Nhận định về ba vai trò của Bảo Đại: Vua, Cố vấn tối cao, và Quốc trưởng (P13)
Tôi nhận xét là trong giai đoạn từ 1947 trở đi, ông Bảo Đại mới bày tỏ một sự quan tâm đặc biệt đến chính trị mà trước đây ôngi xem ra lơ là. Sự lơ là trước đây cho thấy, ông hiểu được vai trò bù nhìn mà người Pháp đặt để cho ông lúc làm vua.
Tìm hiểu con người Bảo Đại qua cuốn Hồi ký của ông
Con đường lên làm Quốc Trưởng của Bảo Đại
Khi vai trò chính trị của ông có đổi khác cho thấy sự quan tâm đến những vấn đề thời sự chính trị, tình hình Việt Nam và ngay tình hình trên thế giới của Bảo Đại có sự thay đổi.
Sở dĩ có vấn đề đó là khi đó Bảo Đại là nơi mà đủ mọi lãnh tụ thuộc đủ mọi khuynh hướng chính trị tìm đến ông, tiếp súc, trao đổi và cũng không thiếu các đề nghị để ông nắm giữ các vai trò chính trị. Chính thức, ông vẫn cho mọi người thấy là ông không ham quyền hành. Nhưng các phần tử quốc gia đến với ông đều bày tỏ ý muốn của họ mong muốn ông một lần nữa ra nắm vận mệnh đất nước. Ông bày tỏ chỉ khi nào toàn thể quốc dân mong muốn ông ra lại thì ông sẵn sàng. Nhưng nếu chỉ có một nhóm người thì chưa phải là một xứ sở, cho nên cần có cả một quốc dân đại hội mời gọi tôi.
Theo tôi, càng có sự mâu thuẫn không tương nhượng được giữa Hồ Chí Minh và người Pháp thì giải pháp Bảo Đại càng sáng giá.
Chúng ta chỉ cần xem lại những lời tuyên bố của Hồ Chí Minh trong nỗ lực đi tìm một giải |pháp cho bài toán Việt Nam sẽ thấy rõ.
“Ngày 8 tháng bảy, năm 1947, nghĩa là chiến tranh giữa đôi bên đã xảy ra gần một năm, Hồ Chí Minh vẫn chủ trương:
‘Mục đích đầu tiên của Việt Nam nếu chấm dứt được chiến tranh là xóa đói và sự ngu dốt, và chúng tôi muốn gia tăng sản xuất. Và muốn đạt được điều ấy, chúng tôi cần vốn, chuyên viên kỹ thuật và lao động. Dân tộc Việt Nam sẽ cung cấp chuyên viên kỹ thuật và lao động cộng với cung cấp nguyên liệu, nhưng chúng tôi sẵn sàng đón nhận vốn tư bản từ Pháp và ngoại quốc trong mưu cầu lợi ích chung của đôi bên.”
Cụ thể và rõ rệt hơn nữa, vào tháng 3, năm 1947, Hồ Chí Minh kêu gọi chính quyền Pháp và nhân dân Pháp như sau:
“Một lần nữa, chúng tôi long trọng tuyên bố nhân dân Việt Nam ước mong thống nhất và độc lập trong Liên Hiệp Pháp và chúng tôi sẵn sàng tôn trọng quyền lợi kinh tế cũng như văn hóa của người Pháp ở đây..Nếu nước Pháp chấm dứt ngay sự thù địch và nhờ thế cứu được nhiều sinh linh cũng như tài sản của dân chúng. Và nhờ thế lấy lại được sự tin tưởng và thân hữu giữa đôi bên.” (Message de Paix adressé par le Président Ho Chi Minh au Peuple et au Gouvernement Francais. P11. Trich lại trong Ellen J. Hammer, The Struggle for Indochina, trang 203-204.)
Những cố gắng ấy cũng như sau này của người Pháp gửi giáo sư Paul Mus một mình đi vào bộ tham mưu của Việt Minh, ở về phía Bắc Hà Nội cũng không đạt được kết quả cụ thể gì.
Và cuộc chiến tranh tiếp diễn. Một phần vì một số đông người Pháp cũng như người Việt trong vùng Pháp chiếm đóng không muốn thương thuyết tay đôi, trực tiếp với Việt Minh. Phần khác, Bộ trưởng bộ chiến tranh của Pháp là ông Paul Coste-Floret, sau chuyến viếng thăm Việt Nam về tin tưởng rằng cần phải gửi sang Việt Nam một số quân lính vào khoảng 500.000 người thay vì 115.000 như hiện có. Người Pháp vẫn làm chủ các thành thị và sự đi lại giao thương vẫn tốt đẹp.
Chính vì thế, họ nghĩ cần đi tìm một nhà lãnh đạo khác, thiết lập một chính phủ có thể đương đầu với cộng sản. Giải Pháp về sự trở lại chính trường của Bảo Đại mỗi ngày thêm rõ rệt và uy tín của Bảo Đại ngày một tăng lên.
Vào cuối những năm 1946 cho đến năm 1947-1948, mối liên hệ giữa Pháp-Việt Minh càng trở nên xấu và vô phương giải quyết, vai trò Bảo Đại càng được nhắc nhở tới nhiều. Giải pháp của Pháp đưa thủ tướng Nguyễn Văn Hinh làm thủ tướng bù nhìn tại miền Nam Việt Nam là một trò hề chính trị đưa đến vụ tự tử oan nghiệt của vị thủ tướng này.
Thay đổi quan trọng nhất của Bảo Đại là vào ngày 21 tháng 3, 1947, từ trong chiến khu, Hồ Chí Minh gửi một thư cho người Pháp như đã trích dẫn ở trên. Được một nhà báo thuộc cơ quan United Press hỏi, ngài cố vấn sẽ giữ vai trò gì trong việc thương thuyết với người Pháp.
Nhân dịp này, Bảo Đại đã trả lời: “Không tôi sẽ không thương thuyết với người Pháp với tư cách cố vấn tối cao.”
Từ đó, Bảo Đại phủ nhận chính thức cái chức vụ do Hồ Chí Minh ban cho. Phần khác, vì nay có một phong trào “Mặt trận Thống nhất Quốc Gia” do các lãnh đạo Cao Đài, Hòa Hảo, đảng dân chủ xã hội vừa lập ra một mặt trận “Mặt trận Quốc Gia chống Phát Xít”. Mặt trận này tôn xưng Bảo Đại là lãnh tụ của Mặt Trận.
Một trong những lãnh tụ gần gũi với Bảo Đại, đặc ủy viên của Bảo Đại khi ở Hồng Kông về Sài Gòn, ông Trần Văn Tuyên cũng tuyên bố:
“Cựu hoàng không phải là cố vấn tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh. Ngài sẽ ân cần thỏa thuận cho Việt Minh tham gia ý kiến trong cuộc thương thuyết với nước Pháp do Người hướng dẫn miễn là Việt Minh phải thành thật và đừng tự coi mình hơn các đảng phái khác. (..) Nếu mai đây, nước Pháp thương thuyết với Hồ Chí Minh thì tất cả những người Quốc gia sẽ nhất tề nổi dậy chống cả Pháp lẫn Hồ Chí Minh.” (Nghiêm Kế Tổ, ibid., trang 110)
Thay đổi quan trọng thứ hai là việc thay thế Thierry d’Argenlieu bằng Bollaert. Thay đổi này có ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai chính trị của Bảo Đại. Bollaert trong dịp này đã tuyên bố:
“Nước Pháp sẽ duy trì sự có mặt của mình trong Liên Hiệp Đông Dương. Đấy là trọng tâm chính sách của chúng tôi. Chúng tôi mong muốn được tiếp xúc với mọi đại diện của mọi đảng phái đến với chúng tôi. Tôi nói mọi đảng phái và chúng tôi không nhìn nhận bất cứ một đảng phái có độc quyền để đại diện cho dân tộc Việt Nam.” (Le Monde, may, 1947, trích lại trong Ellen Hammer, ibid., trang 209.)
Chính vì thế, Bollaert đã cho người tiếp xúc với Bảo Đại từ tháng ba, 1947 tại Hồng Kông. Trong số ấy, có những thành phần lãnh đạo của VNQDĐ và Đồng Minh Hội.
Và cho đến mùa hè năm 1947, nhiều người Việt Nam đã sẵn sàng và hoan hỉ coi Bảo Đại như một người đại diện chính thức của họ để đối đầu với Việt Minh.
Phải chăng đây là giai đoạn sáng giá nhất trong cuộc đời làm chính trị của Bảo Đại?
Ông tuyên bố sẽ không về Việt Nam trừ khi nhân dân Việt Nam muốn ông trở về. Cuối năm 1947, Bà Hoàng Hậu và con cái đã có mặt tại Pháp. Thế giá Bảo Đại càng cao. Các vị trong hoàng tộc như giáo sư Bửu Hội từng có chút tiếng tăm ở bên Pháp đã gặp bà Hoàng và sẵn sàng quy tụ thành phần Quốc gia sau lưng Bảo Đại. Nhưng người có thế giá hơn cả là Hoàng thân Bửu Lộc, một nhà ngoại giao kỳ, họ hàng thân thích với cả Bửu Hội và Bảo Đại sau này trở thành người cố vấn, cánh tay mặt của Bảo Đại.
Về phía người Mỹ, có ông William C. Bullit, cựu đại sứ Mỹ tại Pháp đã từng viếng thăm Đông Dương vào năm 1947 cũng như từng gặp Bảo Đại ở Hồng Kông. Sau này lại có dịp gặp lại Bảo Đại ở Genève (1948). Ông là người có tiếng nói được người Pháp kính nể. Ông cũng là người có chủ trương ủng hộ Bảo Đại và được coi như thể đó là chính sách của người Mỹ tại Đông Dương và được đa số các thành phần người Quốc gia tán đồng.
Một mặt ông làm áp lực để phía người Pháp nhượng bộ hơn nữa các đòi hỏi của Bảo Đại. Một mặt ông khuyến khích Bảo Đại phải đòi cho được độc lập.
Phía Việt Nam, một mặt trận Liên Hiệp quốc đân được thành lập vào mùa hè năm 1947 kêu gọi mọi thành phần đảng phái, tôn giáo, các nhóm xã hội đoàn kết dưới quyền Bảo Đại. Họ thúc đẩy cựu hoàng nhận lãnh vai trò lãnh đạo phong trào tranh đấu cho một Việt Nam thống nhất và độc lập để chống lại điều mà họ gọi là sự khủng bố đỏ.
Họ cũng không hoàn toàn tán thưởng về lời tuyên bố của Bolllaert tại Hà Đông kêu gọi thương thuyết với mọi đảng phái.
Phần bảo Đại, có thể ví ông như một tay đánh bạc trong khi một đám chính khách ngồi chầu rìa và những tay đứng ngoài cá cược với nhau về cơ may được thua. Mọi người hình như ai cũng biết rõ lá bài ông định chơi và điểm yếu cũng như điểm mạnh của ông. Nhưng người ta tự hỏi, liệu ông có đủ bản lĩnh để chơi canh bài này không hay sẽ để cho người Pháp hay cả Việt Minh lợi dụng?
Nhưng Bảo Đại hơn ai hết hiểu rõ vai trò của mình, một vai trò không ai thay thế được và chỉ mình giữ con bài tẩy.
Bảo Đại viết trong Hồ ký của mình như sau:
“Người ta thường nghĩ rằng trong tay tôi chẳng có gì nhiều, ngay cả tính đại diện của tôi cũng cần phải bàn cãi. Nói như thế là coi nhẹ một yếu tố chính yếu, ở chỗ ngay từ nhỏ, tôi đã đại diện chính thống cho một triều đại, là Đấng Thiên tử, là Con Trời, được Trời trao sứ mệnh trị vị thần dân. Có lẽ chỉ mình tôi nhận thấy tính đại diện chính thống này. Nó không thể được coi như một luận cứ trong một đàm phán ngoại giao, cũng không thể viện ra ngay từ đầu. Tuy nhiên nó vẫn hiện hữu, mạnh mẽ hơn mọi bất cứ luận cứ nào. Chắc chắn là những ai không phải là người Việt Nam thì không cảm nhận được điều đó mà người ta cũng không thể thuyết phục được ai cả. Khi tôi phản ứng hay tỏ thái độ, những người đối thoại với tôi không thể hiểu được, họ chỉ đưa lý lẽ giữa con người với nhau, ngang tầm với họ, hợp với trình độ của họ.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 207)
Nhưng chính ở chỗ tự tin như thế, phải chăng Bảo Đại đã bỏ mất cơ hội cứu vãn Việt Nam?
Trong một số báo l’Hístoire, họ đã dành để viết về chủ đề: Le Vietnam depuis 2000 ans. Tác giả Chirstopher Goscha, trong bài nhan đề: Bao Đai, Monarque colonial đã nhận xét như sau về Bảo Đại:
“Toutefois, au lieu de presser les Français d’accorder une véritable indépendance, Bao Dai se retire à Dalat, fuit les tournées impériales, rejette l’idée qu’être vu de son peuple peut s’avérer un moyen d’efficacité gouvernementale. Ce refus obstiné contrarie aussi bien les Français que les nationalistes qui le croyaient capable de retourner contre les Français et les communistes l’artillerie symbolique de la royauté. Sa vie de « playboy » inspirait peu d’espoir. C’est à partir de ce moment que Bao Dai est resté gravé dans les mémoires sous les traits d’un pantin colonial.” (L’Histoire, Le Viet Nam depuis 2000 ans. Jan 7, 2014. Bao Dai, monarque colonial, texte traduit de l’anglais par Agathe Larcher-Gosha. Christopher Goscha, trang 39.)
“Tuy nhiên, thay vì gây sức ép với người Pháp để dành được một nền độc lập chân chính. Bảo Đại rút lui về Đà Lạt, tránh các buổi đi thăm chính thức của hoàng gia, thường không muốn xuất hiện trước dân chúng, một trong những phương tiện hữu hiệu của người cầm quyền. Điều đó cũng gây bực dọc cho những người Pháp cũng như những nguời Quốc Gia vì họ tin rằng ông có thể đối đầu được với cả cộng sản và người Pháp chỉ nhờ vào cái tước vị hoàng gia của mình. Cuộc sống “ăn chơi” của ông đã cho thấy đem lại rất ít hy vọng. Và kể từ lúc đó, hình ảnh Bảo Đại ăn sâu vào ký ức mọi người, ông chỉ là một con rối chính trị của chế độ thuộc địa.”
Người Pháp chọn giải pháp Bảo Đại
Có thể nói, người có vai trò quan trọng trong việc hồi hương của Bảo Đại về nước là ông Nguyễn Văn Xuân. Nguyễn Văn Xuân từ Pháp trở về Saigon vào tháng 9 năm 1947. Ông được kể là một trong những người Việt Nam giữ chức vụ cao nhất trong quân đội Pháp. Từ đại tá thăng lên tướng trong quân đội Pháp. Ông là người chủ trương Nam Kỳ tự trị tách ra khỏi Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Khi về Việt Nam, chính phủ Lê Văn Hoạch thay thế thủ tướng Nguyễn văn Thinh tỏ ra bất lực không được sự ủng hộ của dân chúng và nhất là thất bại trong việc giữ gìn an ninh chung.
Chính phủ Lê Văn Hoạch bắt buộc từ chức và Nguyễn Văn Xuân được một số nhà chính trị ủng hộ để thành lập một chính phủ thứ ba vào đầu thang 10, 1947.
“Trong suốt năm 1948, Nguyễn Văn Xuân đã đi khắp các nơi tìm kiếm sự ủng hộ của nhiều lãnh tụ trong việc ủng hộ Bảo Đại về nước. Kết quả là vào tháng năm, 1947, Nguyễn Văn Xuân đã có thể quy tụ được mọi thành phần phe phái khác nhau có một buổi họp tại Sài Gòn. Có 11 người từ Bắc Kỳ, 7 từ Trung Kỳ và 20 người từ Nam Kỳ. Trong số ấy có những người như Lê Văn Hoạch, giáo chủ Cao Đài Phạm Công Tắc và ông Trần Quang Vinh cũng là Cao Đàì.” (Ellen Hammer, Ibid., trang 221)
Thật ra thì những người trên ủng hộ Bảo Đại hơn là Nguyễn Văn Xuân. Tuy nhiên, ông này đã đưa ra một lá thư của Bảo Đại ủng hộ việc thành lập một chỉnh phủ lâm thời. Nhờ lá thư của Bảo Đại, Nguyễn Văn Xuân đã đạt được số phiếu ủng hộ thành lập chính phủ là 37 phiếu thuận, và một phiếu trắng.
Sau đó, Nguyễn Văn Xuân đã đi Hồng Kông trình diện Bảo Đại. Vào tháng sáu, Nguyễn Văn Xuân Đã ra Hà Nội cùng với Trần Văn Hữu tuyên bố thành lập một chính phụ trung ương lâm thời.
Trong Nam, người phản đối Nguyễn văn Xuân là Nguyễn Phan Long. Ông này cho rằng chính phủ Nguyễn văn Xuân không có khả năng về quyền lực cũng như về uy tín để có thể tái lập hòa bình.
Thật vậy, nhiều người đã từ chối lời mời gia nhập nội các của chính phủ Nguyễn Văn Xuân. Ông gặp nhiều khoa khăn trong việc tìm người gia nhập chính phủ. Vì thế, chính phủ của Nguyễn Văn Xuân thiếu tính đại diện hay tính quần chúng và có rất ít thực quyền.
Phần Bảo Đại, ông cũng không hẳn hoàn toàn tin tưởng vào chính phủ Nguyễn Văn Xuân và phát ngôn viên của Bảo Đại cho hay Bảo Đại sẽ không về nước khi nào Việt Nam chưa được người Pháp trao trả độc lập.
Bảo Đại quyết định rời Hồng Kông
Hoàng đế Bảo Đại, Cao ủy Bollaert, Tướng Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu. Hàng thứ hai Tướng Blaizot, Đô đốc Battet và Tướng Boyer de la Tour. Tháng 12 năm 1947 trên tàu Duguay Trouin trên Vịnh Hạ Long.
Sau khi đạt được một tuyên bố chung ký kết ngày 5 tháng 6, tại vịnh Hạ Long giữa ông Emile Bollaert, Cao Ủy Pháp ở Đông Dương và tướng Nguyễn Văn Xuân, thủ tướng lâm thời của Quốc gia Việt Nam [Thủ tướng Cộng hòa tự trị Nam Kỳ, 8 tháng 10, 1947 – 27 tháng 5, 1948], với sự hiện diện của Bảo Đại ngày 5 tháng 6, năm 1948.
Thật ra Bản Tuyên bố chung này không đem lại một nội dung nào mới mẻ như Bảo Đại mong muốn và dư luận khắp nơi tỏ ra chống đối.
Việt Minh lợi dụng dịp này tố cáo đó là một sự phản bội. Không ai bị lừa vì đó chỉ là thứ độc lập trên giấy tờ. Độc lập thật sự chỉ khi nào không còn bóng dáng người lính Pháp nào trên đất Việt Nam.
Bộ máy tuyên truyền của cộng sản qua nhân vật Trần Huy Liệu tố cáo chính phủ Nguyễn Văn Xuân là chính phủ bù nhìn, rơi vào bẫy của Pháp
Ngoài Nguyễn Văn Xuân, phía Việt Nam còn có các ông Nghiêm Xuân Thiện, Đặng Hữu Chí, Phan Văn Giáo, Nguyễn Khoa Toàn, Đinh Xuân Quảng, Trần Văn Hữu, Lê Văn Hoạch..
Sau dịp ký kết này, Bảo Đại coi như một sứ mạng đã hoàn tất và quyết định rời khỏi Hồng Kông sang Pháp gặp lại gia đình. Ông nhìn nhận Bản Tuyên Bố Chung chưa hoàn hảo, nhưng đã có ghi một cách chính thức chữ Thống Nhất và chữ Độc Lập trong đó.
Máy bay đã bay qua Huế rồi ghé Bangkok. Từ đó chuyển sang hãng máy bay để đi tói Rangoon, Calcultta, New Delhi, Le Caire, Tripoli, Tunis và đến phi trường Bourget.
Trước kết quả dở dang của Bản tuyên bố chung, Bảo Đại đã giao công việc soạn thảo một văn bản mới do các ông Nguyễn Mạnh Đôn, Bửu Lộc, Nguyễn Đắc Khê, Nguyễn Quốc Định tiếp túc công việc giao tiếp với Pháp để đi đến một thỏa thuận bền vững hơn.
Người Pháp lại một lần nữa yêu cầu Bảo Đại trở về Sài Gòn. Bảo Đại đã từ chối và cho hay: Je ne rentrerai pas au Viet Nam les mains vides. (Tôi không trở lại Sài gòn với hai bàn tay không.)
Bollaert lại tìm cách tiếp xúc với Bảo Đại. Bảo Đại từ chối và nhất định không chịu quay trở về sài Gòn. Và Bảo Dại viết về buổi tiếp xúc thất bại của Bollaert như sau:
“Je le regarde partir. C’est un homme abattu qui se retire” (Tôi nhìn ông ta ra về. Đó là một con người hoàn toàn thất bại đã rút lui) (S.M. Bao Dai, ibid., trang 211)
(Còn tiếp)
Nguyễn Văn Lục
Nguồn: DCVOnline