Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

GS. Nguyễn Văn Lục - Một cái nhìn từ bên ngoài của người Tây phương và người Việt về nước Tầu (1b - phần 2)

24 Tháng Ba 20164:54 CH(Xem: 15248)
GS. Nguyễn Văn Lục - Một cái nhìn từ bên ngoài của người Tây phương và người Việt về nước Tầu (1b - phần 2)

Một cái nhìn từ bên ngoài của người Tây phương và người Việt về nước Tầu (1b - phần 2)


Về mặt chính trị

Trong khoảng thời gian bị đô hộ hơn 10 thế kỷ, người Việt chịu sức ép nặng nề nhất có thể không phải là kinh tế, quân sự mà là chính sách đồng hóa của người Tầu như nhận xét ở trên.

Lệ triều cống, theo tôi nghĩ, nó chỉ cốt để chứng tỏ một thứ uy quyền tối thượng, một sự thần phục của một nước nhỏ đối với một nước lớn.

Cho dù thua hay thắng Tầu thì lệ triều cống không bao giờ bỏ được. Ngay trong thời kỳ tự chủ thì thể lệ triều cống vẫn cứ ba năm một lần.

Chẳng hạn, dưới thời nhà Nguyên, lệ triều cống như sau:

“Mà lệ cống thì phải cho nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy toán số và thợ thuyền, mỗi hạng ba người cùng với các đồ sản vật như là sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu và các vật lạ. Vua Mông Cổ lại đặt quan Đạt-lỗ-hoa-xich (tiếng Mông Cổ là quan Chưởng ấn), để đi lại giám trị các châu quận nước Nam.”(30)

Chính sách đồng hóa của người Tầu xem ra thành công về mặt văn hóa, nhưng lại không thành công về mặt chính trị. Họ cũng khuyến khích các cuộc hôn nhân dị chủng như một cách thức đồng hóa êm dịu nhất.

Nó thể hiện sự khuất phục như một thứ sức mạnh mềm theo như ta hiểu bây giờ. Chính quan lại Việt thấy văn hóa Tầu tốt đẹp, thấy hữu ích mà tuân phục.

Vì thế về văn hóa, phong tục, tín ngưỡng, y phục, sinh hoạt làm ăn, Việt Nam bị ảnh hưởng người Tầu một cách rõ rệt.

Văn hóa tiếp thu lâu dần trở thành văn hóa hội nhập và đồng hóa. Và ngay cả khi ta dành được độc lập tự chủ đi nữa, ta vẫn duy trì nếp sống văn hóa đã được hội nhập. Mặc dầu tình tự yêu nước – chủ nghĩa dân tộc – chủ quyền độc lập về mặt chính trị, ngoại giao vẫn là những đòi hỏi sống còn.

Alexandre De Rhodes một lần nữa tỏ ra có lý khi ông viết:

“Có một điều rất thông dụng đó là sự tôn trọng hán học. Không có người nào cao trí hay thấp kém mà không cho con cái theo học bí mật của chữ tử khi còn nhỏ tuổi, vì thế trong nước này, người nào cũng biết vọc vạch một vài chữ và không ai hoàn toàn mù chữ.”(31)

Chẳng hạn, Nguyễn Trãi vừa là mưu sĩ, người làm cách mạng đem thân phụng sự triều đình, phá giặc vừa là nho sĩ, nhà thơ Đường nổi tiếng.

Thời nhà Đường, thơ văn được thời hưng thịnh với thi luật cân đối, nhịp nhàng vần điệu đã du nhập vào Việt Nam và có mặt trong thi cử cũng như trong xướng họa của các nhà thơ Việt Nam.

Trong tập san Những người bạn cố đô Huế (Association des amis du vieux Huế), thành lập từ năm 1913 do sự đề xuất của linh mục Léopold Cadière,(32) người ta đã thấy có rất nhiều bài biên khảo liên quan đến việc xây dựng cung điện, lăng tẩm theo mẫu thức Trung Hoa được thu nhỏ lại. Các buổi lễ nhạc, các buổi tế lễ đều rập theo người Trung Hoa.

Các đạo Lão, đạo Khổng, đạo Phật – phát triển mạnh đời Đường cũng chính thức được nhìn nhận như một quốc giáo – nhất là đạo Nho mà nội dung các kỳ thi cử nhân, tiến sĩ đều có các môn được sát hạch như kinh lễ, kinh dịch và nhất là kinh Xuân Thu – mặc dầu nó đã được có sự chiết trung, kế thừa,và hòa đồng.

Cả ba đạo ấy được coi như một tam giáo mà thực tế nó chỉ là một thứ tôn giáo du nhập.

Chỉ có miền Nam – vùng đất mới – mới tự sáng lập ra các đạo Cao Đài, Hòa Hảo, phù hợp với tính chất bản địa và tâm tư của người vùng đất mới, và tín đồ đạo Phật ở miền Nam là những người theo Phật giáo Nguyên thủy.

Đây là một điểm son của miền Nam cần được ghi nhận.

Về các mặt khác – nhất là mặt giáo dục, thi cử, ta vẫn rập theo người Tầu một cách thiện ý đến độ Việt Nam là một nước Tầu dù không có người Tầu.

Vào thế kỷ thứ 15, vua Lê Thánh Tôn đã ban hành bộ luật Hồng Đức,tên gọi thông dụng của bộ Quốc triều hình luật, với sự vay mượn tham khảo luật pháp của người Tầu.

Nội dung của bộ luật này đã được Phan Huy Chú ghi chép lại trong phần Hình luật chí của Lịch triều hiến chương loại chí, nhưng thiếu so với cuốn sách này 143 điều trong tổng số 722 điều. Trong số 722 điều của Quốc triều Hình luật thì 200 điều phỏng theo luật nhà Đường, 17 điều phỏng theo luật nhà Minh. Ngoài ra có 178 điều chung đề tài nhưng Quốc triều Hình luật đưa ra một giải pháp khác các triều đại Trung Hoa. Đáng chú ý nhất là có 328 điều không tương ứng với điều luật nào của Tầu.(33)

Các cung miếu, đền thờ, chùa chiền ở Việt Nam hai bên cửa đều luôn luôn có khắc chữ Nho như một diện mạo văn hóa Tầu khó phủ nhận. (Idéo-grammes chinois).

Một người được coi là trí thức ở Việt Nam thì hiển nhiên người ấy phải rành rẽ chữ Hán, thông lầu kinh sử Tàu.

Nói chung, một gia đình Trung Hoa sống thế nào thì một gia đình Việt Nam rập khuôn như vậy. Đó là một mô hình Trung Hoa được sao chép và chiết trung nhỏ lại.

Cái búi tóc củ hành (hay búi tóc chuy kế) của người đàn ông Việt Nam cũng là kiểu búi tóc chung của nhiều tộc người, trong đó có người Chân Lạp, Chiêm Thành(34). Trong quyển “Xứ Đàng Trong năm 1621”, Christophoro Bori viết người Việt “để tóc xõa và rủ xuống vai, có người để tóc dài chấm đất, càng dài càng được coi là đẹp.”(35)

Từ đây nảy ra một mâu thuẫn đối kháng khó lý giải – một bên là tình thần dân tộc chống kẻ thù xâm nhập bờ cõi – và xu hướng hòa đồng, du nhập tất cả nền văn hóa, văn minh của kẻ thù phương Bắc.

Cũng về mặt chính trị, triều đình Trung Hoa chỉ có thể mang quân sang xâm lược nước ta khi tình hình chính trị tại chính quốc ổn định. Khi bên Tầu có loạn thì làm sao cất quân sang đánh Việt Nam? Điều đó cắt nghĩa được tại sao từ thế kỷ thứ 10 trở đi, chúng ta nắm giữ được độc lập trong 900 năm? Mặc dầu cũng có đến bảy lần Trung Hoa cất quân sang chinh phạt!

Có phải ta giỏi, ta anh hùng, ta yêu nước, ta có truyền thống giữ nước chăng? Điều đó cũng có, nhưng không phải là những yêu tố cơ bản, khách quan.

Kể từ đời nhà Bắc Tống (1004), có lúc nào nước Tầu được yên ổn?

Đời nhà Tống (960–1279) tương ứng với nhà Tiền Lê (980–1000) ở Việt Nam. Lúc bấy giờ ở phía Bắc nước Tầu có quân Khiết Đan đánh phá, vua nhà Tống phải lo dẹp, nước ta mới yên.(36)

Năm 1004, 20 vạn quân Liêu đánh Bắc Tống. Quân Tống thắng, quân Liêu phải xin nghị hòa.

Sang đến thế kỷ XII, đời Nguyên (1276–1368) Thiết Mộc Chân, sau này được tôn là Thành Cát Tư Hãn – dẹp nhà Tống– đã thống nhất Mông Cổ, đem quân đi chinh phạt Đông–Tây, đi đến đâu làm cỏ tới đó, chinh phục Á–Âu mở rộng đất đai vào năm 1279 là 33 triệu cây số vuông. Đó là đế quốc rộng nhất hoàn cầu.

Quân Mông Cổ mang quân sang đánh nước ta ba lần – lúc đó nhà Lý mất ngôi, nhà Trần lên trị vị. Quân Mông Cổ đã vào đến tận Thăng Long. Nhưng vì không quen thổ nhưỡng nên quân lính mỏi mệt, bệnh tật. Quen chuyện binh đao trăm trận đánh, trăm trận thắng trên vó ngụa và bắn cung tên. Quân Mông Cổ tỏ ra thất thế khi sang Việt Nam, vì ngựa không không có cơ hội xử dụng, cung tên không dùng đến. Quân ta thừa cơ phá Mông Cổ. Mông Cổ thua phải rút về Vân Nam.(37)

Đến đời Minh 1368–1644, người Tầu đã phải vất vả đối phó với các thương nhân, các đội thuyền xâm lược của Bồ Đào Nha và quân cướp biển Nhật, gọi là giặc lùn. Có lần đám giặc này đã đánh thẳng đến Thượng Hải, Tô Châu và đến tận Nam Kinh. Cuối đời Minh, thực dân Hà Lan đã xâm chiếm Đài Loan.(38)

Theo Nguyễn Hiến Lê, hiện nay sử liệu liên quan đến đời Minh lên đến 5 triệu tài liệu được cất giữ ở văn khố gần Bắc Kinh.(39)

Khi nhà Thanh lên trị vị thì có một sự việc ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam. Đó là trường hợp các di thần nhà Minh đã không chịu quy thuận nhà Thanh. Họ đành rời bỏ nước Tầu lánh nạn sang Việt Nam với chủ trương bài Mãn Thanh. Đám lưu dân này đến lập nghiệp ở miền Nam.

Đó là trường hợp Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch qua nước ta vào năm 1679, quy phục Chúa Nguyễn, lập nghiệp ở Đồng Nai, Cù lao Phố, Biên Hòa. Đến trường hợp Mặc Cửu đến lập nghiệp ở Hà Tiên, lập được một hải cảng như một tiểu quốc dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn. Người ta thường gọi họ là Minh Hương. Làng của Người Minh hương.

Xin trích dẫn một đoạn cho thấy Mặc Cửu đã chạy vào Đàng Trong và đã lập nên sự nghiệp như lời kể lại trong sách của Phan Khoang như sau:

“Sau khi thấy nhà Minh không thể phục hưng được thì Mạc Cửu không chịu cạo tóc, gióc bím theo nhà Thanh, chạy sang cư ngụ ở đất Chân Lạp, làm quan với Chân Lạp. Thấy chính cuộc nước này rối ren mà ở Màng khảm, thuộc tỉnh Ream của Miên, mở sòng bạc để lấy xâu, lại đào được một hầm bạc nên trỏ thành giàu. Mạc Cửu bèn xây một ngôi thành trên bờ biển, mở phố xá rồi chiêu tập lưu dân đến ở các nơi Phú Quốc, Cần Bột, Rạch Giá, Luống Cày, Hương Úc, Cà Mau lập thành 7 xã thôn.”(40)

Sau này, các lưu dân người Minh Hương đã lâp nghiệp tại Cù Lao Phố Biên Hòa và lập nên cả một vùng Chợ Lớn, năm giữ hầu như toàn bộ công việc buôn bán lúa gạo của miền Nam.

Nhiều người sau này ra làm quan triều Nguyễn và có chức phận trong triều đình. Đó là trường hợp Phan Thanh Giản, Bùi Hữu Nghĩa và nhiều người khác.

Đời Mãn Thanh (1644–1911) là dấu hiệu suy thoái trước sức mạnh của các cường quốc Tây Phương. Đến độ Hoàng Đế Đại Quang đã phải than rằng: Có hai chiếc thuyền của bọn giặc Tây cũng không thể đánh lui, nực cười đáng hận làm sao! Vũ trang kém cỏi như thế, chẳng trách bọn ngoại quốc coi thường chúng ta.

Mặc dầu nội tình nước Tầu suy yếu, nhưng cũng đã nhiều phen cất quân sang đánh nước ta nếu có cơ hội và nhất là có lời yêu cầu.

Nói chung hai yếu tố địa lý và chính trị trình bày ở trên là căn bản mà bất cứ ai tìm hiểu về nước Tầu bỏ qua thì sự nghiên cứu của họ sẽ tỏ ra thiếu sót!

Lịch sử của dân tộc Việt Nam cũng có những cuộc chiến chống ngoại xâm nhưng với rất nhiều huyền thoại về yêu nước.

Về điểm này, nhiều khi sử của người Việt Nam trở thành một thứ tuyên truyền rất xa sự thật ngay cả bất chấp sự thật, bất chấp thực tế lịch sử và đẫn đến một thứ sử phi sử.

Các bộ sử của chúng ta – bất kể loại nào – bất kể được viết dưới triều đại nào, cần được tu chính và viết lại để sự thật lịch sử là lịch sử. Ngay cả những cuốn sách sau này như của Trần Trọng Kim, Phạm Văn Sơn và các sử gia miền Nam trước 1975 cũng cần được nhìn lại do thiếu thốn tư liệu nên cũng ít nhiều không tránh được tính chủ quan.

Đấy là tôi thực sự không muốn đề cập đến các sử gia miền Bắc XHCN.

Đứng vững ngàn năm?

Gần đây nhất – tôi lấy như một tỉ dụ cuốn Đứng Vững Ngàn Năm của tác giả Ngô Nhân Dụng(41) – không biết có thể gọi đó là cuốn sách sử hay không? Tác giả theo gót chân sói mòn của các tiền nhân, của các nhà sử học đi trước đã viết một cuốn sách mà theo tôi, nó thiếu hẳn một tri thức luận và nhận thức luận – không tài liệu dẫn chứng theo như thông lệ viết sách.

Phải nói là tác giả đã lập luận khơi khơi, vô bằng và không có cách gì kiểm chứng được những lập luận của tác giả. Tác giả thiếu hẳn một cái nhìn cơ bản dựa trên căn bản địa-chính trị giữa nước ta và nước Tầu như tôi vừa trình bầy ở trên.

Yếu tố quan trọng nhất trong việc tìm hiểu tại sao các chiến thắng của câc vị anh hùng như Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Quang Trung là cần dựa trên yếu tố địa-chính trị (Géo-Politique).

Trước hết xin nhường chỗ cho Nguyễn Ngọc Bích – một người có tiếng trong làng sách báo người Việt, nhận định về cuốn sách.

Theo ông Nguyễn Ngọc Bích(42), cuốn sách:

“ …cho ta những thông tin mới hay những nhận-định sâu sắc, độc-đáo dựa vào những kết-quả rất đáng kể của ngành sử-học, xã-hội-học, khảo-cổ-học mà ta đã thụ đắc được trong gần 100 năm qua, kể từ quyển Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim.

Nhưng khác với quyển sau này, cuốn của ông Kiểng chỉ đi từ những sở-kiến của ông mà hầu như không nhắc đến những nghiên cứu của ai khác. Ngược lại, cuốn Đứng vững ngàn năm thì gần như chỗ nào cũng “nói có sách, mách có chứng,” Ông nêu ra những tìm tòi của Lê Thành Khôi, Pierre Gourou, Vũ Quốc Thúc, Paul Mus, Nguyễn Phúc Long (Les nouvelles Recherches archéologiques au Vietnam) trong tiếng Pháp, của Keith Taylor (The Birth of Vietnam), Nguyễn Quốc Trị trong tiếng Anh, của cả sử-gia Nhật viết về Việt-nam, và nhất là những sử-gia Việt-nam có sách gần đây, như Lê Mạnh Hùng (Nhìn Lại Sử Việt), Tạ Chí Đại Trường (Thần, Người và Đất Việt), Trần Gia Phụng (Việt Sử Đại Cương), Vĩnh Sính, Lê Mạnh Thát. Ông cũng không ngại nhắc đến những sử-gia hay tác-giả đứng đắn ở Hà-nội như Phan Huy Lê (Tìm về Cội nguồn), Trần Quốc Vượng hay Trần Từ (Cơ cấu tổ chức của Làng Việt cổ truyền), Trần Nghĩa, hay những tác- giả cổ hơn nhưng vẫn còn giá-trị (Phan Kế Bính, Lê Dư, Đào Duy Anh, Nguyễn Đổng Chi, Toan Ánh, Bình Nguyên Lộc…). Tóm lại, đọc Ngô Nhân Dụng, ta có cảm-tưởng được xem một bảng tổng-quan về những tiến-bộ sử-học, xã-hội-học, văn-học, khảo-cổ-học, thậm chí cả kinh-tế-học về Việt-nam, nghĩa là được thấy kiến thức của ta được phong phú hẳn lên.”

Quả thực, phải xin phép ông Nguyễn Ngọc Bích để thưa rằng, tôi phải nói Không. Không đủ mọi thứ.

Ngay trang mở đầu cuốn sách, tác giả Ngô Nhân Dụng đã trích dẫn 4 câu thơ của Thanh Tâm Tuyền – 4 câu thơ nói lên tâm trạng không khuất phục, không quỵ lụy của một trí thức miền Nam trong lao tù cộng sản.

Bốn câu thơ như sau:

Đứng vững không khụyu chân
Trên mảnh đất nghèo khổ
Thở hít tận vô cùng
Ngây say đóa hồng rợ

Vang vang trời vào xuân, Thanh Tâm Tuyền (TTT)

Bốn câu thơ này chỉ có ý nghĩa khi đặt nó vào trong cái ngữ cảnh (contexte) của nhà thơ trong trại tù cộng sản.

Về bài thơ Ngô Nhân Dụng trích ở chương đầu sách, Nguyễn Mạnh Trinh viết,

“Đọc những trang thơ, thấy hiển hiện những sinh hoạt của trại tù. Dù bị trù dập, dù bị đè nén, nhưng vẫn là thái độ rõ ràng, thua trận nhưng không bại hoại tư cách…”(43)

Thật ra, đây là một đoạn trích dẫn từ một dị bản của bài thơ thứ 22, “Vang vang trời vào xuân” trong tập “Thơ ở đâu xa”. Theo bản đầu tiên đã được Thanh Tâm Tuyền xem lại từng bài(44), trước khi đóng thành tập thì đoạn được Ngô Nhân Dụng trích dẫn đúng ra phải là:

Chống cuốc đứng vững chân
Trên mảnh đất khốn khổ
Thở hít đến vô cùng
Mãi mê ngắm hồng rợ”

Từ hình ảnh “chống cuốc đứng vững chân” đến “đứng vững không khụyu chân” đã là một bước khá xa. Vậy mà với hậu ý, ông Ngô Nhân Dụng đã bắt người tù cộng sản TTT đi thêm mấy dặm đường, rồi bẻ quẹo tâm tư nhà thơ trở thành ý thức dân tộc “không khuỵu chân” trước mười thế kỷ thuộc Tầu, rồi in thành sách.

Người ta đồn, ông Ngô Nhân Dụng là một thứ Nhạc Bất Quần. Lời đồn ấy quả không sai qua câu chuyện này.

Phần tôi, cảm thấy tủi cho vong linh nhà thơ TTT, bài thơ ấy trong bối cảnh lao tù hận cộng sản – bài thơ bày tỏ một tâm tư bất khuất – bị khoác cái áo hư ảo, trở thành khí cụ tuyên truyền.

Về cách xử dụng và trích dẫn tài liệu

Được biết là ông Ngô Nhân Dụng, tên thật là Đỗ Quý Toàn, khi tị nạn cộng sản ở nước ngoài đã đi học lại. Và cũng theo những tiết lộ được công khai đăng trên báo, ông đỗ bằng tiến sĩ về kinh tế và còn là giáo sư của bốn trường đại học ở tỉnh bang Québec, hai đại học tiếng Anh là Concordia và McGill, hai đại học và cao đẳng tiếng Pháp là Đại học Université du Québec à Montréal và Royal Military College Saint-Jean(45). Nhưng mới đây cũng có thông tin trái chiều.(46)

Với đẳng cấp và học vị như thế, tôi không thể nào hiểu được ông viết một cuốn sách biên khảo – dẫn chứng mà thật sự không dẫn chứng. Ông chỉ nêu tên cuốn sách, tác giả. Sau đó ông tùy tiện viết mà người đọc đành chịu không biết dòng nào, đoạn nào, tư tưởng nào là của tác giả? Muốn truy cứu thì hoàn toàn bó tay.

Tôi lấy một cuốn sách khác để làm một so sánh nhỏ. Đó là một tác phẩm của sử gia John Prados, “Việt Nam: The history of an Unwinable War, 1945-1975” do University Press của ĐH Kansas ấn hành năm 2009. Cuốn sách dầy 665 trang, trong đó từ trang 551 đến cuối sách là notes. Nghĩa là 114 trang hay hơn 17% cuốn sách dành cho các chú thích.

Người đọc dễ dàng kiểm chứng sự kiện cũng như tham khảo thêm, khi cần. Cuốn sách “Đứng vững ngàn năm”, dầy 447 trang – không có đến một dòng chú thích – ngoại trừ mấy tấm bản đồ và ít trang mục lục.

Chắc là ông Ngô Nhân Dụng có dụng ý gì khi viết và trình bày như thế mà tôi không được biết. Nhưng tôi đặt ra nghi vấn, phải chăng đây là một thứ gian lận? Một thứ mượn tên? Hay một sản phẩm ‘ngụy tạo’ thiếu tinh thần phương pháp luận và cả tri thức luận để che lấp sự nghèo nàn về tài liệu tham khảo – một thứ nói ‘khống’ vô bằng!

Một vài ví dụ về những lý luận theo dân tộc chủ nghĩa trong cuốn “Đứng vững ngàn năm”

Ở Chương 9, Dụng Hạ biến Di, Ngô Nhân Dụng kết luận,

“Và sau đó hơn một ngàn năm thì các người phía Nam Trường Giang không còn phân biệt người Sở, người Ngô, người Mân người Việt nữa. Họ đều hãnh diện tự coi họ là người Trung Quốc. Quá trình Dụng Hạ biến Di đã thành công.”(47)

Theo Ngô Nhân Dụng, như vậy nghĩa là nhà Hán đã đồng hóa được dân phía nam sông Dương Tử nhưng không vào được Việt Nam. Tuy vậy, tác giả hoặc không biết hay không giám đề cập đến cái tự hào về tính “Hoa” “Hạ”, “Trung hạ”, “Trung Châu”, “Trung Quốc” của vua quan Việt Nam.

Một, Alexander Woodside viết,

“In 1805 Gia-Long referred to Vietnam as the “middle kingdom” or trung-quốc. The conventional Chinese term for China thus became, in Vietnamese hand, an abstraction devoid of any one geographic reference.”(48)

“Năm 1805 Gia Long coi Việt Nam là “vương quốc trung tâm” hay “Trung quốc”. Thuật ngữ tiếng Hán thường dùng để chỉ Trung Hoa, vào tay người Việt, đã trở thành một khái niệm trừu tượng không có một liên quan địa lý nào.”

Hai, Toàn thư, Tập IV, trang 135, tờ 14b chép,

“Trước đây Lý giác trốn sang Chiêm Thành nói tình hình hư thực của Trung quốc (1104)”; “Đối với những người hào kiệt Trung quốc, chúng (chỉ nhà Minh) phần nhiều vờ trao cho quan tước rồi đem về an trí ở phương Bắc (1417)”; Tháng 8, năm 1426, vua Lê Thái Tổ ban dụ cho cả nước viết: “Giặc còn ở Trung quốc, dân chúng còn chưa yên”(49)

Bản dịch Việt văn trong nước CHXHCN Việt Nam hiện nay chỉ dịch “Trung quốc” là nước ta, trong nước.

Ba, “Thái úy Đỗ Anh Vũ nhà Lý nói, ‘Để bọn man di quấy Hạ là tội của thần […] nay cấm chỉ thói mọi, chắp tay mà chịu mặc hình; trộm cắp dân ven, mất mật mà theo hàng hóa.”(50)

Và còn rất nhiều thí dụ khác về việc vua quan Việt Nam tự coi mình là người Trung quốc và tự hào về văn minh “Hoa”, “Hạ”.

Tóm lại có phải “Dụng Hạ biến Di” chỉ thành công với “các người phía Nam Trường Giang” như Ngô Nhân Dụng mơ viển vông hay là chiến lược này đã ít nhiều thành công ở cả Việt Nam nữa?

Ở Chương 13, Sức đề kháng của dân Việt, Ngô Nhân Dụng viết, “Nhưng người dân Việt Nam từ thời Hai Bà Trưng cho tới thời Quang Trung vẫn nhất định bảo vệ bộ răng đen, mớ tóc dài, và cái váy.”(51)

Có thật thế không?

(còn tiếp)

Nguyễn Văn Lục

Nguồn: DCVOnline

12 Tháng Bảy 2013(Xem: 60416)
Tôi xin gửi đến thầy cô, bạn bè tâm tư của mình để nhắc nhau còn hai tháng nữa là đúng 50 năm khóa 8 NQ bắt đầu nhập học.
06 Tháng Bảy 2013(Xem: 43585)
Môt ngày vui đã chấm dứt, nhưng cái tình Ngô Quyền vẫn sống mãi trong lòng mọi người. Cám ơn thầy cô không ngại tuổi già, đường xa đã về đây họp mặt.
06 Tháng Bảy 2013(Xem: 51422)
Cô trong tâm tưởng của em lúc nào cũng là một vị thầy đáng kính, và tình cảm cô dành cho em qúa ấm cúng, bao la, tình cảm của một người chị cả luôn luôn che chở các em.
06 Tháng Bảy 2013(Xem: 68587)
Bảy năm gắn bó ở trung học Ngô Quyền đã cho tao nhiều kỷ niệm, nếu viết thành sách cũng mấy trăm trang. Viết thơ cũng mấy chục bài.
02 Tháng Bảy 2013(Xem: 53317)
Những cô giáo trường Nữ Tiểu học ngày xưa đã từng là niềm hãnh diện tự hào của người xứ Bưởi Biên Hòa .
29 Tháng Sáu 2013(Xem: 50632)
Hãy cho nhau nụ cười và vòng tay ấm thân thương. Ngô Quyền mãi là ngôi trường yêu dấu của những người con xứ Bưởi. Mong gặp lại các bạn trong ngày hội Ngô Quyền.
28 Tháng Sáu 2013(Xem: 69423)
Dịu dàng với học trò, tế nhị với đồng nghiệp, là dấu ấn đẹp trong lòng tôi đối với cô Phan Thị Lệ Hoa.
28 Tháng Sáu 2013(Xem: 63566)
Hoàng Duy Liệu mở trang Đại Hội Ngô Quyền 2013 và bà con ta nhào vô vui hết biết. Phải công nhận mỗi người con Ngô Quyền đều tha thiết về ngôi trường kỷ niệm nên ai cũng nôn nao.
21 Tháng Sáu 2013(Xem: 58732)
Đành vậy! Thôi cũng một lời cám ơn. Cám ơn người em với kỷ niệm tình rất đẹp, dù chỉ là bờ lưng quay vội và không là trăm năm…
19 Tháng Sáu 2013(Xem: 62216)
Đã đến lúc bạn bè chung lớp cần tìm gặp và cùng đến với nhau để ôn lại những kỷ niệm. Những tiếng tao mầy như đã thân quen tự thuở nào, như lời mời gọi chúng tôi cùng bạn bè
18 Tháng Sáu 2013(Xem: 118242)
Quỹ thời gian của thầy cô tôi càng ít, càng nung nấu trong tôi về một buổi họp mặt, chỉ dành riêng cho thầy cô giáo cũ và anh chị em bè bạn chs. Ngô Quyền Biên Hòa.
18 Tháng Sáu 2013(Xem: 81772)
Hãy cho người cha, người mẹ tội nghiệp một bờ vai, một nắm tay ấm êm hạnh phúc. Như ngày xưa. Vâng! như ngày xưa khi các con còn bé xíu nằm êm ấm, hạnh phúc trong vòng tay thương yêu bất tận của hai đấng sinh thành.
15 Tháng Sáu 2013(Xem: 53552)
trong thơ văn cũng như ngoài đời thường, tình phụ tử thường không được nhắc nhiều bằng tình mẫu tử. Thế nên một bài thơ hay truyện ngắn nói về tình cha con phải kể là… “hiếm quý.”
15 Tháng Sáu 2013(Xem: 49988)
Chúng ta tan biến vào nhau trong tình yêu cuối đời muộn màng mà thơm lừng thi vị, như hai ly rượu ngon mình đưa lên môi nhau sóng sánh ái ân, nồng đượm hương vị tình yêu...
12 Tháng Sáu 2013(Xem: 74696)
Chẳng biết làm sao hơn, chỉ có thể tiếp tục ước mong, nếu năm nay ta không về được thì hãy hẹn với nhau "về hội ngộ năm sau"… Có dịp về với nhau vì thời gian không còn nữa..
11 Tháng Sáu 2013(Xem: 56927)
Tôi quay qua hỏi: "Nhớ Thầy Thể hả?". Cả hai gật đầu. Ai cũng nhớ Thầy hết trơn, hết trọi vậy đó! Thầy ơi!
07 Tháng Sáu 2013(Xem: 53060)
Xin được một lời cám ơn gia đình anh chị Lê văn Tới, cám ơn toàn thể anh chị em đồng môn và bạn bè Bắc Cali với những tình cảm đẹp.
07 Tháng Sáu 2013(Xem: 52100)
tham dự Ngô Quyền để có được những giây phút cảm động nhìn lại Thầy Cô cũ, bắt lấy từng bàn tay ôm từng kỷ niệm. Không thể? Và có thể... Biết đâu “ Ngô Quyền Vang Tiếng Gọi”
07 Tháng Sáu 2013(Xem: 71263)
Tạm biệt sân chơi Một Thuở,.... Chính từ lời mời nồng nhiệt của em, mà thầy trò trường Ngô năm cũ đã có một đêm tri ngộ tri ân đầy ý nghĩa.
07 Tháng Sáu 2013(Xem: 46182)
Ai đó thơ thẩn thả hồn theo thơ: Bolsa nhớ nắng sân trường Vuốt xuôi tóc cấy mà thương người về.