Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Huỳnh Công Ân - TỪ SÀI GÒN ĐẾN MONTRÉAL, NỔI TRÔI THEO VẬN NƯỚC (Chương IV)

20 Tháng Tư 201912:49 SA(Xem: 12464)
GS. Huỳnh Công Ân - TỪ SÀI GÒN ĐẾN MONTRÉAL, NỔI TRÔI THEO VẬN NƯỚC (Chương IV)
Chương 4 - Bn năm dy hc Trà Vinh


Tôi tốt nghiệp đại học sư phạm năm 21 tuổi, còn quá trẻ để di dạy học . Học sinh mới lên lớp đệ nhứt (lớp 12 bây giờ)  trể nhứt là 17 tuổi, nhưng thường thường là 18, 19 tuổi. Như vậy tôi chỉ hơn học trò có 2, 3 hoặc nhiều nhứt là 4 tuôi. Ở dưới tỉnh , người ta thường học trễ, nên có lớp học sinh lớn hơn thầy. Như lớp dệ nhị B2 đầu tiên tôi dạy ở trường trung học Vĩnh Bình có anh học trò sinh năm 1943, nghĩa là lớn hơn tôi một tuổi. Tôi nghe nói có một giáo sư mới ra trường, khi đến trình diện ông hiệu trưởng, anh cứ thập thò ngoài cửa, ông hiệu trưởng tưởng anh là học sinh quát bảo giờ học sao không vào lớp. Lát sau, khi biết đó là giáo sư mới đến nhận nhiệm sở, ông hiệu trưởng phải xin lỗi thầy giáo mới. Tôi cũng từng bị lâm vào trường hợp tương tự như vậy nhưng không phải là tại nhiệm sở của tôi. Số là, một lần về Sài Gòn nghỉ lễ, khi trở xuống dạy và đi ngang Vĩnh Long tôi ghé trường Tống Phước Hiệp thăm anh bạn cùng khóa là Nguyễn Trọng Bối đang dạy ở đó. Khi đang hỏi nhân viên ở văn phòng thì ông hiệu trưởng xuất hiện hỏi tôi: em tìm thầy Bối có việc gì? Tôi trả lời tôi là bạn cùng khóa với anh Bối, sẵn đi ngang đây ghé thăm anh ấy. Ông hiệu trưởng vỡ lẽ xin lỗi tôi. Sau này tôi và ông ấy cùng định cư tại Montréal và trở thành quen biết. Để tránh bị hiệu trưởng hiểu lầm là học sinh, tôi quyết định thắt cravate khi đi trình diện. Mới xuống tỉnh nên từ nhà tôi ở, tôi đi bộ đến trường trình diện để nhận nhiệm sở. Dọc đường, khi tôi đi ngang nhà nào, người ta cũng đổ xô ra chỉ chỏ. Tôi mắc cỡ cứng cả người. Thì ra trong trường học sinh đã được tin có một số thầy giáo mới ra trường sẽ về dạy ở đây. Họ về nhà nói lại với cha mẹ họ thành ra cha mẹ họ hiếu kỳ muốn nhìn mặt các ông giáo sư mới.

Hôm đi xe đò xuống trình diện nhiệm sở Trà Vinh, dọc đường ở những nút kiểm soát cảnh sát sau khi đọc sự vụ lệnh đi nhận nhiệm sở của chúng tôi, các anh cảnh sát nói với nhau rằng hôm nay sao có nhiều ông đi công tác gì mà có sự vụ lệnh giống nhau. Tôi mỉm cười tự nhủ công tác dạy học chứ công tác gi!

Hôm đó tôi đi xuống Trà Vinh với Huỳnh Ba, một học sinh vừa đậu Tú Tài 2 mới lên Sài Gòn ghi danh học ở đại học văn khoa. Huỳnh Ba là em bà con bên ngoại của tôi, sẵn trở xuống Trà Vinh chuẩn bị để vào học văn khoa nên làm hướng đẫn viên cho tôi. Huỳnh Ba và tôi trao đổi nhau, tôi xuống Trà Vinh dạy sẽ ở nhà Huỳnh Ba, còn Huỳnh Ba lên Sài Gòn học thì sẽ trú ngụ ở nhà tôi. Nhà Huỳnh Ba ở Tri Tân A. Má của Huỳnh Ba được má tôi gọi bằng chế. Vì gia đình Huỳnh Ba là người Hoa nên tôi lớn tuổi hơn Huỳnh Ba thì vào vai anh. Ba má Huỳnh Ba làm nghề bán heo con ở chợ Trà Vinh. Huỳnh Ba là một trong số các học sinh thế hệ đầu tiên của trung học Vĩnh Bình. Về sau, Huỳnh Ba đậu vào trường Cao Đẵng Sư Phạm Cần Thơ, ra trường Huỳnh Ba về trung học Vĩnh Bình dạy chung với tôi và phụ trách môn văn các lớp đệ nhứt cấp.

Nhà Huỳnh Ba là loại nhà trệt, tường gạch, mái ngói đỏ, thềm cao, chung quanh có tường che và có cổng vào. Đất nhà dài bề sâu. Sau nhà trên là nhà bếp cất riêng. Đối diện nhà bếp là giếng nước và một dãy chuồng heo. Hai bác Tư, ba má Huỳnh Ba mua heo con do mối dưới quê đem lên. Ông bà chỉ nuôi có vài ngày rồi đem ra chợ bán.Sáng sớm người đạp xe lôi mối cho bác Tư chạy tới nhà, bác Tư trai đến các chuồng, lựa những con heo nào mập mạp bắt đem lên xe chở ra chợ. Một lát sau bác Tư gái mới đi ra chợ. Trưa hai bác cũng đi xe lôi về, có khi bán hết, có khi còn một hai con heo. Bác Tư trai lại bỏ chúng vào chuồng. Bác Tư gái đã đi chợ trước khi về để chuản bị bữa ăn trưa. Hai bác chỉ bán chợ có một buổi sáng.

Hai bác có bốn người con. Chị Hai là con gái lớn, có chồng và lúc đó có ba con, cất nhà  ở phía sau nhà bác Tư và ở chung với ông già chồng. Hai vợ chồng chị cũng làm nghề bán heo con như hai bác. Huỳnh Ba à con trai lớn kế chị Hai, hai người con kế là Huỳnh Văn Giàu và Huỳnh Thắng Lợi. Cả ba người con trai đều là học sinh của trường trung học Vĩnh Bình. Huỳnh Ba có một người bạn là Huỳnh Văn Được, nhà nghèo, ở dưới quê lên tỉnh học và tá túc ở nhà Huỳnh Ba, phụ với bác Tư trai chăm sóc các con heo. Được chính là người học trò lớn hơn tôi một tuổi học lớp đệ nhị B2 mà tôi phụ trách ban toán. Nghe nói về sau, Được đậu cử nhân luật, có vợ giàu và là chủ một cây xăng. Hiện nay Được ở nước ngoài nhưng không rõ ở đâu. Huỳnh Ba mất vì đột quy sau khi đánh một ván cờ tướng ở quán  nước và trên đường đi bộ về nhà. Huỳnh Văn Giàu học với tôi hai năm đê tam B2 và nhị B2, hiện vẫn ở nhà cũ.  Mỗi lần về nước và xuống Trà Vinh, tôi không bao giờ quên đến đi chơi với Giàu. Còn Lợi thì hiện ở San Diego, Hoa Kỳ. Vợ chồng anh chị Hai đều mất hết. Anh chị có ba đứa con ở Âu Châu và một đứa ở Việt Nam.

Cùng ra trường khóa 1 năm 1965 và cùng về Trà Vinh với tôi có các anh Nguyễn Văn Quan, Huỳnh Bá Lạc và Lê Vĩnh Thọ  dạy Quốc Văn, Trà Văn Gởi và Lê Quốc Tấn dạy Vạn Vật, Lê Tấn Kiệt dạy Sử Địa, Vài tháng sau thêm hai anh Trần Kim Hoàng và Lương Văn Kiệt dạy Lý Hóa cũng về Trà Vinh, Lúc đó đa số giáo sư mới ra trường đều còn độc thân, ngoại trừ anh Thọ có gia đình, Lê Tấn Kiệt và Tấn sống khép kín, chúng tôi nhanh chóng kết thân với các đồng nghiệp đang dạy  ở đây như Nguyễn Bình Tưởng dạy Sử Địa , Huỳnh Đạt Bửu dạy Triết, cả hai ra trường trước chúng tôi một năm, Nguyễn Quang Hiền dạy Pháp Văn. Bửu và Hiền là dân "sở tại" nên hướng dẫn chúng tôi hội nhập vào lối sống ở tỉnh lẻ.

Gởi, Quan, Lạc và Lê Tấn Kiệt mướn nguyên một căn nhà lầu ở đường bờ sông, gần cầu Tiệm Tương. Vì chủ nhà thấy nơi đó không an ninh nên cho các thầy giáo mướn với một giá rất rẻ. Đêm đêm, nhóm  thầy giáo trẻ chúng tôi tụ tập ở đó nhậu nhẹt, ca hát hoặc đánh bài.

Khi tôi vê Trà Vinh thì tại đây có trường trung học công lập Vĩnh Bình dạy đến lớp đệ nhứt, trung học bán công Trần Trung Tiên dạy đến lớp đệ nhị và trung học tư thục Thánh Gioan dạy đến đệ tứ. Trường Vĩnh Bình nằm đối diện với doanh trại của trung đoàn 14, thuộc sư đoàn 9 bộ binh. Trường Trần Trung Tiên năm song song với trường công lập và gần sân vận động. Hiệu trưởng trường công lập là anh Hà Khải Hoàn kiêm nhiệm hiệu trưởng bán công. Giám học trường công lập là anh Nguyễn Xuân Nhựt, khóa đàn anh ban toán của tôi.

image001

Trường trung học Vĩnh Bình

Năm đầu tiên về trường trung học công lập Vĩnh Bình tôi được phân công dạy lớp đệ nhị B2, lớp đệ nhị A2, lớp đệ ngũ 3, lớp đệ ngũ 4 và lớp  đệ thất 8  Giờ dạy bắt buộc đối với một giáo sư trung học đệ nhị cấp là 17 giờ nếu có day lớp thi, 18 giờ nếu không có dạy lớp thi. Những giờ còn lại chúng tôi được lãnh tiền tính theo số giờ gọi là lương phụ trội. Giáo sư mới ra trường có ngạch trật là giáo sư đệ nhị cấp hạng 4, chỉ số lương là 470 cao hơn người tốt nghiệp quốc gia hành chánh và kỷ sư Phú Thọ chỉ có 430. Lương căn bản của chúng tôi là 7.200 đồng, trong khi lương một người lính lúc đó chỉ có 900 đồng. Cộng với lương phụ trội dạy thêm giờ tôi lãnh được khoảng 10.000 đồng một tháng. Tôi đặt cơm tháng  nhà ông xếp nhà đèn có con gái học trường công lập. Mỗi ngày hai lần, có người mang ga men cơm tháng gồm cơm trắng và 3 món ăn:  canh, xào, mặn và một trái chuối tráng miệng đến nhà Huỳnh Ba giao cho tôi. Bà chủ nấu cơm tháng nói với tôi: giá cơm tháng cho công chức là 500 đồng, học sinh là 300 đồng nhưng tính cho thầy giáo có công dạy con em chúng tôi chỉ lấy 300 đồng như giá học sinh. Thật đúng như câu ca dao: "Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy". Thật ra, bác Tư gái, mẹ của Huỳnh Ba nói với tôi để tôi ăn chung với gia đình nhưng tôi lễ phép từ chối vì không muốn làm phiền thêm cho bác.

Gia đình tôi ở Sài Gòn lúc đó không khá giã lắm v đông con. Mỗi tháng khi lãnh lương tôi đều ra bưu điện mua mandat 5.000 đồng gởi về phụ giúp gia đình. Tuy vậy với số tiền còn lại tôi tiêu xài thoải mái. Thường tôi ít ăn cơm nhà, tôi cùng các bạn đồng nghiệp buổi trưa thì đi ăn ở nhà hàng Lạc Viên, nơi có một gánh nem nướng rất ngon bán trước nhà hàng, hay ăn ở nhà hàng Túy Hương;  buổi tối thì đi nhậu ở quán Lai Rai có ghế mây, đầu đường Tri Tân A hay quán Gió đường bờ sông hoặc quán Tứ Hải gần rạp hát. Thành ra ga men cơm của tôi thường được trả về bà chủ nấu cơm tháng. Tôi vẫn trả đủ tiền cơm tháng nhưng bà chủ nhứt đinh trừ ra những bữa tôi không ăn và thối tiền lại cho tôi.

Năm đầu tiên, tôi mua một chiếc xe đạp để đi dạy. Năm sau, tôi nhờ cậu tôi ở trong quân đội mua cho tôi một chiếc xe Honda dame màu xanh trong đợt bán xe honda cho lính. Tôi là người đầu tiên có xe Honda ở Trà Vinh. Bạn tôi, Huỳnh Đạt Bửu sờ vào cái bửng xe và la lên: Ê xe của thằng Ân làm bằng mũ .Thời đó các xe gắn máy đều làm bằng sắt, duy hảng Honda của Nhật sử dụng mũ cho vài bộ phận để  xe nhẹ hơn. Năm đó Huỳnh Văn Giàu học với tôi. Sáng nào tôi cũng chở Giàu đến quán Vĩnh Lạc ăn hủ tíu, uống cà phê sữa đá rồi vào trường, tôi vô lớp dạy còn Giàu vô lớp học.

Những kỷ niệm đầu đời dạy học của tôi là hai sự kiện một vui và một buồn. Trong buổi dạy dầu tiên ở lớp đệ ngũ 3, tôi "bị" em Phạm Thị Duyên "phỏng vấn" khá kỷ. Em là con gái một vị chánh lục sự làm việc tại tòa án Trà Vinh. Em và gia đình từ Sài Gòn xuống sống ở đây theo cha em. Biết tôi là người Sài Gòn, em hỏi tôi xem tôi có rành những đặc điểm của thủ đô không? Rạp xi nê nào các sinh viên, học sinh thường lui tới; đường phố nào cuối tuần dập dìu tài tử, giai nhân; nhà hàng nào có món bò kho nổi tiếng hay món bún suông thật ngon. Tôi đã trả lời chính xác những câu hỏi của em để chứng minh mình là một người  "Saigonnais" chính hiệu con nai vàng. Duyên hiện ở Toronto, Canada và được nhiều người biết đến qua câu chuyện vượt biên bi thảm của em với những người đồng thuyền.

Kỷ niệm thứ hai là chuyện xảy ra ở lớp đệ nhị B2. Một buổi sáng, khi tôi đến trường để dạy thì được anh hiệu trưởng mời vào nói chuyện. Tôi lặng người khi nghe anh nói các học sinh lớp đệ nhị B2 đã làm đơn gởi lên anh xin đổi người khác thay tôi dạy toán lớp đó vì tôi dạy các em không hiểu. Tự ái của một người trẻ khiến tôi nói với anh hiệu trưởng cứ việc làm theo nguyện vọng của các em. Anh hiệu trưởng lắc đầu nói không thể giải quyết như vậy được. Theo anh làm như vậy là tạo tiền lệ cho học sinh không thích giáo sư nào thì xin đổi giáo sư đó thì còn gì  kỷ cương nhà trường. Anh nói, phần anh sẽ bác lá đơn này, còn phần tôi hãy xét lại cách dạy của mình và tìm cách thay đổi làm sao cho học sinh hiểu bài và có thể làm bài được. Về nhà tôi suy nghỉ thấy mình quá háo thắng, quen tự tìm cách giải những bài toán khó khi học trên đại học mà đem những bài toán khó bắt các em học sinh tự giải mà không hướng dẫn gì cả. Bây giờ tôi hiểu ra dạy học sinh chứ không phải là đố học sinh. Ngày hôm sau, đến lớp tôi thay đổi hẵn cách dạy. Tôi nhìn thấy những ánh mắt sáng lên của các em học sinh, tôi biết mình đã làm đúng thiên chức của mình. Chuyện xin đổi giáo sư toán của lớp đệ nhị B2 dần chìm trong quên lãng. Khoảng cách giữa tôi và các em học sinh được thâu ngắn lại. Bây giờ các em đã hiểu bài và đa số làm được bài. Cuối năm học, tỷ số học sinh đậu Tú Tài 1 của lớp rất cao Tôi như trút được một gánh nặng.

Niên khóa thứ hai, tôi được anh Hoàn mời dạy thêm một số giờ bên trường bán công Trần Trung Tiên.  Bên trường công lập, tôi phụ trách các lớp đệ nhị B1, đệ nhị B2, đệ tứ 6.Tôi là giáo sư hướng dẫn lớp đệ nhị B2. Lớp này là lớp hỗn hợp nam và nữ, số các em nữ sinh đếm không đầy các ngón của hai bàn tay, nhưng ngoài em Nguyễn Văn Huệ ra còn một số em khác cũng học rất giỏi như  Trần Tuấn Kiệt, Nguyễn Hồng Vân,  Thạch Ngọc Hoài...Kiệt sau du học ở Đức có bằng cao học về năng lượng mặt trời, định cư ở Đức và nay về hưu thường về Việt Nam chơi và những lần tôi về Việt Nam, Kiệt dùng xe hơi chở vợ chồng tôi và một vài bạn học của Kiệt đi chơi đây đó. Nguyễn Hồng Vân hiện ở xã Hòa Bình, quận Tam Bình, Trà Vinh là chủ tiệm bán phân bón rất khá giả. Thạch Ngọc Hoài đã qua đời ở Việt Nam. Lớp này còn có các em nữ như Nguyễn Thị Kim Huệ, Trần Nguyệt Viên, Huỳnh Thị Kim Hồng cũng thường gặp tôi mỗi khi tôi về Việt Nam. Kim Huệ, Nguyệt Viên hiện ở Mỹ còn Kim Hồng ở Việt Nam. Lớp đệ tứ 6 là lớp có một nữ sinh sau này là bạn đời của người bạn tôi. Đám cưới của hai người tổ chức năm 1969, lúc đó tôi đã đổi về Biên Hòa nhưng cũng cố gắng mua vé máy bay về Trà Vinh tham dự.

Cuối niên khóa thứ hai, nhằm định hướng các em học sinh lớp đệ tứ chuẩn bị rời cấp học phổ thông sang cấp học chuyên khoa chọn ban A (sinh vật), ban B (toán) hay ban C (văn chương) cho mình, trường có tổ chức một buổi thuyết trình để ba giáo sư đại diện cho ba ban trình bày những ưu điểm của mỗi ngành học. Tôi được trường chọn thuyết trình cho ban toán. Vốn là một người say mê toán học từ thời trung học, tôi soạn bài thuyết trình rất kỷ lưởng hầu khuyến khích các em học sinh không cảm thấy toán là một môn học khô khan. Tôi vận dụng khiếu văn chương của mình để bài thuyết trình tươi mát, hấp dẫn chứ không khô cứng như bản chất của môn mình dạy. Cuối buổi thuyết trình, em Nghiêm lớp đệ tứ 3, người thường cổ vũ các bạn mình theo học ban C, thất vọng bảo với các bạn: thôi thua rồi, thầy Ân thuyết trình hay quá. Đầu niên khóa sau, số lớp đệ tam B đông hơn số lớp đệ tam A và không có lớp đệ tam C vì không đủ sĩ số. Không biết việc tôi "khuyến dụ" các em học sinh ồ ạt học ban toán là đúng hay sai?

Nhà Huỳnh Ba đối diện với vườn hoa bà cai Yến. Mỗi buổi chiều, tôi thường ngồi trước nhà nhìn ngắm đủ loài hoa đua nhau nở rực rở bên kia đường. Một buổi chiều nọ, vào khoảng đầu niên khóa dạy học thứ ba ở Trà Vinh,  tôi đang ngồi hóng mát và ngắm hoa như vậy trước cổng nhà, thình lình có một chiếc xe lôi ngừng trước cổng. Nguyễn Văn Nhiều, một người bạn cùng khóa và chơi thân với tôi bước xuống xe. Nhiều vào ban toán đại học sư phạm một lượt với tôi nhưng bị rớt năm thứ nhứt  ở lại chịu chế độ 4 năm nên ra trường sau tôi hai năm. Lúc về Sài Gòn chơi, tôi có rủ Nhiều khi ra trường về dạy ở Trà Vinh với tôi cho vui. Vì vậy chắc là anh xuống đây để quan sát tình hình sinh hoạt và dạy học ở đây như thế nào. Ở chơi với tôi vài ngày, Nhiều trở về Sài Gòn để chọn nhiệm sở và lãnh sự vụ lệnh đi dạy. Vài ngày sau, một số giáo sư mới ra trường năm 1967 tới trường công lập Vĩnh Bình để trình sự vụ lệnh và nhận nhiệm sở. Tôi nhận ra trong số đó có anh Trịnh Văn Dĩ, người cùng vào đại học sư phạm một lượt với tôi. Dĩ cho biết Nhiều đã chọn về trường trung học Bình Minh (Cái Vồn), Vinh Long nên Dĩ mới về đây. Nhiều về sau đổi sang dạy ở trường nữ trung học Đoàn Thị Điểm, Cần Thơ. Sau 75, anh mắc bệnh tâm thần nên cuộc sống khó khăn dù các con anh đều là bác sĩ. Nhân một lần về Việt Nam, tôi, Dĩ và một người bạn của Dĩ xuống Cần Thơ chơi, chúng tôi đã thăm Nhiều và giúp đỡ một ít cho Nhiều. Vài năm sau tôi được tin Nhiều mất.

Số giáo sư mới về Trà Vinh lần này khá đông gồm cả đệ nhị cấp và đệ nhứt cấp. Trịnh Văn Dĩ dạy toán, Nguyễn Văn Lý dạy lý hóa và Nguyễn Trung Hiếu dạy vạn vật chơi thân với nhóm chúng tôi. Phải kể thêm trong nhóm chúng tôi có cả anh Thành dạy nhạc. Thành ở Vĩnh Long, nhà bên hông trường Tống Phước Hiệp. Mỗi tuần, anh đi xe đò xuống Trà Vinh ở lại  đôi ngày để dạy nhạc ở trường công lập. Những ngày khác anh ở Vĩnh Long dạy nhạc cho trường Tống Phước Hiệp và Sư Phạm. Học trò thường gọi anh là thầy Thành nhỏng vì anh ốm và dáng đi nghiêng về phía trước. Mỗi lần lên Vĩnh Long chơi, chúng tôi gần cả chục người ngủ như cá hộp ở căn phố nhỏ của anh. Tối đến, anh dẫn chúng tôi đi đến quán cà phê nhạc bên bờ sông, nơi anh phụ trách phần âm nhạc. Sau này anh cưới một cô giáo sinh, hoa khôi của trường sư phạm Vĩnh Long. Thành tốt nghiệp trường quốc gia âm nhạc Sài Gòn nên có ngón đòn guitar độc đáo. Anh thường đánh những bản nhạc  như  La Cumparsita, Back to Sorrento, La Paloma và nhiều bản nhạc classic khác cho chúng tôi nghe. Trong những lần về Việt Nam, khi đến Vĩnh Long tôi ghé thăm anh Thành. Nhà anh nay đã cất lên nhiều tầng và vợ anh mở quán cơm tấm dưới nhà. Tôi mừng cho người bạn mình nay có cuộc sống sung túc nhưng không bao lâu sau hai lần đi ăn uống với Thành ở nhà hàng nổi ở Vĩnh Long và quán hải sản ở quận 4, Sài Gòn lúc trở về Canada thì tôi được tin anh mất.

Quan và Lạc bây giờ thuê nhà ở đường số 1, Hoàng và Kiệt thuê nhà ông Tạ Hoàng ở một con đường bên hông tòa tỉnh trưởng, Tưởng ở nhà anh Đồng trong hẻm đối diện trường. Trà Văn Gởi thuê một căn nhà trên đường Cây Dầu. Nhóm chúng tôi tụ họp khi thì ở nhà này, khi thì ở nhà nọ. Có khi chúng tôi nằm xếp cá mòi hộp ở phòng của anh Hiền trong khu nhà gia đình anh ở Thanh Lệ. Cũng có khi chúng tôi tụ tập ở nhà cô Tư của Huỳnh Đạt Bửu, gần cầu Long Bình đánh phé  hay nhậu nhẹt qua đêm. Cạnh nhà cô Tư là nhà anh Bửu dạy toán. Để phân biệt hai người tên Bửu, người ta gọi là Bửu triết và Bửu toán.

Năm đầu ở Trà Vinh, còn nhớ Sài thành hoa lệ, nên cuối tuần nào  tôi cũng về Sài Gòn dù mất  nguyên hai ngày thứ sáu và chủ nhật ngồi trên xe đò, chỉ có một ngày thứ bảy là ở thủ đô. Dần dà nhờ có bạn bè, tôi bớt về Sài Gòn mà ở lại cuối tuần ăn uống với các bạn hay cắm trại với học trò. Chúng tôi và các em học sinh thường tổ chức cắm trại ở Ao Bà Om. Các em nữ sinh phụ trách ẩm thực còn các em nam sinh chuẩn bị các trò chơi. Lần nào kết thúc buổi cắm trại chúng tôi đều đồng ca bản nhạc Shalom của người Do Thái như để hẹn ngày về gặp lại.

Rời tay, phút chia ly,

Bạn hỡi, vui ra đi

Gian khó , ta không nề

Luôn nhớ nhau trong đời,

Bạn ơi, vui đi

Tôi và các bạn đồng nghiệp thân thiết đều còn độc thân và ở tuổi thanh xuân nên bầu nhiệt huyết tràn đầy những lý tưởng cao đẹp. Không lo lắng vì về sinh kế với mức lương dư dả, chúng tôi nghĩ đến việc làm sao nâng đỡ việc học hành của các em học sinh và nếu cần, giúp đỡ những em đang gặp khó khăn trong đời sống hằng ngày để các em có thể tiếp tục việc học. Ngày cuối tuần, thay vì về Sài Gòn chơi, tôi ở lại Trà Vinh, tổ chức những buổi sinh hoạt tại trường với các lớp mà tôi là giáo sư hướng dẫn để dạy thêm cho các em nhứt là các lớp thi. Mỗi người chúng tôi đóng góp vào một quỹ giúp em Nguyễn Văn T. học lớp đệ nhứt B, từ quê lên ở Trà vinh đi học mà không đủ tiền ăn ở, phải đi làm việc dọn dẹp vệ sinh ở nhà bảo sanh Bửu Hòa. Nhờ đó, em T. có nơi ăn ở và khỏi đi làm cực nhọc để chuyên tâm vào việc học thi. Tôi đã nhờ ba tôi may cho em Lê Văn T. bên trường bán công Trần Trung Tiên một bộ complet khi em được học bổng đi du học.

Cuối năm 1967 tức là giữa niên học 1967-1968, tôi, Trần Kim Hoàng và Nguyễn VănTâm bên trường công lập; Văn Tường trường bán công  nhận được lệnh nhập ngũ khóa 27 sĩ quan Thủ Đức. Các em học sinh Trà Vinh chắc đều thấm thía câu: "Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" nên bịn rịn , có em không cầm được nước mắt trong những buổi tiệc hay những đêm lửa trại chia tay với các thầy sắp rời bảng đen, phấn trắng lên đường đi vào vòng lửa đạn.

Riêng Tâm không đủ sức khỏe nên được trả về trường sớm nhất. Còn lại ba người chúng tôi sau hơn một năm khoác áo lính được biệt phái trở về dạy học lại dù có người không cón nguyên vẹn như trước: Hoàng với cái trán được vá một miếng plastic và tôi với hai mãnh đạn còn trong bụng và trên lưng.

Tôi trở lại Trà Vinh không còn ở nhà Huỳnh Ba nữa mà cùng Dĩ và Lý mướn nhà của chị Huỳnh, dạy Anh Văn ở trường Công Lập. Ba người chúng tôi ngủ chung trên một cái giường lớn sát cửa sổ đêm đêm "cùng ngắm ánh trăng vàng" qua cửa sổ. Cả ba đều ăn cơm tháng nhà thầy giáo Tư chung với một số công chức và quân nhân trong tỉnh. Thầy giáo Tư có những cô con gái nổi tiếng đẹp nên biết bao mặc khách, tao nhân ngắm nghé.

Một thời gian sau, Lý đi ở chỗ khác, Hiếu về ở chung với tôi và Dĩ, Chúng tôi dọn sang một phòng khác. Tôi và Dĩ ngủ chung một giường, Hiếu đã cưới vợ, cũng là giáo sư vạn vât, dạy ở trường Tống Phước Hiệp, Vĩnh Long, ngủ riêng một giường. Cuối tuần, vợ Hiếu từ Vĩnh Long xuống thăm chồng, tôi phải lấy xe Honda chở Dĩ chạy long rong ngoài đường suốt ngày cho bạn mình được tự nhiên.

Hè năm 1969, chúng tôi đi coi thi ở các tỉnh khác. Lương Văn Kiệt, lúc đó đã đổi về Tống Phước Hiệp, xuống Trà Vinh coi thi và ở phòng chúng tôi. Đầu niên khóa 1969-1970, khi chúng tôi xuống Trà Vinh để bắt đầu niên khóa mới thì trông thấy lá thư của Lương Văn Kiệt để lại trong đó có câu: tao cám ơn tụi bây đã cho mượn cái "bẩn xá" để tao ở coi thi. Chúng tôi phá lên cười vì Kiệt nhận xét không sai: ba ông tướng chúng tôi lười biếng chẵng bao giờ quét dọn phòng ở. Về sau, tôi được tin Kiệt mất vì tai nạn lưu thông trong lúc dẫn học sinh đi du ngoạn ở Rạch Giá khi tuổi đời còn rất trẻ.

Niên khóa mới chưa bắt đầu bao lâu thì tôi nhận được sự vụ lệnh đổi về trường Ngô Quyền, Biên Hòa. Thế là những buổi tiệc tiễn đưa của các đồng nghiệp, của học sinh các lớp làm rơi nước mắt kẻ ở lại và lưu luyến bước chân người ra đi. Dù được đổi về nơi gần gia đình hơn, nhưng bốn năm ở Trà Vinh với bạn bè, với học sinh tôi có biết bao nhiêu kỷ niệm. Trong những buổi tiệc chia tay, tôi bùi ngùi đọc lại bài thơ tôi sáng tác năm 1967 khi rời trường đi nhập ngũ. Bài thơ này tôi lấy cảm hứng từ bài "Tám phố Sài Gòn" của thi sĩ Nguyên Sa làm để tặng những người Trà Vinh thân thương của tôi.


TÁM NO TRÀ VINH

1

Trà Vinh đi chợ ba nhà lồng

Tinh sương thức sớm rủ thật đông

Nhịp guốc khua dòn như pháo Tết

Gió sớm nhẹ lay áo lụa hồng

2

Trà Vinh đi học trưa nắng vàng

Ánh dương treo nón ngủ miên man

Có trông mái tóc huyền buông xoả

Ước vọng tương lai đẹp huy hoàng

3

Trà Vinh tha thướt dưới Hàng Me

Áo trắng trinh nguyên vẻ rụt rè

Bóng nhỏ chân chim xào xạc lá

Tiếng hát sơn ca ríu rít về

4

Trà Vinh đi dạo mát Cây Dầu

Thấp thoáng Sân Bay những cánh tàu

Mơ ước mai sau thành lữ thứ

Gót sen đặt bước bến bờ nào?

5

Trà Vinh phóng Honda thật mau

Hoàng hôn chầm chậm xuống Cầu Tàu

Ánh mắt ru hồn trong điệu nhớ

Cung môi đeo đẳng khối tình sầu

6

Trà Vinh cắm trại Ao Bà Om

Giả từ quyến luyến khúc Shalom

Nghe như du tử thân phiêu lãng

Bát ngát, bâng khuâng toả một vòm

7

Trà Vinh ngủ sớm lúc đêm vào

Để đắm say trong giấc mộng đào

Rèm mi hờ hửng buông mong đợi

Ôm ấp, tưng tiu bóng dáng nào?

8

Trà Vinh thủ thỉ tiếng yêu đương

Xin ở bên nhau khắp nẻo đường

Phút giây êm ấm trôi qua chóng

Dù cách xa rồi vẫn nhớ thương

 


image003

Chợ Trà Vinh trước năm 1975

 

 (còn tiếp)

28 Tháng Ba 2014(Xem: 29914)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức: "Ôi Giàn Thiên Lý Đã Xa"-Nhạc: Phạm Duy; Ái Vân Trình bày Kiều Oanh Trịnh thực hiện youtube
28 Tháng Ba 2014(Xem: 26260)
Thời gian, như nước trường giang miệt mài trôi chảy. Nhưng thời gian cũng không làm phai mờ hình ảnh bạn bè của chúng tôi.
28 Tháng Ba 2014(Xem: 27440)
Tao xin mượn lời lẽ của bài thơ này như một lời nhắn nhủ của mày cho những bạn bè còn lại trên cõi đời này Hạnh nhé. ''Còn gặp nhau thì hãy cứ vui Chuyện đời như nước chảy hoa trôi Lợi danh như bóng mây chìm nổi Chỉ có tình thương để lại đời''
27 Tháng Ba 2014(Xem: 29235)
Chúng tôi đã khóc cùng Thịnh khi nói về những kỷ niệm đã có với Hạnh nhưng cũng đồng ý là Hạnh đã thanh thản ra đi nên hãy để Hạnh vui nơi chin suối và hãy dành thời gian để săn sóc cho những người còn lại.
21 Tháng Ba 2014(Xem: 30920)
Ngoài những tình cảm quý mến dành cho nhau, chúng tôi cùng bảo ban nhau sống sao cho đáng sống, vì cuộc đời ngắn ngủi…
20 Tháng Ba 2014(Xem: 26154)
... nhắc tôi hãy sống với tình thương, lòng khoan dung, tha thứ, vì nào ai biết được mình có còn hơi thở trong giây phút sắp tới để sống như vậy với vạn vật ở chung quanh.
18 Tháng Ba 2014(Xem: 27516)
nhìn hình ảnh các bạn hôm nay tôi nghĩ đến 1 cuộc chiến mới mà chúng-ta phải đối-diện Cuộc chiến này khốc-liệt hơn mà phần thua chắc-chắn về chúng-ta, đó trận chiến tuổi-già và bệnh-tật...
14 Tháng Ba 2014(Xem: 27498)
Một duyên may gặp gỡ đàn em, đàn anh, đàn chị Ngô Quyền, để cùng có một ước mơ “Mỗi năm chỉ có một ngày”
13 Tháng Ba 2014(Xem: 29056)
Em trai tôi, đàn giỏi hát hay, cờ tướng cũng hàng cao thủ, đá banh cũng được được, văn thơ cũng tàm tạm gọi là, nói chung theo như tôi biết chú ta có máu văn nghệ từ thuở nằm nôi.
07 Tháng Ba 2014(Xem: 29580)
Ngồi trong quán cà phê nghe nhạc và những dáng người qua lại, ly cà phê đã cạn và trà đá vẫn được châm đều. Trời chiều đã bắt đầu âm u… Hạnh phúc thay cũng còn những nụ cười…
07 Tháng Ba 2014(Xem: 30023)
Một cơn sóng nhỏ, lướt qua trái tim tưởng chừng già nua cằn cỗi của An. Và cơn sóng khác nhỏ hơn, đang ngậm ngùi lăn trên khóe mắt – đã nhiều dấu vết chân chim – của cô bạn học ngày nào của Nguyễn
01 Tháng Ba 2014(Xem: 29295)
chuyện kể rằng, mùa xưa mưa nắng mong manh lỡ làm nhạt nhòa chia phôi mùi hương cũ, nên mỗi khi gió chở mùa về, người ta thường hay nhặt lại nỗi buồn xưa xa ngái thương ai... thương mình...
28 Tháng Hai 2014(Xem: 32139)
Cuộc sống của con người buồn nhiều hơn vui. Biết nhận ra để biết sống với tha nhân và đem niềm vui đến mọi người. Cái khổ cái đau không ai tránh khỏi…
28 Tháng Hai 2014(Xem: 26740)
Dựa trên những hiểu biết và những tin tức mà tôi nhận được, tôi tin chắc rằng nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng không mang cái nghiệp thật buồn của các nhà văn nhà thơ: sống trong sự quên lãng và chết dưới những vòng hoa.
28 Tháng Hai 2014(Xem: 65330)
xin được giới thiệu những bài viết của Thầy, Chs NQ và các Văn hữu về những kỷ niệm trong suốt thời gian Thầy đã gắn bó với nghiệp cầm bút và cầm phấn sẽ lần lượt đăng trên trang nhà...
27 Tháng Hai 2014(Xem: 39251)
Mới đây đọc báo Reader’s Digest thấy người ta nói đến những ích lợi của cái CƯỜI, trong đó có nói là cười nhiều có thể làm cho người ốm bớt đi. Lý do gì mà các nhà khảo cứu lại quả quyết như vậy?
27 Tháng Hai 2014(Xem: 27613)
Xin cám ơn bạn bè đã chẳng ngại thời gian, không gian để đến với ngày vui. Xin cám ơn mọi người đã cùng nhau chia sẻ những vui buồn còn sót lại. Mùa Xuân nắng ấm còn trãi đều....
27 Tháng Hai 2014(Xem: 32399)
Anh không về hóa ra lại hay. Hãy để VN biến thành tro bụi trong ký ức. Nhưng anh không về mà cứ muốn em kể chuyện VN cho anh nghe. Em sẽ kể nhưng anh đừng khóc đấy nhé.
22 Tháng Hai 2014(Xem: 29360)
Cũng cần nói ra đây là lần đầu tiên tôi gặp Thầy sau không biết bao lần hẹn găp từ khi khi Thầy còn khỏe. Cứ hẹn rồi chưa gặp, hẹn rồi chưa đến... cho tới khi Thầy bệnh.
22 Tháng Hai 2014(Xem: 29446)
. Cũng lần đầu tiên, tôi bắt đầu học được một bài học từ người mẹ quê mùa chơn chất của mình: âm thầm chăm sóc, ban phát thương yêu, hằng ngày, hằng ngày…