Nhận định về ba vai trò của Bảo Đại: Vua, Cố vấn tối cao, và Quốc trưởng (P6)
Nhân chứng miền Nam: ký giả Nguyễn Kỳ Nam
“Súng nổ dồn dập..
Sài Gòn sống trong giờ phút kinh khủng.
Dân chúng ngơ ngác hỏi với nhau:
Chuyện gì? Súng nổ ở đâu? Ai bắn?
Các ngã đường đều có lính Nhật canh gác.
Các nhà báo được tin này từ hồi sớm vì Kimura, giám đốc sở tuyên truyền Nhật, mời vài nhà báo ăn cơm tại một nhà hàng ở đại lộ Galliéni vào lúc 7 giờ, để rồi đưa hết lên lầu Đông Dương Ngân hàng là nơi thông tấn xã Domei đặt trụ sở, có đủ mặt ký giả Nhật.
Đại úy Suzuki, giám đốc cơ quan tuyên truyền báo chí Nhật nói: Đó là tiếng súng lật đổ chính quyền Pháp ở Đông Dương.”
Vân Trình và tôi ở báo Điển Tín viết bài: “Giờ lịch sử đã đến.”
(Nguyễn Kỳ Nam, ibid., trang 120)
“Sự xuất hiện rõ rệt là ở nhiều nơi binh sĩ Cao Đài, mặc quần sọt, áo sơ mi ngắn tay, đội caloo vàng, đi giày xăn đan, tay cầm tầm vông canh gác các cơ sở cùng với lính Nhật. Phần các công chức từng làm việc cho Pháp vẫn trở lại làm việc bình thường.
Các nhà làm chính trị cơ hội như Hồ Văn Ngà yêu cầu dân chúng hô các khẩu hiệu: Đại Đông Á vạn tuế. Quân đội Nhựt toàn thắng. Việt Nam thống nhứt vạn tuế.
Đến lượt ông Trần Quang Vinh, đạo Cao Đài cũng lên diễn đàn cùng luận điệu.
Về hành chánh, các đốc phủ sứ Việt Nam được thay thế Pháp làm Tỉnh trưởng.”
Lúc bấy giờ Nhật đang hấp hối mà nào có ai biết.
Cuộc biểu tình đầu tiên ở Sài Gòn ngày 18 tháng 3 quy tụ đến 50.000 người tại vườn ông Thượng.”
(Nguyễn Kỳ Nam, ibid., trang 152-164)
Nhân chứng miền Bắc: Đoàn Thêm, Những ngày chưa quên, Ký sự 1939-1954
“Decoux theo chỉ thị của Pétain nên hình ảnh Pétain được in bán và treo tại các công sở, nhà hát lớn hay tòa thị sảnh. Người ta còn nhớ đến những bài hát: Thống chế ơi, có chúng tôi đây. (Maréchal, nous voilà). Decoux cũng phân loại những người Pháp theo kháng chiến hay Hội kín Franc-Maconnerie. Như thế, rõ ràng tâm tình người Pháp cũng chia rẽ, kẻ theo Pétain. Phần còn lại, phần lớn cũng có cảm tình với De Gaulle một cách kín đáo. Nhiều người Pháp bỏ trốn qua Vân Nam theo Đồng minh và De Gaulle.
Đến khi Nhật tràn từ Quảng Tây sang Lạng Sơn thì nhiều người Việt tin rằng phen này Pháp thua ra mặt và Nhật sẽ giúp Việt Nam thoát ra khỏi ách đô hộ thực dân. Nhiều người nhân dịp này bày tỏ thái độ công khai chống Pháp ra mặt coi như một vận hội mới sẽ đến cho Việt Nam. Họ nghĩ rằng, nếu không có Nhật, Việt nam đến bao giờ mới có cơ hội được độc lập?
Số chiến hạm Anh Mỹ bị Nhật đánh đắm được treo ở phong Thông tin Hà Nội.”
“Tuy nhiên, người ta không khỏi ngạc nhiên là quân đội Nhật đóng khắp Đông Dương, đòi gì cũng được, thế mà Pháp vẫn duyệt binh, ra lịnh, dạy học, bán hàng, khai mỏ, thu thuế, cách chức, bỏ tù. Tình trạng này phi lý, nhưng mãi sau, tôi mới tìm ra tài liệu lên hệ để xét lại và hiểu rõ hơn.”
(Đoàn Thêm, Ký sự 1939-1954, trang 15-21).
Thật ra, Nhật đã ký hiệp ước 1940-1941 thừa nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Việc ký kết này giúp Nhật rảnh tay miễn sao Pháp cung ứng đầy đủ nhu cầu cho quân đội Thiên Hoàng. Tuy nhiên, sự duy trì chế độ hành chánh nguyên trạng có lợi cho cả đôi bên Nhật không tốn một viên đạn mà vẫn có tất cả. Pháp thì vẫn giữ quyền làm chủ Đông Dương chờ thời cuộc thay đổi.
Chỉ có người Việt là cảm thấy khó chịu vì vừa chịu một cổ hai tròng. Làm quần quật để nuôi một lúc hai kẻ thù. Và đó cũng là nguyên nhân chính sau này nảy sinh ra nạn đói năm Ất Dậu. Vắt mãi, vắt đến cạn kiệt thì đến một lúc nào đến cái khố cũng không có mà mặc.
Cả chính quyền Quốc Gia của Bảo Đại cũng như chính quyền Việt Minh cả hai đều khoanh tay bất lực!
Mặc dầu quân đội Nhật có mặt khắp nơi, nhưng họ thường kín đáo nên không gây một xáo trộn nào đối với đời sống hằng ngày của dân chúng Việt Nam. Đoàn Thêm nhận xét về người Nhật:
“Họ quen nếp sống giản dị hoặc khắc khổ, chẳng nhũng nhiễu ai, nhưng cũng không thân thiết với ai. Không thấy trẻ thơ lẽo đẽo theo sau quân nhân xin tiền, kẹo hay thuốc lá mà họ cũng chẳng có: không thấy mọc ra tiệm nhẩy hoặc phòng trà, tuy phòng trà xứ họ nổi tiếng khắp hoàn cầu; không thấy người kéo xe cao-xu bỏ đồng bào để tranh chở họ, vì họ đi bộ hoặc dùng xe vận tải nhà binh…”
(Đoàn Thêm, ibid.,trang 22)
“Tinh thần binh sĩ Nhật như vậy thật cũng đáng nể. Sau 1945, khi đồng minh sang giải giáp mới rõ quân số Nhật ở Đông Dương lên đến cả triệu người. Người Việt phải nuôi đám quân cả triệu người ấy thì lấy cơm gạo ở đâu cho vừa. Pháp liền bắt dân quê nộp thóc gạo ngay sau mỗi mùa. Việc nộp thóc gạo là một lệnh rất gắt gao mà các cấp thừa hành ở xã ấp phải thừa hành cho bằng được. Giá thóc lên cao, gạo kém và khan hiếm. Chính quyền Pháp phải ra lệnh phát thẻ để phân phối. Trước mỗi đầu người được phân phối 15 kí, rồi rút xuống 12 kí, sau chỉ còn 8 kí.”
(Đoàn Thêm, ibid., trang 26)
Tới giữa năm 1944, nạn đói đã có dấu hiệu đáng lo ngại.
Đã thế, quân đội đồng minh còn ném bom các đường giao thông vận tải như xe hỏa và cả đường biển.
Theo Đoàn Thêm, “Các vụ ném bom các nhà ga xe lửa Gia Lâm và Hà Nội cuối năm 1943 đã làm chết và bị thương hơn 1000 người ở các làng Lương Yên, Lương Sử. Các trục giao thông bị phá cũng nhiều, nhất là đường Hà Nội-Sài Gòn, nên gạo Nam khó tải ra Bắc và than Bắc khỏ chở vào Nam.” (Đoàn Thêm, ibid., trang 24)
Để giải quyết vấn đề tiếp tế, Decoux đã phát động phong trào kinh tế tự túc, hô hào chế biến tiểu công nghệ thay thế đồ ngoại hóa. Kết quả không thành. Những hàng thiết yếu cho đời sống ngày càng khan hiếm. Nói chung mọi thứ đều khan hiếm và nạn chợ đen, nạn hàng giả ra đời.
Các hội thiện đã lập các trạm cứu tế chung quanh thành phố như Giáp Nhất, Giáp Nhì, Giáp Bát, bãi cát Phúc Xá bên sông Nhị. Nhưng cung cấp sao cho đủ? Người chết đói vẫn chết đói. Nhưng kiều dân Pháp hay người có Pháp tịch, hoặc công chức cao cấp, phú thương, nghiệp chủ vẫn được cung cấp sữa, thuốc lá, cà phê, bột mì, màn tuyn, vải may Âu phục v.v.
Người ta chết đói vì không có ăn cũng có, nhưng còn do sự phân phối bất bình đẳng nói sao cho vừa.
Tôi nghĩ xin trích dẫn một đoạn về nạn đói năm Ất Dậu mà tác giả Đoàn Thêm từng chứng kiến như người trong cuộc:
“Ở nhiều vùng, dân chết cả nhà, cả xóm, hay gần cả làng. Hết gạo, hết khoai, hết chó mèo, hết chim, hết chuột, hết củ chuối, người ta làm thịt con nít. Sự thảm khốc này, dĩ nhiên là khó tin. Nhưng tới năm 1947, nhân dịp tản cư về hạt Xuân Trường, tỉnh Nam Định, tôi đã có lần bước vào một ngôi nhà trống. Hỏi vì sao nơi đây hoang vắng, thì được mách rằng không ai đến ở, vì cả gia đình khổ chủ đã chết từ năm 1945, sau khi nấu một đứa con nhỏ làm món ăn nhựa mận “ăn cho đỡ đói.”
(Đoàn Thêm, ibid., trang 29)
Trong khi đó, ở cung điện nhà vua, ngài Bảo Đại có bao giờ nghĩ đến hoàn cảnh đói khổ của dân miền Bắc?
Rồi Bảo Đại lại được Nhật mời ra lập chính phủ. Nhiều người coi là trò hề. Nhưng dù sao thì cũng phải có cái gì trên đầu chứ? Không vua thì ai bây giờ? Câu trả lời có vẻ như bướng bỉnh, nhưng đấy lại là vấn đề lớn nhất của người Việt Nam. Trong bao nhiêu năm, trong bao nhiêu triều đại đã đi qua, bao nhiêu thể chế lần lượt đến rồi đi.
Chúng ta chưa tìm ra được một người lãnh đạo xứng đáng!
Là một thanh niên sống trong thời khói lửa, đứng trước nhiều phong trào vận động chính trị, sự chọn lựa của người thanh niên đứng về phía nào hẳn không dễ. Nào truyền đơn, bích chương, khẩu hiệu treo khắp thành phố. Máy phóng thanh suốt ngày ra rả những luận điệu tuyên truyền đả kích nhau ở nơi công cộng như Bờ Hồ Hoàn Kiếm, trước của chợ Đồng Xuân, vườn Bông cửa Nam. Nhiều đoàn thể ra đời nghe những tên lạ hoắc: Thanh niên cứa quốc, phụ nữ cứu quốc, nhi đồng cứu quốc, phụ lão cứu quốc… trong tháng chín, tháng mười.
Trước nạn đói chẳng ai đoái hoài, vẫn có một thứ chính trị bất nhân tranh dành giữa Quốc Gia-Việt Minh, cả hai đều là thứ chính trị ma đầu bất kể đến dân.
Ông Đoàn Thêm là một thanh niên ở tuổi 20 thời đó. Ông chỉ khác người là bản tính ông vốn do dự, nghi kỵ tính toán nên vì thế ông chậm chạp trong những chọn lựa của mình. Nhờ chậm, ông chẳng bị đưa đẩy vào bất cứ phong trào nào cho đến lúc “cách mạng” bùng nổ.
Nhiều thanh niên khác sốc nổi theo sự bồng bột đã chọn lựa theo Pháp, gia nhập hàng ngũ quân đội Pháp sau này hoặc lang bạt xứ người, hoặc chết trận hoặc phần đông trở thành các sĩ quan trong quân đội Quốc Gia. Chắc họ không nghĩ mình chọn sai đường?
Một số nhỏ chạy theo đảng phái, nhưng giới thanh niên cho rằng các lãnh tụ này họ về nước quá chậm, theo chân quân đội Trung Hoa kéo sang giải giới Nhật, dễ bị mang tiếng theo thế lực ngoại quốc. Nhiều đoàn thể quá, nào Việt Nam Quốc Dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách mệnh đồng minh hội (Việt Cách). Biết theo ai bây giờ? Về muộn mà đòi chia phần, chia ghế trong chính phủ mới. Các gương mặt lãnh tụ đảng phái này đều là những gương mặt quen thuộc mà trước đây họ đã có cơ hội cũng chẳng làm nên trò trống gì như Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Nghiêm Kế Tổ. Họ có tiếng mà không có thực lực. Thực lực của họ nếu có là dựa vào Nhật và nhất là Tàu. Cán bộ thiếu thốn và không được đào luyện có bài bản. Họ ít thu hút được giới thanh niên theo họ. Khi người Tàu rút về nước thì họ cũng nhanh chân lẹ tay rút theo bỏ lại tổ chức và cán bộ.
Thành phần thứ ba, đông đảo hơn, theo Việt Minh, mặc dầu có nhiều e ngại là cộng sản. Nhưng nhiều khi nhắm mắt liều, vì nghĩ rằng họ thật sự yêu nước, họ có tổ chức, có đoàn thể, có cán bộ, có kỷ luật, xem ra có sức mạnh. Nhiều người bỏ học, bỏ cả tương lai theo Việt Minh. Những nhân vật như Nguyễn Ái Quốc hay Hồ Chí Minh là những nhân vật mới, không có thành tích theo Tây, theo Tàu, theo Nhật như các vị trên. Chẳng ai biết Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Chu Văn Tấn, Võ Nguyên Giáp là ai cả?
Vì không biết là họ là ai nên đã có rất nhiều huyền thoại bao quanh họ. Họ càng bí ẩn càng khêu gợi sự tò mò của nhiều người.
Còn lại là những thành phần xu thời thì thời nào chả có! Họ ngả nghiêng đón gió, chờ thời?
Nhật làm chủ Đông Dương
Buổi chiều ngày 10 tháng ba năm 1945, khi Nhật làm đảo chánh Pháp thì vua Bảo Đại đang trên đường từ Quảng Trị về Huế sau hai ngày đi săn cùng với hoàng hậu.
Vào khoảng 23 giờ đêm, khi gần vào đến kinh thành thì xe của Bảo Đại bị chặn lại. Một sĩ quan Nhật cho biết xe phải ngừng lại, vì có thể nguy hiểm nếu tiếp tục đi nữa. Họ lái xe của Bảo Đại vào lề đường và bảo chờ ở đó. Khoảng 2 giờ sau, có một đại tá Nhật đến cho biết, nay Bảo Đại có thể trở về nhà một cách an toàn.
Lúc đó Bảo Đại vẫn tự hỏi: Je m’interroge: Que s’est il passé? (“Tôi tự hỏi, điều gì đã xảy ra?”, S.M. Bao Daï, ibid., trang 101).
Đây là một câu hỏi vô trách nhiệm nhất của một người lãnh đạo đất nước.
Ngày hôm sau vào lúc 11 giờ, đại sứ Yokoyama, đại diện chính quyền Nhật Mikado đến trình bày lý do tại sao phải đảo chánh, lật người Pháp.
Đại sứ Nhật trình bày tiếp:
“Nous voulons redonner: “ L’Asie aux Asiatiques” (“Chúng tôi muốn trao trả Á Châu cho người Á Châu.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 102)
Trong dịp này, đại sứ Nhật cũng loại bỏ vai trò của Kỳ ngoại Hầu Cường Để đáng lẽ ở vị trí Bảo Đại bây giờ cũng như không nhắc xa gần gì đến số phận xứ Nam Kỳ.
Nhưng một lần nữa lại cho thấy, việc chọn lựa Bảo Đại thay vì Cường Để bởi vì Bảo Đại sẽ là một con cờ tay sai dễ sai khiến.
Người Nhật sẽ chính thức trao trả độc lập cho Việt Nam vào tay Bảo Đại và từ đây Bảo Đại sẽ đóng vai trò mới trong tay người Nhật. Vai tro Bảo Đại đóng với Pháp thế nào thì nay cũng như vậy. Cái khác là thay đổi chủ mà thôi.
Ngày 12 tháng 3, 1945, Bảo Đại triệu thỉnh đại sứ Nhật và trao cho ông này một bản tuyên bố lần đầu tiên có chữ ký chung của Cơ mật viện với các tên tuổi như Phạm Quỳnh, Hồ Đắc Khải, Ưng Hy, Bùi Bằng Đoàn Trần Thanh Đạt và Trương Như Định đại lược như sau:
“Trước tình hình thế giới và nhất là tình hình ở Á Châu, chính quyền Việt Nam tuyên bố công khai kể từ ngày hôm nay, các thỏa ước đã ký với chính quyền Bảo Hộ Pháp sẽ bị hủy bỏ và nước Việt Nam sẽ lấy lại quyền độc lập cho mình.” (S.M. Bao Daï, ibid., trang 104)
Ai là người viết chiếu chỉ này cho Bảo Đại? Phạm Quỳnh chăng ? Thường là thế, nhưng lần này không. Theo nhà báo Nguyễn Kỳ Nam có dịp phỏng vấn Phạm Quỳnh cho biêt:
“Sau tiếng súng nổ đêm 9 tháng 3, quân đội Nhật vào thành kiếm chúng tôi — tôi và các đồng liêu — đem giam lại một chỗ. Sáng ngày, ông Yokoyama đón Đức Kim Thượng đi săn về: chừng đó, hội họp nhau ở lầu Kiến Trung, tôi mới rõ sự tình. Qua ngày 11 tháng 3, ông Yokoyama trở lại, với hai bản văn viết sẵn:
— Tôi cho các ông suy nghĩ 15 phút, rồi ký tên hay là không ký, tùy ý.
Lúc bấy giờ tôi còn suy với nghĩ gì nữa: một bạn đồng liêu, mà không nhớ ông nào, mới nói ra câu này:
— Ký cũng vô khám, mà không ký cũng vô khám! Ký thì vô khám dễ chịu hơn là không ký.
Thế rồi toàn viện cơ mật ký tên.
Cụ Phạm Quỳnh ngẫm nghĩ hồi lâu, gật đầu nói với tôi:
— Hủy bỏ hay không hủy bỏ. Hiệp ước 1884 làm chi nữa? Nó đã bị hủy bỏ trước khi tôi vô Huế.” (Nguyễn Kỳ Nam, Ibid., trang 169)
Kinh thành Huế lúc đó do lính Nhật canh gác và kiểm soát khắp nơi. Và một lần nữa, người đọc thấy được tâm trạng của Bảo Đại:
“Je me trouve devant un vide vertigineux.” (“Tôi thấy mình rơi vào một tình trạng trống rỗng dễ sợ.”( S.M. Bao Daï, ibid., trang 105)
Ý nghĩ đầu tiên đến với bảo Đại là phải thành lập một chính phủ mới với nhân sự mới. Người đầu tiên ông nghĩ tới là Ngô Đình Diệm. Ông viết:
“Il devient urgent de prendre les afaires en main et de mettre en place cette équipe d’hommes nouveaux à laquelle avait allusion l’ambassadeur Yokoyama. Dans mon esprit, l’homme le plus représentatif de cette équipe c’est Ngo Dinh Diêm. Il est à Sài Gòn. Je sais qu’il est en relation avec les Japonais et que sa présence faciliterait nos rapports avec les autorités occupantes. Je convoque donc l’ambassadeur et, après avoir informé de ma décision, le prie de faire le nécessaire pour que Ngo Đinh Diêm puisse rejoindre la capitale le plus rapidement possible.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 106)
“Tình hình trở nên khẩn trương phải nắm lấy cơ hội và thành lập ngay một nhóm người mới như gợi ý của đại sứ [Massayuki] Yokoyama. Trong đầu tôi lúc ấy, người có đủ điiều kiện hơn cả của nhóm này là Ngô Đình Diệm. Hiện ông ta ở Sài Gòn. Tôi cũng biết rằng ông có mối liên hệ với Nhật và nhờ thế có thể làm cho môi liên lạc giữa đôi bên trở nên dễ dàng hơn. Tôi đã nhờ đại sứ Nhật làm tất cả những gì cần thiết sau khi cho biết quyết định của tôi để Ngô Đình Diệm có thể về Huế càng sớm càng tốt.”
Ông đã yêu cầu đại sứ Nhật liên lạc với Sài gòn để gửi Ngô Đình Diệm ra Huế càng sớm càng tốt.
Không cần thiết phải đi sâu vào chuyện tại sao Ngô Đình Diệm đã không làm thủ tướng vì có nhiều cách giải thích khác nhau, bên lề. Chỉ biết chắc rằng lá bài Cường Để- Ngô Đình Diệm người Nhật đã không dùng mà quyết định chọn Bảo Đại-Trần Trọng Kim thay thế. Thật vậy, Trần Trọng Kim đã được Nhật đưa về Sài Gòn từ ngày 3-4-1945 và sau đó được đưa ra Huế thành lập nội các ngày 17-4. Việc chọn Trần Trọng Kim là một quyết định có sẵn của người Nhật. Một chính khách bất đắc dĩ do thời cuộc đưa đẩy lên, không muốn mà vẫn phải làm.
Trong hồi Ký Một cơn gió bụi, Trần Trọng Kim cho biết:
“Một viên trung tướng Nhật đã cho coi danh sách những người mà hoàng thượng muốn mời ra Huế có tên Hoàng Trọng Phu, Vũ Ngọc Oánh, Trịnh Bá Bích, Hoàng Xuân Hãn, Cao Xuân Cẩm và tên tôi mà lại không thấy tên ông Ngô Đình Diệm. Tôi lấy làm lạ sao có tên tôi đúng vào đấy.”
(Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn, 1969, bản Phocopy)
Rồi khi về đến Sài Gòn gặp Ngô Đình Diệm. Ông Diệm không biết gì về việc người Nhật mời cụ Trần Trọng kim ra Huế.
“Ông Diệm nói: “thế à, sao người Nhật không cho tôi biết?” Ngồi nói chuyện qua loa vài câu rồi ông Diệm đứng dạy nói: “Tôi phải vào Tư Lệnh Bộ có chút việc, sang sớm mai, tôi về lại Vĩnh Long.””
(Trần Trọng Kim, ibid.)
Như vậy dứt khoát là ông Diệm không được giấy mời của Nhật thì làm sao ra Huế được. Cả Bảo Đại và cụ Trần Trọng Kim đều bị người Nhật phỉnh lừa, cho vào tròng mà không biết nên mới gây ra nhiều cớ sự.
Hiểu rõ vai trò của mình đã hết, vì nặng về khuynh hướng theo Tây, Phạm Quỳnh và nội các của ông đã đệ đơn từ chức.
Đợi ba tuần lễ, cũng không có tin tức gì của Ngô Đình Diệm. Cuối cùng vị đại sứ Nhật cho biết, chính quyền Nhật không chấp thuận để Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Lá bài thủ tướng được chuyển sang cho Trần Trọng kim, một người cũng được Nhật chọn và tin tưởng đồng thời là một người quốc gia chân chính.
Chính Phủ Trần Trọng Kim
Việc chọn Bảo Đại và thủ tướng là nằm trong cái carte Japonaise của người Nhật? Nay việc thành lập nội các ai sẽ là người quyết định? Thật ra danh sách thành phần nội các một phần lớn đã nằm trong thành phần mà Bảo Đại đã có thư mời từ trước rồi. Ông Trần Trọng kim cũng không quen biết nhiều, cũng không có diều kiện thời giờ để mời ai khác được. Vì vậy đây là một sự sắp xếp gọn gàng và tốt đẹp với các nhân sự có mặt tại Huế nên chỉ trong một thời gian tham khảo ngắn, ông Trần Trọng Kim đã trình lên Bảo Đại thành phần nội các của ông, Dưới mắt Bảo Đại thì đây là thành phần nội các trẻ, phần lớn được Pháp đào tạo. Bảo Đại hy vọng và phấn khởi vì đây là lần đầu tiên một chính phủ Việt Nam độc lập vào ngày 17 tháng tư.
Ngoài Trần Trọng Kim, giáo sư, Nội các Tổng Trưởng. Trần Đình Nam, Y sĩ, Nội vụ Bộ Trưởng. Trần văn Chương, luật sư, Ngoại giao Bộ Trưởng. Trịnh Đình Thảo, luật sư, Tư Pháp Bộ Trưởng. Hoàng Xuân Hãn, Toán học thạc sĩ, Giáo dục và Mỹ Nghệ Bộ trưởng. Nguyễn văn Hiền, Luật sư, Tài Chánh Bộ Trưởng. Phan Anh, luật sư, Thanh Niên Bộ Trưởng. Lưu Văn Lăng, kỹ sư, Công Chính Bộ Trưởng. Vũ Ngọc Anh, Y khoa bác sĩ, Kinh tế Bộ Trưởng. Nguyễn Hữu Thi, cựu Y Sĩ, Tiếp tế Bộ Trưởng.
Nội các Trần Trọng Kim. Nguồn: Trung Bắc Chủ Nhật, 20/5/1945)
Từ trái sang phải: Hoàng Xuân Hãn, Hồ Tá Khanh, Trịnh Đình Thảo, Trần Trọng Kim (sau micro), Vũ Ngọc Anh, Trần Văn Chương, Trần Đình Nam, Vũ Văn Hiền, Phan Anh, Nguyễn Hữu Thi.
Khi Trần Trọng Kim vào trình danh sách thành phần chính phủ. Bảo Đại xem xong đồng ý. Tiện đó có ông Yokohama cũng xin xem có những ai. Sau đó còn đề nghị ông Trần Văn Chương vào chức Nội các Phó Tổng trưởng đề phòng để có người thay thế.
Cũng theo ông Trần Trọng Kim, thành phần nội các do chính ông chỉ định và người Nhật không can thiệp vào.
Kể từ khi thành lập xong nội các, phải nhìn nhận cả Bảo Đại lẫn chính phủ Trần Trọng Kim đều có thiện chí và những nỗ lực để thông nhất ba kỳ, yêu cầu Người Nhật trả Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Khi trả Bắc Kỳ, chính phủ Trần Trọng Kim đã sắp đặt ông Phan Kế Toại làm Bắc Bộ Khâm Sai. Trần Trọng Kim viết:
“Việc thu cả ba kỳ về quyền Trung Ương để thống nhất đất nước như khi chưa bị sự bảo hộ của nước Pháp là việc rất trọng yếu của chính phủ tôi. Trong sự điều đình với người Nhật để thu lại lãnh thổ nước Việt Nam gặp nhiều sự khó khăn. Trước hết, người Nhật bằng lòng trả trả đất Bắc Bộ cho chính phủ Việt Nam, song những đất thuộc ba thành: Hà Nội, Sài Gòn, Đà Nẵng và Nam Bộ là đất Vua Việt Nam ngày trước đã ký kết cho nước Pháp thì người Nhật đòi tạm giữ đến khi nước Việt Nam hoàn toàn độc lập trả sau.”
( Trần Trọng Kim, ibid., trang 19)
Cũng vì thế trong chuyến ra Hà Nội thương thuyết với Nhật, chính phủ Trần Trọng Kim đã đòi lại được toàn lãnh thổ nước Việt Nam, thu hết các công sỏ thuộc Phủ Toàn quyền Pháp, lấy hết được các binh sĩ Việt Nam để tổ chức quân đội Bảo An. Cũng đòi Nhật cung cấp 2000 vũ khí, đạn dược. Sau đó cho gọi Đai Úy Thu làm chương trình cải tổ các đội Bảo An.
Có hai yếu tố để cắt nghĩa sự thành công và thất bại của chính phủ Trần Trọng Kim. Thứ nhất, người Nhật biếp sắp thua nên trao trả ;ại cho Việt Nam. Thứ Hai khoảng thời gian là quá ngắn không đủ cho chính phủ Trần Trọng Kim có thể làm được gì.
Tuy nhiên, chương trình cải tổ giáo dục của Hoàng Xuân Hãn cũng như như việc xử dụng chữ Quốc Ngữ vẫn có một ảnh hưởng lâu dài trong ngành giáo dục sau này.
Nhưng sự thú nhận sau đây của Trần Trọng Kim, dù chỉ trong vài dòng của một người hiền cho thấy người Việt đã kém cỏi mà cũng khó mà đoàn kết với nhau được. Thứ nhất có truyện tranh công nhỏ nhoi của Trần Văn Chương mà thấy không cần nói ra đây làm buồn lòng Trần Trọng Kim. Tình hình dù chưa ngã ngũ ra sao, ông Trần Trọng kim đã rắp tâm từ chức. Đó là một tai hại mà hậu quả nay chưa ai có thể lượng giá đúng mức được. Nhiều người tiếc nuối giá mà Ngô Đình Diệm làm thủ tướng thì sao? Làm sao có thể đặt ra một giả định không xảy ra trong lịch sử.
Và ông Trần Trọng Kim tự bạch:
“Sự tôi thôi thì tôi đã dự định rồi, nhưng để lấy lại đát Nam Bộ cho trọn công việc của mình, tôi thôi ngay.
Tôi thấy việc đi Nam có nhiều sự cản trở, trong Nội Các không có hòa khí như lúc đầu, và có lắm chuyện nhỏ mọn không muốn nói ra, làm tôi mất cả lòng hăng hái làm việc, thành ra đến ngày mồng 8 tháng tám, tôi vẫn không đi Nam được. Tổng Tư lẹnh Nhạt ở Hà Nọi vào Sài Gòn không thấy tôi điện ra dục. Tôi điện vào xin cứ cho lấy lại Nam Bộ, tôi không phải vào Nam nữa..
Được tin người Nhật ưng thuận, và lúc ấy có ông Nguyễn Văn Sâm lãnh tụ đảng Quang xã vừa ở Sài Gòn ra Huế. Tôi vào tâu vua Bảo Đại, xin cử ông Sâm làm Nam Bộ Khâm Sai. Nagy 14 tháng tháng tám năm 1945, ông Sâm được sắc chỉbổ vào Nam. (..)
Việc lấy lại được đất Nam Bộ xong, tôi vào tâu vua Bảo Đại, xin cho tôi từ chức. Ngài nói:
Ông đang làm được việc, sao lại xin thôi, vì ongo thôi lấy ai thay.
Tôi tâu trình lên mấy người, ngài tỏ vẻ không thuận, bảo:
Các ông hãy tạm làm việc, chờ đến khi tìm được người ra lập nội các hãy thôi.
Lúc ấy tôi như cất được gánh nặng, nhưng tìm ai thay? Tôi nghĩ nên tìm những người như Ngô Đình Diệm, Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn, Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường, Đặng Thái Mai v.v. đã có tiếng hoạt động về chính trị để vào lập nội các mới. Tôi điện đi các nơi mời những người ấy vào Huế. (…) Tôi cũng nhờ ông Phan Anh Vắc và ông Hồ Tái Khanh vào Nam. Nhưng cả hai ông trên đường đi bắt giữ lại..”
(Trần Trọng Kim, ibid., trang 28)
Sau vụ từ chức của Trần Trọng Kim, con thuyền chính trị Việt Nam quốc gia hẳn là sẽ chìm. Dân chúng nói chung cảm thấy hân hoan vui mừng khi hai quả bom nguyên tử bỏ xuống Hiroshima và Nagasaki vào 6 à 9 tháng 8, 1945. Dân chúng khắp nơi bầy tỏ niềm hy vọng hoàn toàn độc lập.
(Còn tiếp)
Nguyễn Văn Lục
Nguồn: DCVOnline