cuối cùng là bài thơ 

Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền (1989)

Ta thấy tên ta những bảng đường 
Đời ta sử chép cả ngàn chương
Sao không, hạt cát sông Hằng ấy
Còn chứa trong lòng cả đại dương
Ta thấy hình ta những miếu đền
Tượng thờ nghìn bệ những công viên
Sao không, khói với hương sùng kính
Đều ngát thơm từ huyệt lãng quên 

Ta thấy muôn sao đứng kín trời
Chờ ta, Bắc Đẩu trở về ngôi
Sao không, một điểm lân tinh vẫn
Cháy được lên từ đáy  thẳm khơi 
Ta thấy đường ta Chúa hiện hình
Vườn ta Phật ngủ, ngõ thần linh
Sao không, tâm thức riêng bờ cõi
Dịa ngục ngươi là, kẻ khác ơi (…)


Bài thơ còn dài với nhiều soi rọi vào cõi người, cõi bên kia. Tâm thức siêu hình của thế giới cực tiểu và cực lớn mênh mang biển đời.

Tôi tự hỏi mình, Mai Thảo cuối cùng chỉ là một nhà thơ xuất chúng. Hay trong văn của ông đã có thơ và trong thơ là cả trời đất.

© 2023 DCVOnline

 

 

28 Tháng Tám 2015(Xem: 17815)
Liệu Đế quốc Trung Cộng có "may mắn" thoát được số phận tan vỡ ra từng mảnh hay không và phe nào sẽ thắng thế trong cuộc tranh chấp quyền lực đẩm máu ?
07 Tháng Ba 2015(Xem: 43077)
Và mặc dầu còn có những bất cập đủ thứ, tôi vẫn phải nhìn nhận rằng, những năm tháng còn lại, kể từ ngày ấy, mỗi giây phút năm tháng sống, học hành, lớn lên thành người thời đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam vẫn là những năm tháng ân sủng cho tuổi trẻ của tôi và những bạn bè cùng trang lứa.
27 Tháng Hai 2015(Xem: 19551)
Luận đề của "Đoạn Trường Tân Thanh" hiển nhiên là thuyết "tài mệnh tương đố"", gọi nôm na là "hồng nhan bạc mệnh".
24 Tháng Giêng 2015(Xem: 27030)
Phần người viết nhìn bức hình cũ kỹ đã gần nửa thế kỷ với tâm trạng đầy... xúc động. Bởi vì đúng như ông bà mình thường nói rằng nghe cả hàng ngàn lời nói đọc cả hàng vạn chữ viết mô tả cũng không sao bằng...
28 Tháng Mười Một 2014(Xem: 22120)
Sức mạnh của chúng ta là phải biết họ là ai và cho họ biết chúng ta là ai? Sau đó phải biết cất lên tiếng nói. Nói thì sống, không nói thì chết.
14 Tháng Mười Một 2014(Xem: 29672)
Vào ngày chủ nhựt qua mùng 9 tháng 11 , nước Đức và Âu Châu đã ăn mừng kỷ niệm 25 năm Bức Tường Bá Linh Sụp Đỗ (1989 - 2014) .
11 Tháng Chín 2014(Xem: 38116)
Viết cho Nguyễn Xuân Hoàng - người bạn đã một thời cùng chung dưới mái trường của Platon, hiện đang ở bên bờ tử sinh.
05 Tháng Bảy 2014(Xem: 36544)
Đọc sách báo ngày nay viết về cái chết của Hai Bà Trưng tôi hay bị "tẩu hỏa nhập ma" và phân vân tự hỏi: Hai Bà Trưng chết kiểu nào?
28 Tháng Sáu 2014(Xem: 30652)
• Việt Nam trong thế kỷ 20 vừa qua có ba điều bất hạnh xảy ra trùng hợp:... Trong ba cái bất hạnh ấy, cái thứ ba là nguy hiểm và tồi tệ nhất.
23 Tháng Tư 2014(Xem: 21875)
Gabriel Garcia Marquez, 87 tuổi, văn hào người Colombia nổi danh khắp thế giới với tác phẩm “Trăm Năm Cô Đơn,” qua đời hôm Thứ Năm 17 tháng 4, 2014, tại Mexico City, nơi ông đã sống 30 năm cuối đời.
20 Tháng Ba 2014(Xem: 38998)
Với khuôn khổ một tờ Kỷ Yếu có tính cách nội bộ như tờ đặc san này, những dòng “Vẻ Vang Dân Ngô Quyền” (mượn chữ của ký giả Trọng Minh) cũng có thể được hiểu như một sự chia sẻ chút niềm hãnh diện “giống nòi” giữa chúng ta,
02 Tháng Ba 2014(Xem: 16300)
Ôn lại Lịch Sử nước ta với hơn 4000 năm từ Họ Hồng Bàng với truyền thuyết con Rồng Cháu Tiên qua chương trình "Việt Nam Quê hương tôi" vào mỗi tuần với Phương Anh
27 Tháng Hai 2014(Xem: 39612)
Mới đây đọc báo Reader’s Digest thấy người ta nói đến những ích lợi của cái CƯỜI, trong đó có nói là cười nhiều có thể làm cho người ốm bớt đi. Lý do gì mà các nhà khảo cứu lại quả quyết như vậy?
31 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 14110)
Không kể những cuộc xâm lấn nhỏ, đã có 13 lần phương Bắc xua đại quân xâm lấn phương Nam, đặc biệt Việt Nam. Nhưng trong tất cả 13 lần đó, Dân Việt đều đại thắng các đoàn quân Phương Bắc. Đã mười ba lần, Dân ta đại thắng !
21 Tháng Mười Một 2013(Xem: 50536)
Nguyễn Chí Thiện và Nguyễn Đắc Kiên. Hai nhà thơ. Hai thế hệ- Hai hoàn cảnh một từ trong cảnh tù đầy 27 năm cộng lại tại miền Bắc- một trong hoàn cảnh đất nước đã độc lập với tư cách nhà báo-.
13 Tháng Sáu 2013(Xem: 28950)
Có nhiều hình thức phản biện lại một xã hội tùy theo hoàn cảnh mỗi người và tùy hoàn cảnh xã hội và ngày nay tùy thuộc vào tình hình thế giới nói chung.
30 Tháng Tư 2013(Xem: 31461)
Chúng ta hy vọng rằng Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong tiết lộ những bí ẩn về biến cố 30.4.1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực
19 Tháng Tư 2013(Xem: 90758)
Trong tầm mắt của tôi thì Tây Nguyên là một Amazon của Việt Nam thu nhỏ lại về mọi mặt. Về mặt lịch sử, nó là di sản của con người Tây Nguyên từ bao đời nay...
06 Tháng Tư 2013(Xem: 70127)
Đọc xong tập sách mỏng, gấp sách lại, tôi cảm thấy một cái gì nhẹ nhõm len vào tâm hồn. qua những dòng tâm bút của một cô gái trẻ..
29 Tháng Ba 2013(Xem: 95891)
Chắc chắn và không thể chối cãi được sự có mặt trong Hoàng Cung của Bà đã thay đổi bộ mặt Hoàng Cung. Nhưng điều quan trọng hơn cả, Bà trở thành biểu tượng, mẫu hình lý tưởng ...
22 Tháng Ba 2013(Xem: 102952)
Phạm Duy là một con người, như mọi người. Ông đã sống tận cùng đời sống của ông, ông đã hiến tận cùng những gì ông có trong trái tim ông và thân xác ông.
30 Tháng Giêng 2013(Xem: 139494)
Nhưng câu hỏi cuối cùng được đặt ra: từ đâu Nguyễn Tất Nhiên lại có tánh lãng mạn đa tình quá vậy để dễ dàng "phóng bút" sáng tác thơ tình cho nhiều nhân vật nữ?.
25 Tháng Giêng 2013(Xem: 154098)
Mới đây, tôi có dịp đọc cuốn ''Bên thắng cuộc'' của Huy Đức do một người bạn trẻ- giáo sư đại học ở Canada- với lời giới thiệu khá nhiệt tình- :Đọc cuốn này chưa? Rất hay, còn nóng hổi.
29 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 120570)
Hầu hết những bé gái sinh ra đều quấn trong một tấm tã... Nhưng có những bé gái ra đời được quấn trong tã bọc điều, biểu tượng của giàu sang phú quý.
08 Tháng Mười Hai 2012(Xem: 159721)
Xin gởi đến quý vị lời chia sẻ của một triệu phú 40 tuổi là bác sĩ giải phẩu thẩm mỹ, bị ung thư phổi thời kỳ 4, về kinh nghiệm sống của mình vào ngày 19/1/2012. Anh qua đời vào ngày 18/10/2012.
31 Tháng Mười 2012(Xem: 148869)
Kể từ đó, miền Bắc không có văn học nữa. Đảng qua Tố Hữu, Trường Chinh đã chôn sống các nhà văn như chôn sống địa chủ.
27 Tháng Bảy 2012(Xem: 164892)
Nhưng nói chung, ngồi chuyện ăn uống cẩn thẩn, tập thể dục hàng ngày, chúng ta cần giữ được cho tinh thần thoải mái, ít lo phiền, biết nghỉ ngơi, biết đủ, là thấy mình đi trên con đường tới hạnh phúc.
16 Tháng Bảy 2012(Xem: 157749)
Bài Văn Tế sau đây do cố Kiến Trúc Sư Đỗ Hữu Nam (vừa mệnh chung ngày 13 tháng 7 năm 2012, tại Biên Hòa) viết và đọc nhân ngày Sinh Hoạt Truyền Thống của nhóm Cựu Học Sinh Phan Chu Trinh, để thành kính dâng lên các vị Thầy đã khuất.
19 Tháng Năm 2012(Xem: 160110)
Bài viết sau đây của tôi là để chỉnh sửa và bổ túc thêm thêm vào một bài viết trước đây về Phạm Duy. Đó là bài Phạm Duy còn đó hay đã chết?
04 Tháng Năm 2012(Xem: 168641)
Đây là, chẳng phải ai khác, mà là những người di tản, những rác rưởi 37 năm trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?
03 Tháng Năm 2012(Xem: 164075)
Những ngày đầu tiên đi dạy trường trung học tráng niên Ventura, tham dự những sinh hoạt khác lạ của học trò Mỹ, tôi không khỏi so sánh với những ngày tôi còn dạy ở Việt Nam.
23 Tháng Tư 2012(Xem: 27682)
Sự bộc phát hình như là một định mệnh, không thể ngờ trước được, khi tập Thiên Tai ra đời năm 1970 lúc Nguyễn Tất Nhiên vừa 18 tuổi, bỗng nhiên tên tuổi Nguyễn Tất Nhiên bừng vỡ một cách ngoạn mục.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 42690)
Triết lý giáo dục tìm ở đâu ra? Thưa nó nằm ngay trong bộ Sách Dân Tộc, gọi là KINH ĐIỂN tức là Lĩnh nam Trích Quái, Việt Điện U Linh, Ca dao tục ngữ, Tứ Thư Ngũ Kinh.
14 Tháng Chín 2010(Xem: 43934)
Tôi rời mái trường đại học Đà Lạt để “xuống núi” hành hiệp giang hồ vào giữa năm1963. Năm với nhiều biến động nhất thời tuổi trẻ của tôi. Vậy mà nay đã ngót nghét non nửa thế kỷ trôi qua.
15 Tháng Tám 2010(Xem: 39289)
Nguyễn Văn Lục không là sử gia, không là học giả, không là nhà văn và cũng không bao giờ là chính khách nên không thể quy cho tác phẩm của ông bất kỳ tính chất nào liên quan đến các chức danh đó.
28 Tháng Năm 2010(Xem: 30096)
Phải nói rằng thơ Nguyễn Tất Nhiên là một đóng góp hồn nhiên vào đời sống thi ca của chúng ta, mặc dù chữ nghĩa trong thơ anh - nhiều bài - vẫn còn ở thể quặng mỏ của ngôn ngữ. Nó là một thứ nham thạch ròng chưa bị tính bác học của ngoại lai xâm nhập, thẩm thấu và tác hại như một vài dòng thơ Việt Nam đã và đang chảy ra trong thi ca chúng ta.
06 Tháng Ba 2010(Xem: 43118)
Viết bài này, người viết bày tỏ ở đây một sự nuối tiếc là: Bài viết của nhà thơ Du Tử Lê về Nguyễn Tất Nhiên đã không nói lên được tính chất phối hợp đến kỳ diệu giữa thi ca và âm nhạc. Đó là điều quan trọng nhất cần được nói tới.
18 Tháng Hai 2010(Xem: 87071)
Xuân Con Cọp lại sắp đến rồi. Mà ở cái nơi "phong trần luân lạc" nầy, Tết nhất cũng chả có gì vui. Thôi thì xin mời bạn cùng tôi nhâm nhi dăm ba câu thơ cũ, để gọi là tạm "mua vui" trong khoảnh khắc chờ đợi đón giao thừa nơi xứ lạ.
25 Tháng Giêng 2010(Xem: 97355)
Tôi nhớ câu nói của một ông anh trong vùng tôi đang sống, rằng sau khi hoàn tất một công việc, bao giờ người ta cũng thấy hai túi áo chứa đầy những lời cảm tạ và những lời xin lỗi.
06 Tháng Mười Một 2009(Xem: 67233)
Chủ nhật, ngày 6 tháng 9 năm 2009 vào lúc 1 giờ trưa, Hội An Việt tại Vương Quốc Anh đã tổ chức Đại Lễ Kỷ Niệm 30 Năm Người Việt Tị Nạn Đến Anh Quốc. Buổi lễ dưới sự chủ toạ của ông Vũ Khánh Thành, cựu Giáo Sư Trung học Ngô Quyền, Biên Hòa, Giám Đốc Sáng Lập và Điều Hành Hội An Việt, Nghị Viên Thành Phố Hackney;
25 Tháng Sáu 2009(Xem: 93168)
Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy. Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ. Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.
23 Tháng Năm 2009(Xem: 32450)
Trong đại gia đình Ngô Quyền hầu như ít nhiều ai cũng biết đến Thầy Vũ Khánh Thành. Thật vậy, ngoài lãnh vực giáo dục, từng là Giáo sư dạy môn Triết học tại trường Ngô Quyền chúng ta năm xưa. Từ lúc định cư tại Anh Quốc đến nay, Thầy không ngừng tích cực dấn thân hoạt động trên bình diện xã hội, văn hóa và chính trị cho cộng đồng Việt Nam tại đây.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 77996)
  Riêng dòng sông Đồng Nai, với nguồn nước thanh khiết từ trên thượng nguồn đổ xuống, đã tạo nên một môi trường sống cho người dân tỉnh Biên Hòa và các tỉnh lân cận.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 74479)
Bài sưu tầm này được viết vào tháng 4 năm 2004, tức là 48 năm sau ngày trường Ngô Quyền được thành lập vào năm 1956, và chỉ được căn cứ vào trí nhớ của các ông Phan Thanh Hoài, Kiều Vĩnh Phúc, Lê Hồng Sanh, và cựu học sinh Đào Văn Công (khóa đầu tiên). Do đó, không khỏi thiếu sót về thành phần nhân sự giảng dạy, văn phòng v.v…
05 Tháng Hai 2009(Xem: 39146)
  Trường Trung Học Ngô Quyền được điều hành bởi một Ban Giám Đốc, đứng đầu là Hiệu Trưởng
04 Tháng Hai 2009(Xem: 39537)
Dĩ nhiên, đám học trò chúng tôi thích lắm, vì ý tưởng lạ đó không tìm thấy được trong Việt Nam Sử Lược của sử gia Trần Trọng Kim hay trong Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 47004)
Một cuộc biển dâu, đổi đời, tang thương đã diễn ra quá nỗi bi đát. Biên Hòa còn đó, mà lòng Biên Hòa đã mất tự bao giờ. Nay tuổi đời đã cao, nghĩ đến thời son trẻ, mà ngậm ngùi tiếc nuối quá khứ. Công đã tạm thành, danh đã tạm toại, nhưng tâm hồn tôi vẫn ngậm ngùi nhớ tiếc những phút giây hạnh phúc đầu tiên, đã qua mất rồi.
02 Tháng Hai 2009(Xem: 46095)
Những ngày xa quê hương, lưu lạc xứ người, bận biụ với cuộc sống, tôi luôn luôn nhớ về quê nhà, nhớ về xứ Cù Lao với dòng sông Đồng Nai yêu dấu; gần đây tôi có tìm đọc thêm về xứ Đồng Nai thuở ban sơ cùng sự nghiệp khai sáng miền Nam của Ngài Nguyễn Hữu Cảnh. Nay tôi xin ghi lại những sự kiện, kiến thức tìm học đựơc bằng tấm chân tình cuả người con đất Cù Lao Phố, Đồng Nai.
01 Tháng Mười Một 2008(Xem: 146918)
Ngô Quyền ( chữ Hán : 吳權 ; 898 – 944 ) là một vị tướng và sau này là vua Việt Nam, là người sáng lập ra nhà Ngô . Năm 938 ông cầm quân đánh tan quân xâm lược Nam Hán tại sông Bạch Đằng,
26 Tháng Năm 2008(Xem: 23387)
Nếu không tính nền giáo dục duới thời phong kiến thì Truờng tiểu học Nguyễn Du, Truờng trung học Ngô Quyền, Truờng bá nghệ Biên Hòa là những ngôi truờng đầu tiên trên vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai.