Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Nguyễn Trần Diệu Hương - Bên Kia Đồi.

02 Tháng Bảy 200912:00 SA(Xem: 75051)
Nguyễn Trần Diệu Hương - Bên Kia Đồi.

blank

 

Bên Kia Đồi

 

Nguyễn Trần Diệu Hương

 

 

 

 Bên kia đồi, sườn dốc thoai thoải, người ta xuống dễ dàng và nhanh hơn lúc trèo lên đồi. Bên kia đồi, đôi lúc thật đẹp như trong một câu hát của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang “Bên kia đồi cỏ hoa đan lối”. Nhưng trong khái niệm tuổi tác của người Mỹ thì “bên kia đồi” chỉ sự xuống dốc khi người ta bước qua tuổi bốn mươi, tuổi đã “biết người biết ta” như trong quan niệm nho giáo “tứ thập nghi bất hoặc”.

Đến lần họp mặt thứ bảy của hội Cựu Học sinh Ngô Quyền ở Mỹ thì hầu hết Thầy và Trò của chúng tôi đã qua “bên kia đồi”. Một số rất ít chúng tôi đang đứng ở đỉnh đồi của đời người, mắt vẫn còn tinh tường để đọc sách báo chưa cần đến kính viễn thị, tóc vẫn còn màu đen, dù là ở Mỹ vì dùng máy sấy tóc mỗi ngày nên tóc dù đen, nhưng không phải là màu đen tuyền nhờ gội đầu bằng nước bồ kết có pha một vài giọt nước chanh như thời nhỏ dại ở quê nhà, mà là màu đen nâu, đậm hơn màu nâu brunette của người Mỹ một chút. Nhưng dù đứng ở phiá nào của ngọn đồi tuổi tác, tất cả chúng tôi đều thấy được sự cố gắng không ngừng của quý Thầy Cô giáo thời Trung học, đặc biệt là những Thầy Cô di tản từ năm 1975, rất đột ngột, và không có một chuẩn bị nào cho đời sống quê người, không còn quê hương nên cũng không còn học trò, không còn bảng đen, không còn bục giảng trắng mầu bụi phấn…

 

Khi Thầy Long đến camp Fort Chaffee ở Arkansas những ngày đầu tháng 5 năm 1975 thì Thầy vừa bước vào tuổi ba mươi, vẫn còn ở “bên này đồi”, chưa đến tuổi 40 “down of the hill” như lời nói của người Mỹ. Nỗi bàng hoàng vì vận nước chưa nguôi, Thầy đã có nỗi lo mọi thứ phải làm lại từ đầu, và chắc là không còn được dậy bầy học trò Trung học những bài Toán Quỹ tích, những vecto tịnh tiến mà bọn học trò đứng sau “quỷ và ma” của chúng tôi vẫn đọc thành vecto “tính tiền”. Nhưng Thầy còn may mắn hơn rất nhiều người “di tản buồn” lúc đó ở chỗ Thầy có đủ Bố Mẹ, các anh chị bên cạnh Thầy. Đặc biệt là Thầy có được một vài người học trò cũ ở trại tỵ nạn lúc đó, dù trường xưa đã xa mù tít tắp, ngăn cách bằng cả một đại dương, dù khoảng cách Thầy trò không còn rõ ràng như chiều cao của cái bục giảng có kê bàn thầy cô giáo đến mặt đất có hai dãy bàn học trò đặt song song, nhưng sự tương kính vẫn như xưa, những anh chị học trò vẫn giữ nguyên sự kính trọng đối với Thầy. Điều đó nâng đỡ tinh thần Thầy Long rất nhiều trong những ngày đầu lưu vong. Rồi Thầy rời camp Fort Chaffee theo chương trình bảo trợ của một Hội từ thiên Thiên Chúa giáo ở tận Wisconsin miền Đông Bắc nước Mỹ. Qua đến cái tiểu bang gần giáp giới với Canada giữa năm 1975 thì gặp được một người Việt Nam cũng khó như trúng số, gặp lại đồng nghiệp hay học trò ở Wisconsin gần như là chuyện không tưởng. Vậy là dù có yêu nghề “bán cháo phổi” đến độ nào đi nữa, Thầy Long cũng đành phải học ngành khác để bắt đầu cuộc sống mới ở một nơi không có một dấu tích Việt Nam nào ngoài chuyện mỗi tối sau một ngày dài bốn tiếng lao động chân tay, và bốn tiếng trở lại thời sinh viên, với một ngôn ngữ khác, Thầy quay về nhà với Bố Mẹ và các anh chị của Thầy nói tiếng Việt, ăn thức ăn Việt Nam nấu bằng vật liệu mua từ chợ Mỹ không đậm đà nhưng dù sao vẫn phảng phất hương vị quê nhà. Dù là một người dạy Toán, không sống bằng kỷ niệm nhiều như các Thầy Cô dạy Văn, mỗi lần đeo một cái backpack đựng đầy những quyển sách giáo khoa bìa cứng của Mỹ đi từ parking lot vào giảng đường, Thầy vẫn chạnh lòng nhớ ngôi trường Đại học Sư phạm ngày xưa ở đường Thành Thái Saigon. Lúc đó, tiếng Mỹ của thầy Long chưa nhuần nhuyễn lắm nhưng Thầy vẫn được các ông bà giáo sư người Mỹ quý vô cùng vì một lẽ đơn giản là thầy Long học giỏi, đặc biệt là môn Toán và đối xử với họ rất lễ độ như truyền thống Việt Nam giữa thầy và trò. Dĩ nhiên Thầy không nói ra nên những ông bà giáo sư người Mỹ không thể tưởng tượng người học trò Việt Nam thông minh, chăm chỉ đó đã có một thời đứng trên bục giảng ngày còn ở trong nước. Trước khi trở lại trường học, Thầy còn ham vui, theo một người bạn về Washington DC  làm busboy trong những quán ăn loại sang mà thực khách thường là khách ngoại quốc hay gia đình của những chính trị gia, những người làm trong ngoại giao đoàn. Nhiệm vụ của busboy là phải lau chùi những cái bàn trong quán ăn thật bóng loáng để xứng đáng với những khoản tiền khá cao trên các hoá đơn cuối mỗi bữa ăn. Dù phải làm việc tay chân vì vừa chân ướt chân ráo đến Mỹ, thầy Long vẫn còn nguyên khiếu khôi hài, nên vẫn đùa với anh bạn Việt Nam cùng làm:

 

- Tụi mình làm nghề “đánh bóng bàn” mà chẳng bao giờ dám nghĩ đến chuyện có huy chương.

 

Đến khi làm thêm cuối tuần cho một tiệm ăn khác, Thầy lại khôi hài tiếp:

 

- Càng “đánh bóng bàn” càng thông thạo, nên bây giờ “đánh” cho hai hội cùng một lúc vẫn không thấy mệt.

 

Thế nhưng khi bà chị của Thầy bay về DC thăm em, thấy cậu em út đã học hành xong xuôi ở Việt Nam, đã đi dạy Toán một vài năm ở trường Trung học mà bây giờ lại phải đi làm busboy suốt ngày đi dọn dẹp, lau chùi bàn ở quán ăn thì quả là phụ công ơn sinh thành dưỡng dục của ông bà cụ thân sinh. Bà dùng quyền chị cả, “áp tải” thầy Long về lại Wiscosin với “phán quyết” đầy uy lực của “quyền huynh thế phụ”:

 

- Về ngay Wisconsin với Bố Mẹ và các anh chị, quay lại trường học ngay. Mày còn trẻ đừng phí phạm thời gian như thế em ạ!

 

 Vậy là thầy Long vĩnh viễn bỏ nghề busboy chuyên lau chùi, đánh bóng bàn… ghế ở những quán ăn, về với “mái nhà xưa” ở “quê hương mới” và trở lại thời sinh viên không phải là ở trường Đại học Sư phạm Saigon mà là trường University of Wisconsin ở Stevens Point.

 

Dạo đó, ở tuổi ba mươi, vẫn còn ở phía “bên này đồi” nên thầy Long không buồn lắm, vì thật ra không có thì giờ để nghĩ ngợi lung tung, để nhớ lại quá khứ để bùi ngùi và buồn bã. Và cũng vì còn trẻ nên Thầy đủ sức chịu đựng cái lạnh của Wisconsin, một trong những tiểu bang lạnh nhất ở miền Đông Bắc nước Mỹ, một nơi mà vào mùa đông mặt đất phủ tuyết có khi dày đến nửa thước. Những ngày tháng đứng trên bục giảng trắng mầu bụi phấn có những lần vẽ các vecto tịnh tiến bằng phấn màu cứ nhạt nhoà , nhạt nhòa dần khi thầy Long ra trường với bằng cử nhân về Electrical Engineering và về làm việc ở miền Tây Nam đầy nắng ấm của Mỹ.

 

Tưởng nước chảy bèo trôi, mọi chuyện đã là dĩ vãng xa xăm, vậy mà ở tiểu bang vàng có khí hậu tương tự Đalat của Việt Nam, Thầy gặp lại học trò xưa, đồng nghiệp cũ. Và do vậy một quá khứ của thời còn rất trẻ, ở những bước đầu của “bên này đồi” chợt sống dậy, rõ nét tưởng như mới hôm qua thầy vẫn còn dậy Hình học, môn toán Quỹ Tích cho các cô cậu học sinh ở ngôi trường Trung học lớn nhất miền Đông Nam phần, đã đào tạo cho cả hai đất nước Việt Nam và Mỹ rất nhiều nhân tài. Ở đó, Thầy gặp lại một vài đồng nghiệp ngày còn ở trong nước, nhưng chỉ có cuối tuần mới gặp lại được nhau để ôn lại chuyện ngày còn rất trẻ, và để nâng đỡ tinh thần nhau trong những năm đầu lưu vong. Thầy đặc biệt thân với thầy Toàn, một đồng nghiệp dạy Lý hoá cùng trường thời trước năm 1975. Lúc đó, cả hai Thầy đều chưa lập gia đình, và đều phải khởi đầu sự nghiệp ở tuổi không còn trẻ. Thầy Toàn rời quê nhà chậm hơn Thầy Long vài năm, mất một vài năm ở các trại tỵ nạn, rồi Thầy đến Mỹ chỉ một thân một mình, không có một thân nhân nào bên cạnh, giống như một người phải bơi giữa sóng to mà không có một cái phao nào để bám. Là cả một sự khác biệt lớn khi người ta phải xây dựng mọi thứ từ khởi điểm số không ở tuổi sắp vào thời 40, sắp xuống con dốc của đời người như lối nói của người Mỹ “down of the hill”. Có đầy đủ Bố Mẹ và anh chị bên cạnh, thầy Long hiểu điều đó hơn ai hết, và ra sức giúp bạn “lội giòng nước ngược” như mình đã làm từ vài năm trước. Hai Thầy vẫn chia xẻ với nhau mọi cay đắng ngọt bùi của đời sống ly hương như ngày còn ở quê nhà, chỉ có điều khác biệt là ngày xưa các Thầy đã nhiều lần chở nhau trên cái vespa mầu trắng ngà trên đường Duy Tân cây dài bóng mát, ở đường Thành Thái dẫn vào cổng trường Đại học Sư phạm, thì ngày đó , những ngày đầu lưu vong, chiếc Toyota Celica mầu nâu nhạt đã đưa hai Thầy ngược xuôi ở quê người có những tên đường bằng tiếng Mỹ được các thầy dịch ra bằng tiếng Việt gợi nhớ cả một quê nhà đã bỏ lại sau lưng: đường “Mùa Thu”, đường “Lá vàng”, đường “Cánh đồng mùa Xuân”, “thị trấn giữa đường”, “ngọn đồi mù sương”, “tầm nhìn của núi”…

 

Nước Mỹ rộng mênh mông, vậy mà trong những tình cờ của đời sống, Thầy Long vẫn gặp lại một số học trò cũ của mình. Phần đông họ vẫn giữ được nề nếp Việt Nam nhờ những bài học về Công dân giáo dục trước năm 1975 vẫn còn rõ nét. Nhưng đâu đó, có một hai người không hiểu trí óc đã bị nhạt nhòa theo năm tháng, hay bị quay như chong chóng bởi đời sống đầy bận rộn, những bài học về Công dân giáo dục đã bị đẩy khỏi tâm tưởng, đã đối xử với Thầy không đúng với lễ nghĩa thầy trò. Dạo đó, thầy Long cũng buồn, nhưng chỉ thoáng qua một chút rồi thôi, vì Thầy vẫn chưa đến tuổi bốn mươi, vẫn còn sống với tương lai nhiều hơn là quá khứ. Nhưng từ dạo đó, cách nhìn của Thầy về học trò cũ đã không còn như xưa. Đó là thập niên đầu của đời sống lưu vong, cộng đồng Việt Nam không lớn mạnh, đông đảo như bây giờ. Vả lại, mọi người đều đang phải mải mê làm việc, học hành như một đàn ong thợ cần cù xây một cái tổ mới, nên chưa có các hội ái hữu của các trường học trước năm 1975, mọi người, kể cả thầy Long nếu có những điều không vui thì cũng giữ lại rất riêng ở một góc tâm tưởng. Mãi về sau này, khi năm tháng lặng lờ trôi qua, Thầy không còn trẻ như những ngày đầu lưu vong, sự nghiệp và gia đình riêng đã ổn định, Thầy đỡ vất vả hơn những ngày đầu lưu lạc. Nhưng đến lúc đó, Thầy cũng đã bước gần đến tuổi về hưu, đã qua tuổi “down of the hill” của Mỹ, và đã ở “bên kia đồi” theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Những con chữ mầu đen trên sách báo đã biến thành những đốm đen nhạt nhoè, chi chít nếu Thầy không đeo kính viễn thị. Thầy đã phải đi khám bệnh nhiều hơn thay vì mỗi năm một lần đi khám sức khoẻ tổng quát như những người dưới bốn mươi tuổi, vẫn còn ở “bên này đồi”. Nhưng dù sức khoẻ có hao mòn đôi chút, Thầy vẫn còn làm việc hăng say, dù không còn vất vả, tất bật như những ngày còn trẻ. Lúc này, Thầy đã phải thăm viếng các ông bà Bác Sĩ thường xuyên hơn. Đúng theo tiêu chuẩn của Mỹ, mọi thứ đều được chuyên môn hóa, Thầy đã phải đi gặp rất nhiều Bác sĩ chuyên khoa theo đề nghị của ông Bác sĩ tổng quát của Thầy. Có lần phải đi một Bác sĩ chuyên khoa về mắt, có cái tên Nguyễn Lạc Việt đầy âm hưởng quê hương, Thầy kiên nhẫn ngồi ở phòng đợi, chờ đến lượt mình. Dòng tư tưởng của Thầy lúc đó không phải là hoài niệm quê nhà mà là những lo toan về sức khoẻ và cả tinh thần của tuổi “bên kia đồi” sức khoẻ mỗi ngày mỗi xuống. Đến phiên Thầy, cô y tá theo Thầy vào phòng khám, hướng dẫn Thầy đến chiếc ghế đặc biệt của bệnh nhân, đẩy cái khung đo mắt đến trước mắt Thầy, điều chỉnh một cách thuần thục cho hợp với chiều cao của Thầy rồi lặng lẽ quay ra sau khi đã khép cửa cẩn thận. Ông Bác sĩ nhãn khoa mải mê đọc hồ sơ của Thầy, cũng chưa nhìn rõ mặt Thầy. Nhưng khi ông nhìn vào mắt thầy qua tròng kính đặc biệt của cái máy đo mắt, ông kêu lên bằng một giọng vừa kinh ngạc vừa ẩn chứa niềm vui:

 

-Thầy, thầy có phải là Thầy Nguyễn Phi Long hồi xưa dạy ở Ngô Quyền không Thầy? Em là học trò của Thầy năm lớp 8/1, Thầy nhớ không?

 

 Thầy Long chưa kịp trả lời, cũng chưa kịp nhìn kỹ ông Bác sĩ nhãn khoa, người học trò cũ ở vào những năm cuối của tuổi 30, chắc là đang ở “trên đỉnh đồi của tuổi tác” hăm hở tiếp lời:

 

- Hồi đó em ngồi đầu bàn nhất cạnh cửa ra vào đó Thầy, Thầy nhớ em chưa? Qua tròng kính của máy đo mắt, em vẫn nhận được ánh mắt của Thầy, dĩ nhiên đổi thay theo năm tháng, nhưng không khác thời em còn học với thầy ở Ngô Quyền nhiều.

 

 Thầy Long trầm tĩnh:

 

- Bác Sĩ chuyển cái máy đo mắt ra khỏi tầm nhìn của tôi, tôi mới có thể nhìn kỹ lại Bác Sĩ được.

 

 

Ông Bác sĩ Nhãn khoa vừa chuyển cái khung của máy đo mắt ra khỏi mắt Thầy, vừa vồn vã:

 

- Em xin lỗi Thầy, Thầy nhận ra em không? -

 

 

Thầy Long quan sát kỹ khuôn mặt của người đối diện nhưng trí nhớ của Thầy vẫn nhạt nhoà:

 

- Chịu thôi, ngày tôi dạy các cô các cậu, các cô các cậu còn nhỏ quá. Vả lại, ký ức của tôi bây giờ đôi lúc mờ ảo như sương mù. 

 

 Vậy mà “ký ức sương mù” của thầy Long in rất rõ nét lần gặp lại người học trò cũ hôm đó. Thầy vui cả ngày, không phải vui vì nhận được cả một bao thuốc nhỏ mắt, thuốc bổ mắt loại “sample” từ các viện bào chế vẫn thường biếu để giới thiệu thuốc mới hay quảng cáo thuốc cũ trên thị trường, mà vui vì sau hơn hai mươi năm gặp lại, người học trò mười ba tuổi ngày xưa đã nên người và vẫn không quên câu ngạn ngữ Việt Nam “Công Cha, nghiã Mẹ, ơn Thầy”. Từ đó, lâu lâu Việt, người học trò cũ ở Trung học Ngô Quyền xưa, thỉnh thoảng vẫn đến tham gia đình Thầy đều đặn với sự kính trọng như khi anh còn ngồi ở ghế trường Trung học. Ở tuổi sắp về hưu, bên này triền đồi của đời sống, sức khoẻ mỗi ngày một yếu đi như một cái xe cũ đã cao mileage, cũng như những người cùng thời, Thầy Long sống bằng quá khứ nhiều hơn là tương lai. Rải rác đâu đó khắp nước Mỹ, thảng hoặc Thầy vẫn gặp lại những người học trò cũ, hầu hết họ đều thành công ở xứ người, và vẫn nhớ những bài học năm xưa. Lâu lâu Thầy vẫn nhận được điện thoại của một vài học trò cũ, có người ở tận Châu Âu hay Châu Úc, có người cũng đã ngấp nghé tuổi năm mươi, vậy mà nói chuyện với Thầy, họ vẫn lễ độ, vẫn còn nhắc nhở những giờ học năm xưa. Những lúc như vậy, Thầy vui lắm, và vẫn nghĩ về những năm tháng đi dạy ở trong nước, ngày còn trẻ, dù ngắn ngủi, nhưng đã để lại môt hệ quả rất qúy mà không một khoản tiền nào có thể mua được. Một lần khác Thầy phải nằm bệnh viện vài tuần vì một cuộc giải phẫu không quan trọng lắm, nhưng một người học trò cũ khác từ Canada bay về tiểu bang Thầy đang ở dự một hội thảo của ngành y đúng vào thời điểm đó, vẫn chịu khó vào thăm Thầy tận giường bệnh mỗi ngày. Điều đó hình như là một liều thuốc có hiệu quả nhất giúp thầy Long hồi phục sức khoẻ rất nhanh chóng làm kinh ngạc rất nhiều nhân viên ở bệnh viện. Ấy vậy mà có lần đi lang thang một mình trên đường phố ở Mỹ, Thầy đã lặng người khi nghe một người đàn ông trung niên hỏi Thầy: - Anh có phải là anh Long không? Hồi xưa anh dạy chúng tôi môn Hình học. Tối hôm đó, về nhà, thầy Long cứ xoè bàn tay, nhìn những ngón tay của mình và nhớ đến câu ngạn ngữ  “bàn tay có ngón dài ngón ngắn”. Khi còn trẻ, ở tuổi dưới 40, người ta sống bằng tương lai vì không có quá khứ, hoặc quá khứ quá ngắn ngủi. Ở tuổi bốn mươi, quá khứ đã có chiều dày và tương lai vẫn còn rộng mở, chừng như đang ở đỉnh đồi của đời sống. Và qua khỏi tuổi “tứ thập nghi bất hoặc”, tương lai mỏng dần, quá khứ thì mỗi ngày một dày, cho nên người càng già thường chỉ sống bằng quá khứ. Điều may mắn nhất cho những người đã một thời đứng trên bục giảng như Thầy là tình nghĩa thầy trò vẫn còn, và quá khứ của những người đi dạy vẫn thường ngọt ngào, thi vị hơn những người làm các ngành nghề khác. Cho nên, chừng như những nhà giáo tuy nghèo nhưng thường sống thọ hơn vì có nhiều niềm vui hơn những người ở các ngành nghề khác. Họ còn được so sánh với những người lái đò vẫn cặm cụi chèo thuyền mỗi năm đưa rất nhiều người từ bờ này đến bờ kia. Có những người đến bên kia bờ, mất dạng biệt tăm. Nhưng cũng có nhiều người khách trở lại bến đò cũ thăm người lái đò, vẫn với cái nhìn kính trọng như ngày xưa họ vẫn còn thơ dại, được đưa qua dòng sông nhỏ đầu đời hướng về biển học mênh mông. Ở bên này đỉnh đồi của đời sống, có liều thuốc nào hiệu nghiệm hơn là niềm vui tinh thần đến từ mọi phiá, đặc biệt là đến từ những người học trò cũ bé dại ngày nào nay đã thành người nhưng vẫn theo đúng những điều căn bản về đạo đức, luôn nhớ đến công cha nghiã mẹ ơn thầy. Nếu có khiếu về âm nhạc, Thầy sẽ viết nên bài hát “xin được làm người đưa đò”, chắc hẳn là sẽ cảm động hơn “xin được làm người hát rong” . Nhưng điều cảm động đó, Thầy chỉ nhận ra được rất rõ ràng khi đã ở phía bên này của ngọn đồi tuổi tác… 

 

 

Mountain View, tháng 8 /08

 

Với lòng biết ơn của Cựu HS Ngô Quyền với những “người lái đò” xưa đã đưa chúng em đến bến bờ thành công

Kính tặng Thầy Nguyễn Phi Long, kính tưởng nhớ Thầy Phùng Thái Toàn

 

 

 

NGUYỄN TRẦN DIỆU HƯƠNG

(học trò lớp 8/1 NQ xưa)

 

28 Tháng Ba 2014(Xem: 24085)
Nhân kỷ niệm bốn mươi năm ngày cưới của anh chị Nguyễn Xuân Hoàng Trương Gia Vy, xin tặng anh chị những tấm hình như là “phóng sự ảnh“, ghi lại một ngày trong đời thường...
28 Tháng Ba 2014(Xem: 29924)
*Xin bấm vào phần Youtube bên dưới để thưởng thức: "Ôi Giàn Thiên Lý Đã Xa"-Nhạc: Phạm Duy; Ái Vân Trình bày Kiều Oanh Trịnh thực hiện youtube
28 Tháng Ba 2014(Xem: 26265)
Thời gian, như nước trường giang miệt mài trôi chảy. Nhưng thời gian cũng không làm phai mờ hình ảnh bạn bè của chúng tôi.
28 Tháng Ba 2014(Xem: 27444)
Tao xin mượn lời lẽ của bài thơ này như một lời nhắn nhủ của mày cho những bạn bè còn lại trên cõi đời này Hạnh nhé. ''Còn gặp nhau thì hãy cứ vui Chuyện đời như nước chảy hoa trôi Lợi danh như bóng mây chìm nổi Chỉ có tình thương để lại đời''
27 Tháng Ba 2014(Xem: 29249)
Chúng tôi đã khóc cùng Thịnh khi nói về những kỷ niệm đã có với Hạnh nhưng cũng đồng ý là Hạnh đã thanh thản ra đi nên hãy để Hạnh vui nơi chin suối và hãy dành thời gian để săn sóc cho những người còn lại.
21 Tháng Ba 2014(Xem: 30925)
Ngoài những tình cảm quý mến dành cho nhau, chúng tôi cùng bảo ban nhau sống sao cho đáng sống, vì cuộc đời ngắn ngủi…
20 Tháng Ba 2014(Xem: 26157)
... nhắc tôi hãy sống với tình thương, lòng khoan dung, tha thứ, vì nào ai biết được mình có còn hơi thở trong giây phút sắp tới để sống như vậy với vạn vật ở chung quanh.
18 Tháng Ba 2014(Xem: 27622)
nhìn hình ảnh các bạn hôm nay tôi nghĩ đến 1 cuộc chiến mới mà chúng-ta phải đối-diện Cuộc chiến này khốc-liệt hơn mà phần thua chắc-chắn về chúng-ta, đó trận chiến tuổi-già và bệnh-tật...
14 Tháng Ba 2014(Xem: 27502)
Một duyên may gặp gỡ đàn em, đàn anh, đàn chị Ngô Quyền, để cùng có một ước mơ “Mỗi năm chỉ có một ngày”
13 Tháng Ba 2014(Xem: 29062)
Em trai tôi, đàn giỏi hát hay, cờ tướng cũng hàng cao thủ, đá banh cũng được được, văn thơ cũng tàm tạm gọi là, nói chung theo như tôi biết chú ta có máu văn nghệ từ thuở nằm nôi.
07 Tháng Ba 2014(Xem: 29581)
Ngồi trong quán cà phê nghe nhạc và những dáng người qua lại, ly cà phê đã cạn và trà đá vẫn được châm đều. Trời chiều đã bắt đầu âm u… Hạnh phúc thay cũng còn những nụ cười…
07 Tháng Ba 2014(Xem: 30026)
Một cơn sóng nhỏ, lướt qua trái tim tưởng chừng già nua cằn cỗi của An. Và cơn sóng khác nhỏ hơn, đang ngậm ngùi lăn trên khóe mắt – đã nhiều dấu vết chân chim – của cô bạn học ngày nào của Nguyễn
01 Tháng Ba 2014(Xem: 29391)
chuyện kể rằng, mùa xưa mưa nắng mong manh lỡ làm nhạt nhòa chia phôi mùi hương cũ, nên mỗi khi gió chở mùa về, người ta thường hay nhặt lại nỗi buồn xưa xa ngái thương ai... thương mình...
28 Tháng Hai 2014(Xem: 32236)
Cuộc sống của con người buồn nhiều hơn vui. Biết nhận ra để biết sống với tha nhân và đem niềm vui đến mọi người. Cái khổ cái đau không ai tránh khỏi…
28 Tháng Hai 2014(Xem: 26745)
Dựa trên những hiểu biết và những tin tức mà tôi nhận được, tôi tin chắc rằng nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng không mang cái nghiệp thật buồn của các nhà văn nhà thơ: sống trong sự quên lãng và chết dưới những vòng hoa.
28 Tháng Hai 2014(Xem: 65337)
xin được giới thiệu những bài viết của Thầy, Chs NQ và các Văn hữu về những kỷ niệm trong suốt thời gian Thầy đã gắn bó với nghiệp cầm bút và cầm phấn sẽ lần lượt đăng trên trang nhà...
27 Tháng Hai 2014(Xem: 39256)
Mới đây đọc báo Reader’s Digest thấy người ta nói đến những ích lợi của cái CƯỜI, trong đó có nói là cười nhiều có thể làm cho người ốm bớt đi. Lý do gì mà các nhà khảo cứu lại quả quyết như vậy?
27 Tháng Hai 2014(Xem: 27618)
Xin cám ơn bạn bè đã chẳng ngại thời gian, không gian để đến với ngày vui. Xin cám ơn mọi người đã cùng nhau chia sẻ những vui buồn còn sót lại. Mùa Xuân nắng ấm còn trãi đều....
27 Tháng Hai 2014(Xem: 32405)
Anh không về hóa ra lại hay. Hãy để VN biến thành tro bụi trong ký ức. Nhưng anh không về mà cứ muốn em kể chuyện VN cho anh nghe. Em sẽ kể nhưng anh đừng khóc đấy nhé.
22 Tháng Hai 2014(Xem: 29452)
Cũng cần nói ra đây là lần đầu tiên tôi gặp Thầy sau không biết bao lần hẹn găp từ khi khi Thầy còn khỏe. Cứ hẹn rồi chưa gặp, hẹn rồi chưa đến... cho tới khi Thầy bệnh.