Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - HÀ NỘI ĐÃ SA LẦY SAU CHIẾN THẮNG VÀ PHẢN BỘI LẠI GIỚI TRẺ MIỀN NAM ... (Phần 2)

Wednesday, August 7, 20241:52 AM(View: 1002)
GS. Nguyễn Văn Lục - HÀ NỘI ĐÃ SA LẦY SAU CHIẾN THẮNG VÀ PHẢN BỘI LẠI GIỚI TRẺ MIỀN NAM ... (Phần 2)
Hà Nội đã sa lầy sau chiến thắng và phản bội lại giới trẻ miền Nam
đã hy sinh trong chiến tranh biên giới với Kampuchia. (Phần 1)


Nguyễn Văn Lục



 

Và tôi cũng cố gắng đọc tiếp trích đoạn lá thư của chị Nguyễn Thị Hàng, giáo viên ở Nghệ An viết gửi anh Lê Văn Hựu, địa chỉ là 271003 TB 04, thuộc cánh quân của  Trung Đoàn 124 phối hợp với đại đội 1/117 Trung đoàn 203 thiết giáp. Thư mở đầu:

 

"Anh ơi, xa anh đi, em nhớ lắm, em thương anh lắm, anh nói, anh cười, anh trìu mến thương, em làm sao quên được ".

 

 Nhưng người yêu Lê Văn Hựu của Nguyễn Thị Hng đã chết, chết ngay trận đầu tiên sau sáu tháng vuợt Trường Sơn vào Nam giải phóng (12)

 

(12)Trích Phan Nhật Nam,  Mùa hè đỏ lửa,  trang 130

 

Tôi cũng không thể nào lợi dụng sự rộng lượng và sự kiên nhẫn của người đọc để trích dẫn hết những sách bút ký chiến tranh khác mà vì trách nhiệm người cầm bút tôi đã sưu tập đủ như Nhật Ký An Lộc, bác sĩ Nguyễn Văn Quý, Vượt Trường Sơn của Phan Nghị, Về R của Kim Nhật và nhất là bộ sách 5 cuốn của Xuân Vũ như Mạng người lá rụng,  Xương trắng Trường Sơn, Đến mà không đến(nằm trong bộ bốn cuốn Đường Đi không đến), Đồng Bằng gai góc và Đường Đi không đến.

 

Đọc những mẩu chuyện ghi của Xuân Vũ chỉ thấy tội cho những chiến binh miền Bắc biến thành vật hy sinh cho một chủ nghĩa giáo điều.                

 

Tôi chỉ xin trích dẫn một câu trong muôn vàn ý tưởng trong bộ sách của Xuân Vũ qua nhân vật nữ tên Phương là:

 

"Đêm nào anh nấu nước cho Phương ngâm chân, Phương cũng phàn nàn, càng ngày càng nặng lời và day dứt hơn. Một hôm Phương nói thẳng ra rằng, nếu dè như thế này thì Phương đã không đi. Phương đã nói rất thực lòng. Và đó cũng chính là nỗi lòng của hàng vạn người trên đường này. Nếu biết thế này thì chắc chắn không ai đi. Thà ở lại miền Bắc làm tên cán bộ mất tinh thần, làm tên lính đào ngũ còn hơn ".(5)

 

Ở chỗ khác, Ngạc, một binh lính trẻ đã tự tử :

 

"Anh em chuẩn bị hành quân, Ngạc soạn ba lô lấy đồ mới ra mặc, bộ Đông Xuân Ngạc chưa xỏ tay chân vào lần nào. Anh em tưởng Ngạc phục thiện và tự nguyện tiếp tục hành quân, nào ngờ trong lúc anh em đang loay hoay nấu nướng thì " đoàng", Ngạc nằm thẳng trên võng, người mặc quân phục, cây AK và chỉ một viên, từ cằm trổ lên giữa sọ.

 

Tôi và Thu đứng dậy tạm biệt anh lính, như tạm biệt một sự đau thương đã hóa thành người. Trời ơi! Trời đất ơi ! Sao lắm chuyện thế, mà chuyện nào cũng ghê rợn. .., oái ăm tàn tận, nghe như bịa chứ không có thật. Vậy mà vẫn là sự thật ".(13)

 

(13) Trích Xuân Vũ, Đường Đi không đến, trang 95 và trang 337

 

Những nỗi lòng như thế, những bi cảnh như thế những người lãnh đạo cộng sản có "máu lạnh" không hề biết tới và họ đã lừa cả một thế hệ thanh niên xông vào vòng lửa đạn và hứa rằng chiến trường chỉ kéo dài trong vài tháng hay cùng lắm là một năm.

 

Trước những thách đố của một cuộc chiến được gọi là "giải phóng" và một cuộc rút quân có chiến thuật của Hoa Kỳ ra khỏi cuộc chiến, miền Nam trước 1975 cũng sôi động lên vì chính sách "Việt Nam Hóa chiến tranh" kéo theo một số đông các thành phần có học như sinh viên,  giáo sư, nhà văn,  kỹ sư, các chuyên viên bị động viên.

 

Từ nay, chỉ còn là người Việt đánh người Việt.

 

Tôi nghĩ lại đây là giai đoạn tủi nhục và đau xót nhất cho người lính miền Nam.

 

Nhưng nhờ đó, chúng ta có dịp được đọc những vần thơ tiêu biểu cho giai đoạn đó, trong đó tâm trạng chán chường bắt đầu xuất hiện nơi nhừng người lính " không chuyên nghiệp".

 

Nó không có cái hào hùng, niềm hãnh diện hay tự hào tiêu biểu của những người lính tiểu đoàn dù 1 và tiểu đoàn 6 dù của PNN. Nó không có những địa danh tiêu biểu của chết chóc như Đồng Xoài, Bình  Giả, An Lộc, Khe Sanh, cổ thành Quảng Trị .

 

Trường hợp Nguyên Sa, Trần Bích Lan và những người lính trẻ.

 

Nó chỉ còn là những tâm sự, nỗi lòng của một người cầm súng không chuyên nghiệp như trường hợp nhà thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan.

 

Nó tiêu biểu cho một thái độ khác về chiến tranh, một bộ mặt khác về chiến tranh không còn giống như trước nữa  mà không cần đặt vấn đề đúng sai, phải trái.

 

Nó đi vào văn chương một cách tự nhiên bởi vì họ là những người cầm bút, những nhà thơ. Chỉ có vậy.

 

Dù thế nào thì nó cũng là chứng tích chiến tranh của một giai đoạn sắp đến hồi chung cuộc.

 

Người đọc tìm thấy ở đây Số phận và sinh mệnh sống chết của người lính miền Nam cũng thật long đong và thật mong manh. Nó có cái long đong của xa lìa, mất mát, bất trung và mong manh vì mất mát. Nguyên Sa rơi bỏ tháp nhà làm thơ tình còn làm thơ nói về ngươi lính.

 

Những tình cảm như của một Nguyên Sa không thể nào tìm thấy được trong thơ văn chiến tranh ở miền Bắc.

 

Nó có thể cũng rất gần với chúng ta, với con người về cảm thức về chiến tranh. Nó rất thật và sống động và chỉ có thể rất hiếm hoi .

 

Nếu không viết lại ở đây thì không còn có cơ hội để mọi người được biết tới nữa:

 

 "Không nói tao sợ mày phiền

Nói ra với rượu tao buồn gấp hai

em mày đi lấy chồng rồi

 gặp tao ngoài ngõ ngậm ngùi nhìn nhau

tao nhìn tao thấy mày đau

Nó nhìn nó thấy trong tao có mày".

 

Đáng nhẽ, tôi phải dành riêng một bài viết về Nguyên Sa mới phải. Cái thấm thía của ông về chiến tranh mặc dù chỉ là " kinh nghiệm quân trường" cũng đủ làm ông thức tỉnh.  Xin trích bài thơ mang tên: Xin lỗi về những lầm lẫn dĩ vãng.

 

- Bây giờ khẩu garang ta mang trên vai

Bây giờ khẩu trung liên bar ta mang trên vai

Ta mới biết rằng những thỏi sắt đó nặng như thế

Ta mới biết rằng trong cuộc đời dạy học ta là thằng dốt nát

Trong mười mấy năm ta làm bao nhiêu tội lỗi

Trong mười mấy năm ta không nói cho học trò ta biết

Anh em ta và quê hương ta

Vác những thỏi sắt nặng như thế

Từ bao nhiêu năm nay

Bây giờ nằm kích ở ven ruộng sương xuống ướt vai

Bây giờ đứng gác đêm ở rừng giá gió lạnh thấu xương

Ta mới biết rằng sương gió lạnh như thế

Ta muốn kêu to lên ta là một thằng dốt nát

Ta là một thằng dốt nát

Vì mỗi ngày trong mười mấy năm dĩ vãng

Ta không viết trên giấy trắng mực đen cho những người yêu thơ ta

Anh em ta và quê hương ta đã đứng như thế từ bao nhiêu năm!!(14)

 

(14)Trích Những năm sáu mươi, Thơ, Nguyên Sa, nxb Trình Bày

 

 Nhưng niềm đau hơn nữa khi có dịp đưa tiễn một người thân thiết như- anh em-bè bạn- chồng, con cái và có khi cả người tình với nước mắt tiễn đưa.

 

Đó là cảm nghiệm về những cái chết như thể. Nó không phải là những xung động từ bản năng sinh tồn của người lính ngoài mặt trận, cận kề cái chết ..

 

Nó những cảm nghiệm- có thể là một cảm nghiệm tôn giáo về cái chết, về sự bất lực như : Từ dưới vực sâu kêu lên Chúa tôi: De profundis clamavi ad te Domine.

 

Nó gián tiếp gửi đến những thông điệp nhân bản- thông  điệp về nỗi đau của chiến tranh không phải từ người lính mà là tự người vơ, ngay cả người tình. Và có thể là nước mắt người tình trong đôi con mắt mệt lả với những sợi tóc buồn xõa che mặt hay có thể chỉ là những tiếng chửi thề  bực tức về sự phi lý cuộc đời kèm theo sự thương tiếc của bạn bè đồng đội:

 

Đây trước mắt chia lìa chất ngất

đứa quân trường đứa lính chiến một năm

 đứa lơ ngơ những ngày chờ chết

đứa vinh thăng dĩ vàng đâu màng.

Đồi Gia Hựu dài cơn đồng thiếp

thăm hỏi nhau mày còn mạnh giỏi

còn nguyên lành thân xác phàm phù

bao giờ giải ngũ bao giờ có phép

 lúc nào vào lính cho tao biết

vợ con mày mấy đứa ra sao

lũ tình nhân còn đầy nhân ngãi

bạn bè ta đứa nào còn đứa nào khuất

Nơi tao ở rừng cao tiếp núi

súng lăm le như cái chết cõi đêm chừng

chợt sáng sớm biết mình sống sót (15)

 

(15)Trích Bài thơ Thân tín đời của Tô Đình Sự, anh TĐS làm trước khi chết được in lại trong tạp chí Đi Tới, số 82 Bô mới, tháng 4,5,6/2005)

 

Và tâm sự của một người bạn trước cái chếtcủa bạn mình. Buồn và nỗi bất lực . Đành chửi thề.

 

Buổi chiều ở nghĩa trang Cà Đú

 

Thơ  Phạm Nhã Dự.

(Gọi linh hồn mày Tô Đình Sự)

 

Trở lại Phan Rang lần này nữa

Thăm mày, không biết ngắn hay lâu

Thăm mày, đù má mày đã chết.

Chiều nay sao gió nhiều mày nhỉ

gió nổi trong tao đến lạnh mình

đù má nhang mày sao chẳng cháy

đốt mãi que diêm đế cạn cùng....

Chẳng khóc được mày mà nước mắt tao rơi..

thăm mày đù má lòng buốt xót

ngó trời chỉ biết chửi thề thôi.(16)

 

(16) Trích Đi Tới Ibid

 

Trong chiến tranh, nói về khát vọng hòa bình cũng là điề thiết thân, gần gũi. Tự thâm tâm, ai cũng mong đợi như thế:  về Hòa bình, về một ngày không chiến tranh.

 

Vì thế, tôi nhận ra trong thơ văn miền Nam, chiến tranh được nhìn trong một chiều kích không nhất thiết là phải chiến thắng, phải giết, phải sắt máu. Hãy đọc: mai mốt anh về không bằng chiến thắng. Bi kịch hơn nữa: Mai anh về trên đôi nạng gỗ, bại tướng về làm gã cụt chân.

 

Chỉ thấy khát vọng hòa bình như của một người mẹ trong bài Đêm Giáng sinh ở Việt  Nam của Hồ Minh Dũng :

 

Dù chỉ một ngày ngưng bắn đó con

cũng đem chiếc áo lành ra mặt

cũng ăn một bữa cơm cho no

cũng ngủ một giấc trên giường trên chiếu

khổ đau lúc này mẹ gói trong mo (17)

 

(17)Miền Nam trong thời kỳ chiến tranh, công trình sưu tập của Trần Hoài Thư.

 

Bộ mặt chiến tranh vì thế mang nhiều chiều kích, nhiều góc cạnh, ngay cả cả sự tình cờ và nó đên, nó mang đi không trừ một ai.

 

Nhiều cái chết đến như tình cờ không tiên đoán trước được từ nhiều phía trong chiến tranh. Đó có thể  là những người ngoại quốc từ một nơi xa xô nào đói đã đến đây và đã bỏ mình tại đây.

 

 Những cái chết ngoài dự đoán và oan nghiệt. Những cái chết do sự trả thù của những người trong cuộc mà có thể tạm gọi là cái "trục của điều xấu".

 

 Thật vậy khi Trần Văn Đang, người đã đánh bom khách sạn Métropole rồi bị chính quyền VNCH  đem ra hành quyết. Trần văn Đang bị xử bắn  là việc liên quan đến Trần Văn Đang, liên quan đên hành vi tội phạm của anh .

 

Vậy mà cùng ngày hôm ấy, một binh sĩ Mỹ tên George Benneth cũng bị phia bên kia mang ra xử bắn. Giữa Trần Văn Đang và George Benneth có cùng một mẫu số chung để cái chết của người này là nguyên nhân cái chết của người kia.

 

Phải nói George Benneth đã chết oan uổng. Anh không đáng bị chết như thế vì anh không có tội già cả.

 

Cái chết của anh đơn giản là để trả thù ! Nó thể hiện đúng điều mà nhà văn Nguyễn Khải nói đến ở trên. Nó chỉ có hai mặt: Hoặc trả thù hoặc là phải hy sinh.

 

 Khi tướng Thi ra lệnh bắn ba sinh viên Việt Cộng: Nguyễn Văn Lắm, Nguyễn Văn Châu và Phan Văn Cẩu thì đổi lại cộng sản trả đũa đem trung sĩ Kenneth Dorabach và đại úy Humbert Varsace hành quyết.

 

Đã thế, cái chết có thể đến với bất cứ ai và bất cứ lúc nào ngay cả những phóng viên nhà báo, không cầm súng, không giết người. Họ chỉ làm nhiệm vụ thông tin.

 

 Tên của họ là: Pieter Kolenberg, tháng10, 1966. Huỳnh Thành Mỹ chết tại Cần Thơ, Dickic Chapelle, chết vì mìn ở Đà Năng. Charlie Chellapah rồi Sam Castan, Ronald Callagher, Felipha Schuler và nhất là nhà báo nổi tiếng Bernard Fall-tác giả nổi tiếng với Street Without Joy, (Phố buồn hiu) trúng mìn ở một khu rừng gần Huế ..

 

Vì thế, không lạ gì, mỗi ký giả lên máy bay quân sự đều phải trả lời một câu hỏi ra rất là "stupide" là trên một tờ khai tự ghi như sau: Khi cần thì xác của ông sẽ trao cho ai?(18)

 

(18)Nhưng tự nó trong chiến tranh là một điều phi lý rồi . Không ai muốn mất thí ` giờ tìm hiểu tại sao thế này tại sao thế kia.

 

Nói một cách triết lý như Graham Green viết là trong chiến phần lớn thời giờ là ta  chỉ biết ngồi chờ đợi một cái gì đến mà ta chưa biết trước được.

 

Câu hỏi đó làm khó chịu các nhà báo đi máy bay, nhưng nó lại là câu hỏi thực tế,  cần thiết trong một cuộc chiến không có tuyên chiến và không biên giới.

 

Tôi cũng nhân tiện đây nhắc nhở về môt bài Nhật ký hiếm hoi và kỳ cục ít ai biết  tới của nhà thơ Nguyên Sa mà nay ông đã quá vãng. Ông bị động viên sĩ quan Thủ Đức, ra trường với cấp bậc chuẩn úy. Thay vì được điều động ra chiến trường để đánh nhau thì oái ăm, ông được ưu đãi điều động về một nơi an toàn là tiếp nhận và chôn người chết ..Cơ quan Chung Sự Vụ.

 

Nhưng chính ở nơi này mà ông từng ngày phải chứng kiến những cái chết bọc trong pông sô, nhiều cái đã thối rữa. Chắc hẳn có những cái chết không toàn thây, mất đầu, mất tay chân, sổ ruột gan như hàng vê mỗi ngày một nhiều ở Chung Sự Vụ ..Chưa kể  cạnh đó là thảm cảnh vợ con, cha mẹ người lính khóc than đến nhận xác chồng con.

 

 Ở vai trò người trí thức, ở Nha Chung Sự Vụ, Nguyên Sa sẽ bị dày vò, khốn khổ từng ngày còn hơn ở ngoài mặt trận. Trong dịp này Nguyên Sa có viết một ký sự : Vài ngày làm việc ở Chung Sự Vụ, đăng trên tập san Hành Trình Từ số 17, thánh tư, năm 1971.

 

Trong tập nhật ký, Nguyên Sa đã phải kìm giữ, ngăn chặn những xúc động về những cảnh tượng đau lòng của thân nhân các tử sĩ. Ông cố gắng tỏ ra có "máu lạnh" mô tả  cảnh tang tóc như một thứ nghề chuyên môn với thứ ngôn ngữ đầy bi kịch tính. Ông gọi xác chết là hàng về. Gọi người chết là khứa. Nhìn cảnh những người vợ lính vừa khóc lóc nhìn cảnh liệm xác, vừa  phẫn uất chửi đổng ..Sau đây quang  cảnh và thủ tục liệm xác do Nguyên Sa ghi lại:

 

"Cài xong cái khuya áo. Chúng nó ở Sài Gòn ăn no ngủ kỹ, chúng nó xui anh đi ra nơi hòn tên mũi đạn, chúng nó đẩy anh vào chỗ chết, anh bỏ vợ bụng mang dạ chửa, anh ơi ..Tổ sư cha chúng mày ..

 

Xong giây lưng. Bà này kỳ, bà chửi chúng con, chúng con cũng bị động viên, ăn cái giải rút gì.

 

" Nghe chưa".

 

Rồi, thằng Tâm sui. Bảo bà ấy chửi mấy thằng  to đầu đi. Kêu tên ra mà chửi. Bọn mình ăn nhằm gì".

 

Xong khuy quần, chải đầu chút chớ.

 

" Này, "

" Gì ."

" Khứa nào đấy

 

Lược đây rồi.

 

" Quả phụ Binh nhất Tây. Hàng về hôm hăm hai. Mình phải siêu tần số đi Vũng Tàu đấy !!(19)

 

(19 )Trích Nguyên Sa, nhật ký Chung Sự Vụ, đăng trên tập san Trinh Bày, số 17 và tiếp theo, năm 1971

 

Lần đầu tiên, một thi si thay vì làm thơ tình, viết về cảnh liệm xác với giọng điệu đầy tính châm biếm để khỏa lấp, để xóa đi cái cảnh não nề ở nhà xác.

 

Số phận những người lính bất hạnh của miền Nam bị lao vào cuộc chiến là do sự khởi động chiến tranh xâm lược từ miền Bắc. Nhiều người trong số họ đã hy sinh và được chính phủ cho chôn cất tại Nghĩa Trang Quân Đội như một cử chỉ nhớ ơn họ.

 

Khi cộng sản miền Bắc chiếm trọn vẹn miền Nam thì số phận người sống đã đành được nói tới nhiều. Nhưng còn phần những người đã chết cũng không yên.

 

 Đó là chính sách người sống đuổi người chết. Đó là chính sách cầm tù những xác chết năm ở Nghĩa Trang Biên Hòa, không cho ai ra vào, lai vãng tới, ngay cả thân nhân của người linh tử trận.

 

 Họ lấy cớ để di dời các ngôi mộ ra khỏi thành phố như nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi,  Nghĩa địa Đô Thành, Bình Hưng Hòa mà không để lại một bia tưởng niệm .. .

 

Riêng Nghĩa trang Quân Đội ở Biên Hòa thì giao cho quân khu 7 trông coi. Họ đóng cửa với bảng cấm : khu quân sự, cấm chụp hình cho một nơi chỉ có những mộ phần, nơi chôn cất 16 ngàn tử sĩ trong đó có các tướng như Đỗ Cao Trí nằm ngủ yên không hương khói ..Phải tới năm 2006, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng mới ra quyết định:

 

" đồng ý chuyển mục đích xử dụng 58 hectare đất khu nghĩa địa sang xử dụng vào mục đích dân sự để phát triển kinh tế- xã hội "chỉ đạo việc quản lý khu nghĩa địa Bình An(tức Nghĩa trang quân đội Biên Hòa) bình thường như các nghĩa địa khác theo quy định của pháp luật".(20)

 

(20) Trích tài liệu Nghiã trang quân đội trên Wikipedia .

 

Câu chuyện Nghĩa trang quân đội năm 1975 nhắc nhở chúng ta lại một câu chuyện tương tự mà Jules Roy viết trong cuốn"Bataille de Dien Bien Phu,  nxb Julliard, 1963  Jule Roy viết:

 

" Ở đây, trước những mộ phần, cái biên giới thù nghịch không còn, sự kiêu hãnh cũng như cay đắng không còn, có chăng chỉ là những niềm thương của một người đối với người đã khuất".

 

Jules vừa là nhà văn, vừa là đại tá trong quân đội Pháp. 9 năm sau trận Điện Biên Phủ, ông quay trở lại Việt Nam và đi tìm lại những đồng đội của mình đã năm lại ở đây trên các ngọn đồi Éliane, Béatrice thuở . Ở đấy, ông chỉ thấy có 500 ngôi mộ của nhừng ngưới línhcộng sản đã chết nằm chung bên cạnh đồi Éliane sau những trận đánh cuối cùng.

 

 Ông phẫn nộ, ông cảm thấy bị xỉ nhục khi những người Pháp chết ở đây không có lấy một bia tưởng niệm. Ông cho đó là một xúc phạm đến quân đội Pháp và đi đến đâu, gặp ai ông cũng hỏi: Đâu là mồ của những người Pháp quanh các đồn lũy.

 

 Không một câu trả lời.

 

" Cuối cùng Jules Roy yêu cầu "các ông" bỏ qua mối thù hận có thể có nuôi dưỡng trong thâm tâm các ông, và xin các ông dựng cho một cái đài kỷ niệm đơn giản thôi, cho tử sĩ Pháp. Thật vậy, các ông có quyền lên án cái lý tưởng của họ, nhưng cũng có bổn phận nghĩ đến các bà mẹ của họ. Đối với một người mẹ, không có lý tưởng tốt hay xấu, mà chỉ có những đứa con đã mất. Điều mà tôi xin các ông làm là tôi nhân danh tất cả các bà mẹ trên thế giới ..".(21)

 

(21) Trích trong tạp chí Hành Trình, số tháng 2/1965 trong bài viết: Kinh cầu hồn cho chiến trận Điện Biên Phủ, bản dịch Nguyễn Vũ Văn.      

 

Sau 1975, câu chuyện của Jules Roy lập lại  cũng một cách như thế đối với người lính VNCH tại Nghĩa Trang Quân đội ở một mức tồi tệ hơn, mang tính cách trả thù.

 

Tượng người lính Thương tiếc ngay lối vào nghĩa trang đã bị giựt đổ sau hai tháng chiếm được miền Nam. Đầu anh cúi gục xuống đất trong thời giann mấy tuần lễ trước khi được chuyển đi nơi khác- Nơi đâu không biết. Anh- Tượng người lính thương tiếc-trở thành huyền thoại thương tiếc- anh đã từng ngồi ở đó một mình sau lưng anh là các đồng đội của anh đã chết và anh  không bày tỏ một ý nghĩa chính trị hay sự căm thù nào.

 

Đó chỉ là một bức tượng biểu hiện vong linh những người lính VNCH. Bức tượng trước sau chỉ là một bức tượng. Sự  hiển linh nếu có là do tấm lòng của những người còn ở lại. Phần tôi trước 1975,  thường đi lại con đường này mỗi tuần, mỗi lần nhìn bức tượng, lòng chợt buồn vì cũng có bạn bè tôi năm ở đó.

 

Chỉ có vậy. Nỗi buồn đó, nó nằm sâu trong tiềm thức của mỗi người dân VN.

 

Cùng lắm nó khơi dậy một nỗi buồn về thân phận con người đã nằm xuống. Càng ngày bức tượng Thương tiếc như có hiển linh, như linh hồn của 16 ngàn đồng đội anh mà mộ chí mỗi ngày thêm dài.

 

Ngày hôm nay Nghĩa Dũng Đài, Cổng Tam quan, Đền tử sĩ nay bỏ hoang phế cho cỏ mọc. 8 khu mộ đã bị đập phá, bể sứt, sập hầu hết như một thứ trả thù người đã chết.

 

Trong bài viết: Tướng Kỳ bị Nguyễn Tấn Dũng chặn đường về của Vũ Quí Hạo Nhiên có nhắc đên việc đại sứ Burghardt có đề nghị với chính quyền VN kết nối với cộng đồng VN tại Mỹ bằng cách:

" thậm chí mời cựu Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ về thăm quê hương"

Lúc đó, theo công điện này, " PTT Dũng phản ứng đầy xúc cảm, cho rằng các các viên chức chế độ Sài Gòn cũ phải gánh chịu trách nhiệm đã đưa 1 triệu lính Mỹ vào và gây chết chóc cho 3 triệu người Việt Nam, họ là " tội đồ" và sẽ không bao giờ được chào đón trở về.

 

Sau này, khi tướng Kỳ đã được phép về VN, ngay từ lần đầu tiên, ông đã đề cập tới việc sửa sang Nghĩa trang Quân Đội, nhưng những người ông gặp đều không muốn làm chuyện này. Họ cho rằng việc làm này "quá nhạy cảm" đối với phái bảo thủ và quân đội . Khi đó, ông Kỳ đã nói với họ:

 

" Nếu các ông muốn hòa giải với Việt Kiều, các ông phải hòa giải với người đã chết, trước đã".(22)

 

(21) Trích Bí mật Việt Nam qua hồ sơ WIK LEAKS, Vu Quy Hao Nhiên, Người Việt xuất bản, trang 99-101

 

Sau quyết định của ông Nguyễn Tấn Dũng được đưa ra, có những nỗ lực của một số người Viêt hải ngoại như của quý ông Vũ Văn Lộc và IRCC, Inc nhiều lần đề nghị tôn tạo Nghĩa Trang, nhưng đều bị từ chối.

 

Cuối 2008, nhóm Quốc Gia Nghĩa tử Heritage trực tiếp về VN công khai làm đơn tu bổ quy mô Nghĩa Trang, Nhưng cũng bị khắp nơi từ chối.

 

Chắc còn phải nhiều năm, nhiều thế hệ để Hà Nội có thể làm một cử chỉ dẹp nhân đạo đối với các tử sĩ ở Nghĩa Trang Quân Đội.

 

Cũng theo Vũ Quý Hạo Nhiên, khi ông Nhất Hạnh về VN tổ chức ba buổi lễ cầu siêu trong đó có nội dung cầu siêu cho các nạn nhân đã" thiệt mạng vô duyên cớ" trong chiến tranh. Dự tính sẽ là nhắc dến người chiến binh Mỹ cũng như những người Việt Nam bị chết vì những tai họa khác kể cả trại tù cải tạo và người vượt biên.

 

Họ nhất định không cho nhắc đến lính Mỹ, cấm nhắc đến tù cải tạo, cấm nhắc đến thuyền nhân.

 

 Quả thực, bóng ma người chết vẫn ám ảnh tâm trí người cộng sản. Họ sợ người sống đã đành, họ sợ cả bóng ma của người chết. Ai dám bảo người cộng sản vô thần, họ còn mê tín tôn giáo lắm đấy chứ !!

 

Cuối cùng thĩ ông thiền sư đành lòng phải nhắc chung chung là cầu siêu cho tất cả "nạn nhân hai miền Nam Bắc" và nói là 6 triệu người đã thiệt mạng trong chiến tranh thì đều đã "chết vô duyên cớ".

 

Và chắc hẳn nhiều người Viêt hải ngoại chưa quên những tấm bia tưởng niệm thuyền nhân đã bỏ xác trên biển tại các nước như Mã Lai Á, Indonesia đã bị áp lực của chính quyền cộng sản Hà Nội phá bỏ.

 

Trong khi đó, oái ăm thay là tại một số tỉnh như Quảng Ninh, Lạng Sơn, người ta ghi nhận có những nghĩa trang dành cho" liệt sĩ Trung Quốc" với những dòng chữ :đời đời nhớ ơn liệt sĩ Trung Quốc !!

 

Về số phận những người lính phía bên kia mà biểu tượng là Dương Thu Hương trong đoàn Thanh niên xung phong.

 

Số phận của kẻ thua trận thì đã nhận đủ thứ thiệt thòi từ kẻ chiến thắng .

 

 Nhưng kẻ thắng trận mà "xương trắng Trường Sơn ", mà "mạng người như lá rụng" mà " Đương đi không đến' thì cái lẽ thắng thua chẳng hiểu còn có nghĩa lý gì!!

 

Thắng mà bằng cái giá phải trả bằng một đổi lấy 5 lần! Dù lạc quan cách mấy- dù không nói ra- Sự thiệt hại và tổn thất về người về phía cộng sản là lớn lao. Người ta không thể dấu được sự thiệt hại ấy. Tuy nhiên, mọi người đều đồng ý với nhau là không có cách nào tính được con số thương vong  chính xác của cả đôi bên.

 

 Theo ước tính của tài liệu của Mỹ:

 

- Phía người Mỹ có 52.227 người Mỹ bị giết .(23.000 nhiều hơn trong thời kỳ chiến tranh Triều Tiên).

 

- Phía quân đội Sài Gòn, con số chính thức là 188.000 người bị chết và 430.000 bị thương.

 

-Phía Bắc Việt là: 920.000 người chết.

 

- Phía thường dân trong miền Nam là 350.000 bị giết và 950.000 bị thương

 

-Có 300.000 trẻ em mồ côi.(16)

 

(16) Trích L'Aigle et le Dragon, Claude de Groulat, trang 293-294

 

Đã thế, không thiếu trường hợp chết mất xác dưới những cơn mưa bom đạn trải thảm rải trên đầu. Số phận của họ nào chết bom đạn, chết vì đói ăn, vì bệnh tật như sốt rét ngã nước hay suy dinh dưỡng.

 

 Họ, những lính cụ Hồ mới là những người línhchết đủ kiểu: chết trong rừng già, bên bờ suối, bờ ruộng, trong hầm trú ẩn, trên đường mòn Hồ Chí Minh. Trên những địa danh như  Pleime, Dakto, Hạ Lao, Mậu Thân Huế, Quảng Trị, Khe Sanh.

 

Theo  Peter Brush trong bài The Battle of the Khe Sanh, 1968

 

- Pháo binh Mỹ đã rót 158.891 quả đạn sang phòng tuyến địch

-Máy bay chiến đấu của lực lượng không quân số 7 đã xuất hành 9.691 chuyến bay 

và thả 14.223 tấn bom và đạn Rockets .

-Máy bay của thủy quân  Mỹ xuất hành 7.078 chuyến bay và thả 17.015 tấn bom

-Máy bay từ các Hàng không mẫu hạm xuất hành 5337 lượt và thả 7.491 tấn bom ..

-Máy bay B.52 xuất hành 2.548 lượt và thả 59.542 tấn bom và trang bị xuống Khe Sanh

- Số binh lính tử trận về phía cộng sản vào khoảng từ 10.000 đến 15.000n người  trong trận Khe Sanh.

 

Tổng cộng chung có 14 triệu tấn bom đã được xử dụng tại VN.

 

Nhà báo Oriana Fallaci đã đi quan sát trận địa Khe Sanh cho biết: toàn bộ sư đoàn 325, niềm tự hào của tướng Giáp đã biến mất dưới những trận mưa bom của Mỹ và được gọi là :" Điện Biên Phủ thứ hai"t!!

 

" Và nhóm 50 người đầu tiên của đại đội Delta đã tới được những giao thông hào và ở đó người ta tìm thấy hàng chục khẩu moóc chê để lại, những dàn phóng rốc két, rồi liên thanh hạng nặng, những cái nón do Liên Xô chế tạo, thùng còn đầy đạn, nhiều ba lô và 400 cái xẻng mới ..".(17)

 

(17)Trích Oriana Fallaci La vie, la guerre et puis rien ...trang 241

 

Nhìn cái cảnh "để lại tại trận Khe Sanh" như Oriana Fallaci vừa mô tả cho thấy chiến tranh vừa tàn bạo, vô tình đến dửng dưng, đến vô nghĩa không hiểu được.

 

Bài viết này xin đưa ra một số chứng từ tiêu biểu nhất về số phận những thành phần Thanh niên xung Phong trên tuyến đường Trường Sơn ,trong đó có trường hợp của nhà văn Dương Thu Hương ..

 

Đường mòn Hồ Chí Minh được xây dựng từ năm 1950. Nhưng kể từ năm 1959, có chiến dịch cho bộ đội Việt Minh xâm nhập vào Nam mỗi ngày một nhiều. Đường mòn HCM trở thành con đường huyết mạch vận chuyển người và võ khí vào miền Nam. Năm 1964 có 12.000 người và 33.000 vào năm sau. Từ 1966 đến 1971, con số lên tới 600.000 quân đội Bắc Việt được chuyển vào Nam qua đường mòn này.

 

Hàng vạn TNXP đã được điều động để xây dựng trên tuyến đường này. Sự tuyên truyền khéo léo, che dấu đã cho thấy nhiều thanh thiếu niên đã tình nguyện xông pha vào "cõi chêt" vì bom Mỹ bỏ ngày đêm.

(Còn tiếp)




Sunday, September 22, 2024(View: 601)
Riêng tôi khi mình lung túng không chắc chắn về những từ Hán Việt mà không hỏi ai được thì cứ ‘nôm na là cha mách qué” là hay nhất!
Saturday, September 21, 2024(View: 1155)
Nhìn vào tấm lịch treo trên tường, tôi thấy ngày Thứ Ba 17 Tháng 9 năm 2024 lại là ngày Tết Trung Thu năm 2024.
Friday, September 20, 2024(View: 1643)
Tháng chín Cali đón thầy cô Huỳnh Công Ân đến thăm. Thầy bây giờ cũng không khác học trò là bao, nhiều khi còn trẻ hơn là khác.
Friday, September 20, 2024(View: 817)
Lần lượt từng cuốn album được lật qua, nâng niu, từng kỷ niệm sống lại, bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, để rồi ngẩn ngơ chép miệng, mới ngày nào!
Sunday, September 8, 2024(View: 1240)
Nghe nói cơn bão Yagi đang tiến vào Trung Quốc và VN. Xin cho cơn bão mau qua và đừng gây thiệt hại cho người dân tội nghiệp nước tôi. Cầu nguyện. Cầu nguyện.
Sunday, September 8, 2024(View: 5537)
BĐH Website NQBH xin chuyển lại nguyên văn bài viết của em Linh Vũ, là thứ nữ của Thầy Vũ Khánh Thành. Nội dung bài viết tựa lời ly biệt, như tiếng lòng của em Linh Vũ đối với người cha quá cố em yêu thương.
Sunday, September 8, 2024(View: 1168)
Chiều nay cũng như những buổi chiều hôm trước, những cơn mưa cứ rả rích liên miên bất tận. Mưa không lớn, mang theo gió lạnh buốt, hình như từ bên phía đồi cù tràn qua.“Mưa nhè nhẹ cho vừa nhớ thương”,
Saturday, September 7, 2024(View: 1895)
các quán cà phê nhạc được phổ biến những dòng nhạc thịnh hành ở hải ngoại lúc bấy giờ, qua phần trình diễn bởi các ban nhạc nổi tiếng như: ABBA, Boney M, Modern Talking, Bee Gees..
Friday, September 6, 2024(View: 2488)
Nó có khiếu kể chuyện vui. Câu chuyện tầm thường mà qua cách kể chuyện của nó, thiên hạ lắng nghe và cười. Nó là ngôi sao sáng, là trung tâm của bạn bè.
Wednesday, September 4, 2024(View: 1027)
Trong thời gian tôi học ở bậc trung học và đại học, đa số các ông thầy của tôi đều là “Bắc Kỳ”. Có lẽ vì ở miền Bắc, đời sống khó khăn hơn, thời tiết khắc nghiệt hơn, ...
Wednesday, September 4, 2024(View: 1246)
Tôi không biết anh Nhật Tiến có sinh hoạt Hướng Đạo cho đến khi gặp Anh tại trại họp bạn Hướng Đạo Giữ Vững 1970 tại Suối Tiên Thủ Đức và được sinh hoạt chung với Anh từ năm 1971
Wednesday, September 4, 2024(View: 802)
Cám ơn người đã dừng chân ghé bến Bến yêu thương, bến quí trọng, thân tình Nếu ta cùng chung một kiếp nhân sinh Thì ta hãy thương yêu trong cuộc sống
Monday, August 26, 2024(View: 2845)
Và thế tôi xin mượn âm điệu bài hát 'NGÀN THU ÁO TÍM" của nhạc sĩ Vĩnh Phúc và Hoàng Trọng để diễn tả cuộc tình thật đẹp của những đôi tình nhân cùng học trường Ngô Quyền Biên Hòa.
Monday, August 26, 2024(View: 887)
Bước vào năm 2000 của thế kỷ 21 chúng tôi quyết định vào mùa hè đi thăm nước Mỹ bằng cách lái xe xuyên bang qua các vùng thuộc miền Trung và Đông Bắc của nước Mỹ ...
Sunday, August 25, 2024(View: 919)
Quả thực, Francoise Sagan là một hiện tượng văn học phổ biến một cách rộng rãi ở miền Nam. Sagan có lối viết thật ngắn, gọn.
Friday, August 23, 2024(View: 966)
Năm 1970, chiếu theo giấy phép số: 3343/GD/KHPC/HD/7 thiết lập Nữ Học Viện bậc Đại Học, áp dụng mô thức một Viện Đại Học Cộng Đồng
Tuesday, August 20, 2024(View: 1025)
Ngày18/8/2024 tin tài tử đẹp trai huyền thoại của Pháp: Alain Delon không còn nữa khiến những người hâm mộ nghệ thuật thứ bảy không khỏi bàng hoàng, tiếc nuối.
Tuesday, August 20, 2024(View: 1192)
Kể lại câu chuyện trên tôi nhớ lại thời gian ngắn ngủi làm việc thiện nguyện cùng với YMCA. Nhắc đến ông Ronald Luce tôi có hai điều đáng nhớ.
Monday, August 12, 2024(View: 2023)
Chào tạm biệt, và cảm ơn Paris. Bốn năm nữa, tháng 7 năm 1928, Thế vận hội Los Angeles sẽ mang màu sắc của "thành phố Thiên thần" .
Sunday, August 11, 2024(View: 1274)
Ai nói mẹ chồng không thương con dâu. Bà mẹ chồng tôi viết ở đây là minh chứng cho tình yêu thương tuyệt vời của một người mẹ. Hãy mở lòng ra và yêu thương chân thật, ta sẽ nhận lại được nhiều hơn ta nghĩ.