ĐƯỜNG MÍA LAU
Nguyễn Trần Diệu Hương
Thời thơ dại, mỗi lần nghe câu ca dao dân gian:
“Mẹ già như chuối ba hương,
Như xôi nếp một như đường mía lau"
tôi
vẫn nghĩ đến… thức ăn (chuối ba hương, xôi nếp một, đường mía lau)
nhiều hơn là nghĩ đến Mẹ (vì lúc đó Mẹ chưa đến tuổi bốn mươi, chưa già
như trong câu ca dao dân gian nổi tiếng). Nghĩ như vậy, nhưng tôi không
biết chuối ba hương là loại chuối nào, xôi nếp một có gì khác với xôi
vò, xôi đậu xanh, đậu đen, xôi lá dứa… và đường mía lau khác với đường
cát trắng thường dùng để làm nước chanh, hay
đường cát vàng để nấu chè đậu ván như thế nào? Thắc mắc đó cứ quanh
quẩn trong đầu, nhưng tôi không dám hỏi ai, sợ người ta cho là mình
tham ăn.
Chưa kịp lớn lên để tự tìm hiểu ba món ăn chắc hẳn là ngon và quý lắm nên mới
được người ta so sánh với những bà Mẹ, người có trái tim và tấm lòng
được ví von với kỳ quan đẹp nhất thế giới, biến cố tháng 4/1975 như một
cơn lốc cuốn đi nhiều thứ quý giá của người dân miền Nam, nhưng không
làm mất được câu ca dao ngọt ngào có Mẹ, có những món ăn mà mãi sau
này, ở tuổi nửa đời người, tôi vẫn thắc mắc đó là những món nào?
Mặc
dù không biết được cả chuối ba hương, lẫn xôi nếp một, và đường mía lau
như thế nào nhưng tôi chắc chắn cả ba món đó đều ngọt ngào cho vị giác,
và không có tác dụng tai hại cho sức khỏe, như tấm lòng của tất cả mọi
bà mẹ trên đời đối với con cái của mình
Tôi
có diễm phúc được lặn ngụp trong ngọt ngào của lòng Mẹ, trong sự bao
che của Mẹ với chúng tôi như gà mẹ đối với bầy gà con hàng ngày trong
suốt tuổi thơ. Nhiều khi quên mất mình đang được hưởng thứ hạnh phúc
mật ngọt lớn nhất đời người.
Mẹ
là chị cả của các dì, cậu, từ nhỏ Mẹ đã giúp Bà Ngoại lo cho các em,
nên lúc nuôi chúng tôi sau này, Mẹ đã “dày dặn kinh nghiệm chiến trường” trong việc nuôi con nít, vì vậy chúng tôi lớn lên khỏe mạnh, dễ nuôi, không bị đau ốm vặt vãnh.
Hồi
đó, khoa học dinh dưỡng chưa phát triển như bây giờ, ở Mỹ, -thức ăn nào
cũng có nutrition facts trên bao bì theo luật bảo vệ sức khỏe người
tiêu dùng-. Nhưng bằng kinh nghiệm dân gian truyền từ đời này sang đời
khác, Mẹ cho chúng tôi ăn thực phẩm có đủ màu: màu đỏ của củ dền, màu
vàng của bí rợ, màu trắng của củ cải, màu xanh đậm của rau cải,
dưa leo, màu xanh nhạt của bí bầu và mướp hương, mướp đắng… Nhờ vậy,
lớn lên chúng tôi có được thói quen tốt ăn trái cây và rau cải nhiều
hơn thịt, cá hay đồ biển. Và do đó, tránh được nỗi ám ảnh của
cholesterol, bệnh tiểu đường, bệnh cao máu… cùng tất cả thứ bệnh tật
đến do thức ăn.
Thời con gái, Mẹ là nữ sinh Đồng Khánh, tuy không phải là hoa khôi, nhưng cũng được tiếng dễ nhìn. Xã
hội thời đó, thập niên 50s của thế kỷ hai mươi, đàn bà con gái, nhất là
ở Huế, việc nấu ăn, may vá, thêu thùa, nội trợ được đặt trên văn hóa
rất nhiều, nên Mẹ nấu ăn rất giỏi. Sau này, ở California, thỉnh thoảng
cuối tuần đi ăn thử bún bò Huế ở nhiều nơi, chúng tôi vẫn thấy nhớ
đến tô bún bò kiểu Huế chỉ lớn hơn cái chén một chút, có đủ màu sắc đỏ,
xanh, vàng, thoáng thoáng mùi xả tươi mà Mẹ vẫn nấu cho chúng tôi ăn
thủa nào. Những năm gần đây, chúng tôi được Mẹ
tận tình “truyền nghề bếp núc”. Một trong những cô con dâu của Mẹ nói
tiếng Việt nhiều khi không chính xác, nhưng mỗi lần về Việt Nam thăm
nhà, mỗi ngày được Mẹ dạy nấu một món ăn. Khi qua lại Mỹ, mỗi lần có
tiệc tùng, những món ăn học được từ Mẹ vẫn được mọi người hỏi là đặt ở
nhà hàng nào?
Rời
trường Đồng Khánh, Mẹ đi làm ở Bưu diện. Công việc của Mẹ là trực điện
thoại ở Tổng đài, vào cái thời đại mà điện thoại có dây, mỗi lần muốn
gọi cho ai, phải quay từng số một trên cái đĩa tròn lớn có những vòng
tròn nhỏ hơn, mỗi vòng tròn nhỏ là một con số từ 0 đến 9. Lập
gia đình được vài năm, khi anh cả của chúng tôi ra đời, theo ý của Ba,
Mẹ thôi việc, ở nhà làm nội tướng. Công việc ở nhà không tên, không
tuổi, và không có giờ giấc cố định như đi làm Công chức, Mẹ vất vả hơn, nhưng bù lại có tiếng cười của anh chị em chúng tôi làm Mẹ vui hơn.
Ba
là lính nên những năm đầu tiên mới lấy Ba, Mẹ phải dọn nhà liên tục.
Tưởng tượng cảnh Mẹ dọn nhà không có ai giúp, vì Ba vẫn đang miệt mài
chinh chiến, con cái thì còn nằm nôi hay mới chập chững biết đi, tôi
vẫn thán phục việc quán xuyến nhà cửa của Mẹ.
Ông
Bà Ngoại người Trung, thời con gái, Mẹ chỉ được rèn luyện nấu ăn kiểu
Huế, món nào cũng cầu kỳ, hơi ngọt, và nhỏ xíu. Vậy mà khi lấy Ba, làm
dâu Bà Nội là người Bắc, món ăn mặn hơn, kích thước cũng lớn hơn nhiều
vậy mà chỉ sau chưa đầy một năm làm dâu, Bà Nội đã “cho
điểm” nấu ăn của Mẹ rất cao. Lúc dọn nhà vào miền Nam, Mẹ học được thêm
món canh chua nổi tiếng của người Sàigòn từ hàng xóm, nên chúng tôi lớn
lên, tuy giống Ba, không đứa nào kén ăn, nhưng biết thưởng thức đủ cả
ba món Bắc Trung Nam: từ vị mặn dịu dàng của món
ăn đạm bạc canh mồng tơi ăn kèm cà pháo của miền Bắc, đến vị cay nồng
của bún bò Huế miền Trung, và cả vị ngọt thanh của canh chua cá lóc
miền Nam. Lớn lên, do thời thế, phải nhận quê người làm quê hương,
nhiếu khi ăn đồ ăn Mỹ thừa mứa chất dinh dưỡng nhưng thiếu hẳn vị đậm
đà của món ăn Việt Nam, và không còn bàn tay nội trợ của Mẹ, lâu lâu
chúng tôi vẫn “ăn hàm thụ” trong trí tưởng tượng những món ăn được Mẹ
nấu ngày xưa. Và thấy Mẹ vẫn ở quanh mình chứ không phải xa cách cả một
đại dương.
Thời thơ dại, Ba Mẹ dạy chúng tôi bằng những câu ngạn ngữ , ca dao trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư nên anh
chị em chúng tôi dù không biết quyển Quốc Văn Giáo Khoa Thư dày hay
mỏng và màu gì nhưng đều thuộc tất cả ca dao, tục ngữ, kể cả những câu
Hán Việt, vì nghe mãi, tự nhiên vô đầu, nằm luôn ở một góc của tâm hồn,
và giúp chúng tôi giữ được cội nguồn Việt Nam dù đã rời xa quê nhà từ lúc bước vào tuổi hai mươi, không có Ba Mẹ bên cạnh.
Không
những chỉ lo cho chúng tôi, Mẹ còn quan tâm lo cho những người bạn học,
bạn hàng xóm của chúng tôi đến nhà chơi thời đó. Còn hơn thế nữa, một vài người bạn của Ba Mẹ phải thuyên chuyển đơn vị hay sở làm giữa niên khóa, không muốn làm gián đoạn việc
học hành của con cái, đôi lúc gởi con của họ đến nhà chúng tôi nhờ Mẹ
trông coi những tháng còn lại của niên học. Có lúc bầy con nít trong
nhà, kể cả chúng tôi, lên đến cả chục đứa. Vậy mà tất cả chúng tôi đều
tươm tất đàng hoàng. Mãi về sau này, mấy chục năm sau, khi Ba Mẹ qua Mỹ
thăm chúng tôi, những cậu bé thơ ngây ở tạm nhà chúng tôi thời nhỏ dại,
đã trở thành những người đàn ông trung niên thành công, từng trải, vẫn
thu xếp thời giờ rất qúy báu của họ, đến thăm Ba Mẹ, và vẫn nhớ ơn Mẹ
đã trực tiếp lo cho họ rất chu đáo, bằng cả một trái tim của người Mẹ
như lo cho chúng tôi, bầy con Mẹ đã mang nặng đẻ đau.
Là
con gái duy nhất trong nhà, giữa một bầy anh em trai, Mẹ thương tôi
không có ai chơi những trò chơi của con gái, nên mỗi khi chọn người
giúp việc nhà, Mẹ thường chọn người không lớn hơn tôi nhiều, mặc dù như
vậy không có hiệu quả nhiều như khi thuê một người trung niên. Mẹ
là vậy, vẫn nghĩ đến người khác nhiều hơn là nghĩ đến bản thân mình.
Những ngày tháng vất vả đi thăm nuôi Ba trên những chuyến tầu thống
nhất xuyên Nam Bắc, người và hàng hóa chen chúc đến nỗi không có lối
đi, không thấy sàn tàu. Lúc đó, chúng tôi còn nhỏ, không giúp gì được
nhiều cho Mẹ, thông thường chỉ có một đứa được theo Mẹ ra Bắc thăm Ba,
và thêm vào gánh nặng cho Mẹ nhiều hơn là đỡ đần cho Mẹ. Vậy mà có một
lần thăm nuôi Ba ở trại Đầm Đùn (một trại tù chính trị có tiếng khắc
nghiệt nhất Việt Nam), được người ta gọi bằng một cái tên văn hoa hơn
là trại Nam Hà, ngoài đồ đạc thăm nuôi, và một đứa con còn nhỏ, Mẹ còn
giúp thêm một bà cụ thân sinh ra một người bạn đồng ngũ của Ba từ trước năm 75, rồi thành “bạn tù” của Ba cả một thập niên dài. Sau
này, ở Mỹ, mỗi lần mua gạo từ 25lbs (10kg) trở lên, tôi đã phải nhờ
người khác vác giùm từ xe vào bếp… Tưởng tượng hình ảnh Mẹ lúc đó, cả
áo quần và giày dép, chỉ cân nặng khoảng hơn bốn mươi kg; mà ngoài hai
mươi kg quà bánh, thuốc men nuôi Ba, còn hai mươi kg đồ thăm nuôi đỡ
đần giùm bà cụ đi cùng, đôi lúc lại còn phải nâng đỡ cả người già lẫn
con nít, tôi thấy được tấm lòng của Mẹ bao la vô cùng, và tự thấy mình
thua Mẹ rất nhiều về sức chịu đựng.
Thời
mới đến Mỹ, còn đi học, nghèo xác xơ, lái một cái xe rất cũ có số tuổi
còn cao hơn tuổi của người lái, máy lạnh bị hư, máy sưởi lúc làm việc
lúc không, radio tắt tiếng không bao giờ nghe được news hay nhạc khi
đang lái xe, mỗi tối đi học về, tôi thường đi đường trong dài hơn thay
vì đi đường xa lộ, vì nếu xe có bị hư dọc đường, đường nhỏ đỡ bị nguy hiểm hơn xa lộ. Vậy
mà chúng tôi vẫn thấy mình hạnh phúc khi nghĩ đến chặng đường Mẹ đi
thăm nuôi Ba, có đoạn phải đi xe trâu (tôi không biết đó là xe gì,
nhưng nghe tên gọi đã đủ thấy… hãi hùng!), có
đoạn phải đi bộ trên đường rừng gập ghềnh, chênh vênh. Vả chăng, lúc
đó, chúng tôi dù mới đến Mỹ còn cơ cực, vẫn vui vì có cả một tương lai
rộng mở ở quê người, trong khi Ba Mẹ ở quê nhà chịu nhiều gian lao mà
không có ngày mai.
Ngay từ lúc đó, Mẹ đã tập cho chúng tôi nghĩ đến người kém may mắn hơn, mỗi năm mỗi đứa “cho Mẹ xin”
hai mươi dollars để Mẹ mua sách vở cho những em bé nghèo hiếu học ở
Việt Nam, hay mua gạo cho những người già neo đơn và người tàn tật. Lúc
đầu, chúng tôi gởi hai mươi dollars mỗi năm làm việc thiện, chỉ để cho
Mẹ vui, mãi về sau, thành thói quen, và càng trưởng thành, chúng tôi
càng hiểu mình phải có bổn phận giúp đỡ người không may, đúng như câu
“lá lành đùm lá rách” đã được học từ thủa nào. Hai mươi dollars gởi về
quê nhà hàng năm tăng theo cấp số cộng, và trở thành một hoạt động
không thể thiếu mỗi năm của chúng tôi, như gương sáng mà chúng tôi đã
thấy từ Ba Mẹ.
Có một kỷ niệm về một lần chuẩn bị thức ăn đi thăm nuôi Ba ở trại cải tạo ngoài Bắc suốt đời chúng tôi không thể nào quên được. Hồi đó, cuối thập niên 70, đời sống khó khăn đến mức độ những thứ bình thường cho nhu cầu sống hàng ngày của con người cũng không có. Mỗi lần gởi đường cho Ba, tôi phải dùng dao nhỏ cạo từng thỏi đường đến nát vụn ra, rồi vắt chanh tươi vào, đem phơi nắng, làm thành một thứ “kẹo chanh” rất thô sơ, mong Ba vừa có đủ chất ngọt, vừa có Vitamin C để sống còn trong các “trại học tập cải tạo” chỉ tồn tại trong xã hội chủ nghĩa. Lúc đó, chúng tôi đang tuổi lớn, trong bối cảnh toàn xã hội đói nghèo, cơ cực, cũng thèm chất ngọt vô cùng, nhưng biết dùng ý chí thắng bản năng của mình, vì hiểu Ba cần đường vắt chanh hơn là mình. Duy có mỗi một cậu em út, còn ở những năm đầu Tiểu học lúc đó, vẫn len lén nhón vài nhúm đường chanh ăn thay cho bánh kẹo. Sau mỗi một ngày phơi đường vắt chanh dưới nắng gắt, đường khô dần, tôi phải cân lại để biết sẽ còn bao nhiêu trọng lượng còn lại cho những món khác mỗi lần gởi quà thăm nuôi cho Ba, vì nếu quá trọng lượng quy định, quà sẽ không đến tay Ba. Một lần cân lại đường vắt chanh, thấy trọng lượng bị giảm gần một nửa. Đoán là cậu em út là “thủ phạm”. Khi bị tra hỏi, em trả lời rất hồn nhiên, và ngây thơ:
- Chắc mình phơi trên mái nhà , bị con mèo nhảy lên đó ăn bớt!
Những đứa lớn chúng tôi và Mẹ đều cười thầm, vì loài mèo không bao giờ ăn thức ăn ngọt, nhưng Mẹ vẫn dịu dàng, từ tốn dặn dò:
- Thôi lần sau, làm nhiều đường chanh hơn một chút, để trừ hao “mèo” ăn mỗi lần phơi đường trên mái nhà.
Có những điều “không nói ra nhưng ai cũng hiểu chỉ có một người không hiểu”,
nên cậu em út còn non dại,vẫn tiếp tục ăn đường vắt chanh phơi trên mái
nhà, thay cho bánh kẹo mà em không có; và con mèo vẫn mang tiếng oan.
Điều đó vẫn nằm trong một góc ký ức của Mẹ và chúng tôi về những ngày
không hề có cả một tia sáng lẻ loi ở cuối đường hầm dài hun hút tối tăm
mù mịt như tương lai của con cái những nguời tù chính trị vào đầu thập
niên 80s.
Và
do vậy, Mẹ đành dứt ruột gởi chúng tôi, từng đứa một, ra biển để may ra
nếu đến được bờ bến tự do, còn có tương lai, còn được học hành thành
người. Sau này, nhìn lại, tôi vẫn phục và thương Mẹ đã hy sinh rất
nhiều để chúng tôi có được ngày hôm nay.
Đến
phiên tôi mang chính sinh mạng mình ra đánh cuộc với định mệnh, với
sóng gió trên biển Đông bao la, Mẹ đưa tôi ra bến xe liên tỉnh, hôm đó
trời xanh tháng sáu mùa hè, nhưng “bão tố phong ba” nổi
lên trong lòng cả hai mẹ con. Tôi bắt đầu hành trình xuyên qua đại
dương từ bến xe liên tỉnh về Vũng Tàu, -mang theo hình ảnh Mẹ, mảnh
mai, yếu đuối như một cây lau, nhưng có sức chịu đựng như một cây cổ
thụ, đứng một góc bến xe, với cái xách tay rất cũ, gần sờn rách Mẹ đã
dùng từ tháng 4 năm 1975, nhìn theo cái xe cũ kỹ mang tôi về hướng biển
Vũng Tàu- không phải để đi nghỉ hè, đi tắm biển, mà để đi tìm tương
lai, để được tự do học hành, và không bị xếp loại thứ mười bốn trong
mười lăm thứ bậc của xã hội chủ nghĩa.
Hình
ảnh Mẹ ốm yếu với cái xách tay duy nhất Mẹ đã dùng từ tháng 4/75, đứng
bất động ở một góc bến xe, nhìn theo cái xe đò cũ kỹ mang tôi về hướng
Vũng Tầu cứ quẩn quanh trong trí tưởng của tôi. Nên khi đã học hành
xong, ổn định đời sống ở Mỹ, tôi không ngừng gởi về cho Ba Mẹ đủ loại
Vitamin, và những cái xách tay đủ cỡ, đủ kiểu đủ hiệu từ rẻ tiền đến brand name mặc dù như từ bao giờ, Mẹ không đòi hỏi gì từ chúng tôi.
Mẹ
cũng chưa bao giờ dạy chúng tôi phải trả ơn cho Ba Mẹ nhưng cứ nhìn
cách Ba Mẹ đối xử với Ông Bà Ngoại, và Bà Nội, chúng tôi hiểu mình phải
làm gì để Ba Mẹ vui.
Thế
hệ của Mẹ, thế hệ của những người trạc tuổi nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, đàn
bà con gái thời đó, nhất là đàn bà con gái ở Huế, rất thích bài “Diễm
Xưa”. Hồi nhỏ tôi vẫn được nghe bài này, nghe đi nghe lại rất nhiều lần
mà… không biết mình có hiểu đúng ý của tác giả hay không, nhưng tôi vẫn
nhớ mãi câu “… làm sao em biết bia đá không đau…” và nghĩ là
thế hệ lớn hơn mình, những ông cha bà mẹ, phải hy sinh rất nhiều, nhất
là sau năm 1975. Đôi lúc tôi vẫn tưởng tượng dù bia đá cũng đau như ông
nhạc sĩ có tài đã viết thanh ca khúc, nhưng không bằng một phần nhỏ nỗi
đau của những ông Cha, nỗi chịu đựng của những bà Mẹ Việt Nam, trong đó
có Mẹ yêu quý của chúng tôi trong những ngày khốn khó cuối thập niên
70s, đầu thập niên 80s.
Khác với thời thơ dại, bây giờ, mỗi khi nghe câu ca dao “mẹ già như chuối ba hương, như xôi nếp một như đường mía lau”,
tôi chỉ nghĩ về Mẹ, nghĩ về tấm lòng bao la hơn cả đại dương của Mẹ. Và
không cần phải biết xôi nếp một, chuối ba hương, và đường mía lau ra
sao, tôi vẫn tin là ba món ăn đó ngọt ngào và quý hiếm , quý như Mẹ của
chúng tôi, như mỗi một bà Mẹ Việt Nam mà tấm lòng bao la hơn cả đại
dương to rộng.
Đâu
có cần phải biết đường mía lau là gì, chỉ cần có Mẹ ở trên đời là mỗi
một chúng ta đã có được vị ngọt dịu dàng nhất trên đời, Dù có lớn, có
già đến đâu đi nữa, hạnh phúc lớn nhất trên đời vẫn là được nếm đường
mía lau, được ăn chuối ba hương, được nhai xôi nếp một, và được cài
bông hồng đỏ mỗi dịp lễ Vu lan - Mother’s Day của người Việt Nam-. Cầu
mong bông hồng đỏ nằm trên ngực áo của mỗi người sẽ tồn tại lâu dài,
dài như sự hy sinh triền miên, không ngừng nghỉ của mỗi một người Mẹ
Việt Nam trong gian khổ cũng như trong an nhàn…
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Santa Clara, Mothers’s Day 2009- Với tất cả lòng biết ơn Mẹ của 5H)