Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Nguyễn Trần Diệu Hương - BỤI PHẤN - BỤI ĐỜI

11 Tháng Hai 201911:50 CH(Xem: 16261)
Nguyễn Trần Diệu Hương - BỤI PHẤN - BỤI ĐỜI


BỤI PHẤN - BỤI ĐỜI 

 Nguyễn Trần Diệu Hương

 

image001

 

 

Ngôi trường đã có nhiều thay đổi khi tôi trở lại sau mười một năm. Cùng với tốc độ tăng trưởng của khoa học kỹ thuật, trường cũng trở nên hiện đại, mới mẻ hơn, nhưng những phòng học trong Business School, từ phòng học nhỏ cho những sinh viên năm cuối chỉ có hai mươi chỗ ngồi đến những giảng đường lớn cho những lớp học với trên một trăm sinh viên, thì vẫn vậy. Hành lang vẫn như xưa với những khuôn mặt thiếu ngủ  của sinh viên, luôn luôn phải dùng cà phê để giữ mắt mở to, giữ đầu óc tỉnh táo. Đó là điều đáng mừng vì ngày nào trường học còn đông người lui tới, ngày đó chúng ta còn lạc quan nhìn về tương lai.

 

Nhưng có một điều vẫn như xưa không vui chút nào, đâu đó lạc lõng trong những khuôn mặt sinh viên đa số còn trẻ, là một vài người già đầy vẻ nhẫn nhục, cam chịu, với một cái bao nylon đen to khoác vai và tay cầm dụng cụ dùng để nhặt lượm những vật nhỏ mà không cần phải khom lưng xuống. Điều buồn hơn, một vài người trong số họ lại là những ông bà cụ Việt Nam đã ngoài sáu mươi. Họ đến những phòng học trống, nhặt nhạnh trong giỏ rác những lon soda để mang bán cho những chỗ chuyên recycle lon nhôm.

 

Từ ngày chân ướt chân ráo vào trường, tôi đã chùng lòng nhận ra có những ông bà cụ Việt Nam trạc tuổi Ba Mẹ mình kiên nhẫn đi từ phòng học này đến phòng học khác, và đôi khi vào cả giỏ rác trong phòng vệ sinh để thu nhặt từng chiếc lon nhôm. Có lần, nán lại sau giờ học hỏi chuyện một bà cụ Việt Nam, tôi được bà cụ kể lại tận tình nguồn cơn tại sao mình phải đi nhặt nhanh từng chiếc lon nhôm.

 

Ít ai ngờ được ngày xưa ở Việt Nam, thời trước năm 1975, bà cụ là một cô giáo dạy Trung học ở một tỉnh miền Tây. Sau một ngày cuối tháng 4 rất buồn của miền Nam, bà cụ lúc đó hãy còn trẻ, không còn được đi dạy vì có chồng là một sĩ quan đã được "tổ quốc ghi ơn" sau một trận chiến khốc liệt vào mùa hè đỏ lửa 1972. Cô giáo mất nghề dạy học, lăn lộn ra xã hội làm đủ mọi nghề để nuôi hai con dại và nuôi thân vì cùng một lúc gia đình cô mất đi cả tiền tử tuất và tiền lương dù ít, nhưng rất ổn định của một cô giáo trung học.

 

Như đa số những người phụ nữ khác của miền Nam lúc đó, dù vất vả trăm chiều, bà cụ vẫn nuôi dạy hai người con trai nên người. Rồi định mệnh đẩy đưa, bà cụ đến được Mỹ nhờ một người em bảo lãnh, hai anh con trai đã lập gia đình vẫn còn kẹt lại ở Việt Nam.

Lúc đầu, bà cụ không chịu đi, với ý nghĩ bao nhiêu năm cơ cực, mẹ con có nhau, bây giờ bà không nở sống ở một đất nước giàu có, bỏ hai người con ở lại. Nhưng rồi người em ra sức thuyết phục, qua được Mỹ một thời gian may ra bà cụ còn có dư tiền gởi về giúp con.

 

 

Thế là bà cụ ra đi, hành trang chỉ vỏn vẹn tấm ảnh bán thân của người chồng quá cố, hình ảnh ba mẹ con chụp cùng nhau trước ngày bà qua định cư ở Mỹ, và một tấm hình từ thuở xa xưa đã ngã màu vàng ố thời bà cụ còn là một cô giáo trung niên ở một trường Trung Học ở miền Tây. Vậy mà bà cụ quý lắm, xem chừng những tấm hình đó với bà cụ còn quý hơn cả cái máy nghe nhạc Ipod mỏng dính của mấy cô mấy cậu teenager mới lớn, hay cái nhẫn kim cương sáng loáng của những cô gái mới đính hôn.

 

 

Những năm đầu ở Mỹ, chưa có quốc tịch Mỹ, không xin được trợ cấp từ quỹ an sinh xã hội để nuôi dưỡng những người già không có thu nhập, (đa số là những người già nhập cư từ những nước khác vì những người già đã đi làm đủ mười năm ở Mỹ thì đã có lương hưu trí hàng tháng), thu nhập là số không như những ngày cuối năm 1975, bà cụ tìm mọi cách để kiếm tiền gởi về giúp hai con trai. Một lần đi chợ, thấy những người Mễ, người Phi, và cả người Việt Nam đến trung tâm recycle bán lon nhôm, bà cụ nghĩ được cách kiếm tiền lương thiện, nhưng đầy vất vả. Thế là mỗi buổi trưa, dù vào giữa mùa Đông băng giá, hay đầu mùa hè nóng bức, cứ khoảng hai giờ chiều, bà cụ đón xe bus xuống down town, đến ngôi trường Đại Học lâu đời nhất ở California, đi nhặt lon ở khắp campus. Hôm nào hên, được đến ba bốn bao lon, loại bao rác màu đen, bà cụ bối rối không biết làm thế nào để mang về nhà vì xe bus đâu có chờ lâu ở mỗi trạm mà bà cụ thì đã gần bảy mươi, đâu còn nhanh nhẹn như thời còn trẻ, không thể mang lên và đặt xuống các bao nylon đen trong vòng một phút.

 

 

Lần đầu tiên nhận ra bà cụ là người Việt Nam, lại trạc tuổi Ba Mẹ mình, tôi lân la hỏi chuyện, và được nghe bà cụ kể sự tình, tôi tình nguyện dùng trunk xe của mình làm chỗ cho bà cụ gởi tạm những bao nylon đựng lon nhôm những hôm bà cụ may mắn nhặt nhanh được từ hai bao trở lên. Dạo đó, nhiều khi bà cụ cột bao không kỹ, mỗi lần lái xe qua một khúc quanh có góc nhọn, những cái lon nhôm rỗng lăn tung tóe trong thùng xe tạo nên tiếng động nghe cũng khá vui tai.

 

Một người bạn Việt Nam khi thấy xe tôi đầy hộp lon, hỏi chuyện, khi đã rõ nguồn cơn, anh nhờ tôi đem vào trường biếu bà cụ năm mươi đồng, gọi là quà gởi cho hai người con trai của cụ còn ở quê nhà. Thật bất ngờ, bà cụ một mực từ chối, viện cớ cụ còn khỏe, còn có thể "làm ra tiền" nuôi con như từ thuở nào. Bà cụ cười rất đôn hậu, nhờ tôi chuyển lại lời cám ơn đến người bạn:

 

-  Bác cám ơn cháu và bạn cháu. Thỉnh thoảng cháu cho bác gởi nhờ những bao lon trên xe để bác mang đến trung tâm recycle từ từ đã là quý hóa lắm rồi. Khi nào, cùng quẫn lắm, Bác sẽ hỏi xin cháu và bạn cháu điều khác.

 

Ấy vậy nhưng tôi cũng có cách giúp bà cụ. Dạo đó, mỗi khi có giờ rảnh, tôi nhặt lon ở thư viện (là nơi chỉ dành riêng cho Giáo sư và sinh viên, người ngoài không đượcphép vào), đem ra để ở trunk xe. Tôi chỉ đậu xe ở một khu vực thuận tiện, gần trạm xe bus và cho bà cụ tạm giữ một chìa khóa trunk xe của mình, để bà cụ có "access" dễ dàng lấy lon.

 

Ngày tôi ra trường, tôi đã tìm được "successor", một người bạn Việt Nam học lớp dưới, thay tôi giúp bà cụ dễ dàng hơn trong việc "kiếm tiền". Như một loại "job training", tôi chỉ lại người bạn chổ đậu xe đã khá thân thuộc với bà cụ, chỗ nào thường có nhiều hộp lon ở thư viện... Người bạn cũng có tấm lòng, vui vẻ "tiếp thu" việc giúp bà cụ. Và tiếng leng keng do những hộp lon chạm nhau khi qua khúc quẹo hẹp, nhỏ hơn 45 độ lại vang lên, nghe vui tai như tiếng của "đại dương trong lòng con ốc nhỏ".

 

Lần tôi giới thiệu người bạn sẽ giúp bà cụ thay tôi, bà cụ chảy nước mắt. Cầm tay chúng tôi, giọng đầy xúc động:

-  "Ngày xưa, thời còn đứng ở bục giảng, bác cũng có những người học trò hết lòng với thầy cô giáo cũ như hai cháu. Sau tháng 4/75, tưởng đã mất, mất tất cả mọi thứ liên quan đến trường học, vậy mà trong những ngày cơ cực ở quên nhà, bác cũng còn có được sự kính trọng và biết ơn từ những người học trò cũ, trên đường đầy bụi bặm. Nhưng ngay cả trong cơn mơ, bác cũng chưa bao giờ nghỉ là trên quê người, vẫn có những học sinh Trung Học ở Việt Nam ngày xưa, hết lòng với một cô giáo cũ như bác. Ngày xưa có nhiều khi bụi phấn làm bác cay mắt. Rồi những ngày lăn lóc ở lề đường, buôn bán nuôi con, bụi đời rất nhiều, nhưng không làm bác chảy được nước mắt vì cảm động như bây giờ.  Đâu có ngờ là ở trên đất Mỹ máy móc này, bác lại được sự giúp đỡ của các cháu. Các cháu biết không, bác chợt nhận ra bụi đời đôi khi cũng làm người ta nhỏ nước mắt." 

 

Dù chúng tôi không nói ra, nhưng bà cụ nhận ra chúng tôi đối đãi bà cụ như thầy cô giáo cũ của mình, với ý nghĩ ở đâu đó trên đất nước đầy cơ hội cho những người đến Mỹ dưới 30 tuổi, những "người lái đò già" ngày xưa, không còn cơ hội, phải kiếm sống bằng sức lực ở tuổi xế chiều, biết đâu có một vài thầy, cô giáo cũ đã dạy chúng tôi thời Trung Học đang mỏi mòn chạy theo guồng máy của một đất nước mới. Cũng có người giúp đỡ như chúng tôi đã giúp đỡ bà cụ trong suốt những năm còn ở Đại Học.

 

Về lại trường sau hơn mười năm, ngoài việc đi chào các thầy cô cũ người Mỹ, tôi cố ý tìm bà cụ, nhưng "cảnh cũ còn đó mà người xưa đã không còn". Ở hành lang của các lớp học, vẫn có những người già đi lượm lon nhôm, nhưng bà cũ ngày xưa của chúng tôi đã không còn. Tôi cố dò hỏi, nhưng không một ai biết tin tức gì về bà cụ đã chảy nước mắt vì cả "bụi phấn" lẫn "bụi đời".

 

Tôi cầu mong cho bà cụ có một đời sống khá hơn sau khi đã vào được quốc tịch Mỹ, và chợt nghe mắt mình cay cay không phải vì bụi phấn của ngày xưa mà là bụi đời của bây giờ...

Nguyễn Trần Diệu Hương
California, 2007

06 Tháng Tư 2013(Xem: 70497)
Đọc xong tập sách mỏng, gấp sách lại, tôi cảm thấy một cái gì nhẹ nhõm len vào tâm hồn. qua những dòng tâm bút của một cô gái trẻ..
06 Tháng Tư 2013(Xem: 71919)
Quãng đường đó có lẽ là con đường đạo nhiệm mầu mà chúng tôi đang lần đi giữa đêm hoang vu không bờ bến của kiếp nhân sinh.
06 Tháng Tư 2013(Xem: 73547)
Như Hát bình Phương đã nói với tôi, diễm phúc thay cho những ai đã tuổi hoàng hôn mà còn mẹ để chăm sóc và phụng dưỡng.
05 Tháng Tư 2013(Xem: 70784)
Cô Minh Nguyệt và chị Sĩ Cư ân cần tiển chân chúng tôi tận nơi đậu xe. Tình thương mến thương luôn tràn đầy, làm sao chúng tôi hững hờ được, để không đến với nhau.
30 Tháng Ba 2013(Xem: 84645)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức: MÂY XƯA- Nhạc và Lời: Phạm Chinh Đông – Hòa âm: Đỗ Hải – Ca sĩ Quỳnh Dao
29 Tháng Ba 2013(Xem: 96252)
Chắc chắn và không thể chối cãi được sự có mặt trong Hoàng Cung của Bà đã thay đổi bộ mặt Hoàng Cung. Nhưng điều quan trọng hơn cả, Bà trở thành biểu tượng, mẫu hình lý tưởng ...
28 Tháng Ba 2013(Xem: 71920)
Tôi giơ tay hứng lấy chiếc lá vàng nhỏ bé, chao đảo lượn lờ rớt vào lòng bàn tay tôi, ôi mong manh, ôi tội nghiệp, ôi tàn tạ như cuộc đời mẹ yêu dấu của tôi.
28 Tháng Ba 2013(Xem: 65937)
Một vinh dự nhớ đời cho ba đứa chúng tôi và cho cả lớp năm đó. Đó cũng là kỷ niệm vinh dự riêng tư nhất trong suốt 6 năm theo học ngôi trường thân thương Ngô Quyền.
23 Tháng Ba 2013(Xem: 82452)
Nhạc và Lời: Phạm Chinh Đông – Hòa âm: Đỗ Hải – Ca sĩ Minh Trí ( Việt Khang) - Ngày đó em đi vào đời ngất ngây cho tháng ngày là những tha thiết êm đềm cơn say
22 Tháng Ba 2013(Xem: 103332)
Phạm Duy là một con người, như mọi người. Ông đã sống tận cùng đời sống của ông, ông đã hiến tận cùng những gì ông có trong trái tim ông và thân xác ông.
22 Tháng Ba 2013(Xem: 109633)
Hẹn gặp ngày họp mặt truyền thống Ngô Quyền ngày 4/7/2013, nhất là các bạn trẻ các khóa đàn em cùng về tham dự, cùng góp bàn tay để nhận ra mình không hờ hững với trường xưa.
21 Tháng Ba 2013(Xem: 101039)
Cầm chắc lá thư trong tay tui đứng đợi mà sao hai cái chưn có cảm giác run lên từng chập. Chỉ còn độ mươi gốc cây nữa là em sẽ ngang qua. Tui dựa vô gốc cây đứng thở dốc mà chờ.
18 Tháng Ba 2013(Xem: 148075)
Tác phẩm Ngô Quyền Một Thời Để Thương Để Nhớ, không chỉ là một bộ sưu tập của những kỷ niệm đã theo chân những lữ khách Ngô Quyền khắp chân trời góc bể...
17 Tháng Ba 2013(Xem: 99474)
Dù rằng bây giờ con dốc Kỷ niệm trên đường đến trường Ngô Quyền hoặc dốc Cây Chàm đã bị bào mòn, không còn cao như xưa, nhưng trong từng ngăn ký ức đời mình thì “những kỷ niệm một thời học sinh Ngô Quyền” đã để lại trong tôi những ấn tượng sâu sắc nhất
17 Tháng Ba 2013(Xem: 81322)
Bạn bè tôi, người còn, người mất, kẻ ở lại, kẻ tha phương. Tôi vẫn ở đây, vẫn đi qua ngôi trường Ngô Quyền xưa cũ, giờ đã đổi mới hoàn toàn,
17 Tháng Ba 2013(Xem: 65723)
Xin các anh chị Khóa 13 miễn thứ cho tôi cái tội "phạm thượng" như kể trên của những ngày xưa thân ái... (không bao giờ có lại được nữa)!
17 Tháng Ba 2013(Xem: 101489)
Và như vậy tôi mãi mãi là người vợ lính, vui buồn chung với những suy tư và cảm giác của chồng. Những người chỉ huy, đồng đội của chồng dù không ở trước mặt, nhưng là những người bạn vô hình đem lại niềm vui cuối đời cho chồng tôi
16 Tháng Ba 2013(Xem: 99355)
Với chín mươi năm cuộc đời cô còn hai mươi bảy lần sinh nhật, chúng tôi lại còn dịp tham dự mừng năm mươi lăm năm và sáu mươi năm ngày cưới của cô; để còn được nghe bản nhạc “THƯƠNG HOÀI NGÀN NĂM''
15 Tháng Ba 2013(Xem: 81384)
Sáng nay bừng mắt dậy, con nhớ ra mình đã mất ba hơn mười lăm năm nay rồi, chỉ như mới hôm qua thôi, vết thương vẫn còn tươi rói, chảy những giọt máu lớn dồn dập. Nỗi đau này biết bao giờ nguôi ngoai?
09 Tháng Ba 2013(Xem: 117714)
Bài viết của Bảo Trần đã khắc họa khá rõ nét chân dung nhân hậu của bác Lê Văn Nhơn, một “thần tượng” luôn luôn cận kề bên cạnh cuộc đời con cháu.