Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Nguyễn Hữu Hạnh - NHỮNG CON ĐƯỜNG

07 Tháng Hai 20154:10 SA(Xem: 25444)
Nguyễn Hữu Hạnh - NHỮNG CON ĐƯỜNG

NHỮNG CON ĐƯỜNG

 

nhung con duong

 

Trời bây giờ có những cơn mưa, xuyên qua cửa kíếng tôi đã nhìn thấy những giọt nước mưa lăn tròn trên lá của chậu rau tần, tôi chợt nhớ … và thèm  tô canh chua cá lóc cay mùi ớt, đậm mùi hương tần một chút tình yêu thương.  Những hương vị dân dã làng quê  đậm đà sao nhớ quá, nhớ từng món ăn nuôi tôi khôn lớn, cũng như nhớ từng  con người đã đỡ đần tôi trong những cơn vất vả, và nhớ nhất  biết bao kỷ niệm của một thời đã qua với những con đường…

Tôi lớn lên từ ấp Đồng Nai của Xã Hóa An thuộc tỉnh Biên Hòa ngày xưa, nằm sát đường liên tỉnh 16 nối liền Tân Vạn, chợ Đồn lên tới Tân Uyên. Một xóm nhỏ êm đềm có tên là xóm Lò Lu vì nơi đây lúc bấy giờ có lò lu của ông bang Trần Lâm, đã mang đến chén cơm manh áo cho bao người trong xóm, trong xã.  Bên kia sông là chợ Biên Hòa, đứng trên cánh đồng ruộng có thể nhìn thấy cả hai ngọn núi Bửu Long và Châu Thới. Ông Nội tôi mất sớm nên không biết gì về ông, chỉ được nghe bà nội nhắc đến trong những ngày cúng giỗ. Bà Nội từng kể lại cả ông và bà Nội đều có ông bà ông cố ông sơ giàu có ba đời, ruộng vườn cò bay thẳng cánh của ăn của để, đến nổi khi còn nhỏ bà nội với lòng từ tâm, đã từng lén lấy gạo thóc trong nhà cho thêm những người tá điền giúp việc. Tổ tiên ông bà giàu có, đến đời ông bà nội tôi lại nghèo khó ba đời, ông bà Nội, ba tôi rồi đến đời tôi. Ông Nội tôi họ Nguyễn người gốc Tân Vạn, bà Nội tôi họ Đỗ lớn lên từ ấp Tân Bản Chợ Đồn, nhưng đặt tên các con lại không giống ai, như hai Lùng, ba Bỉ, sáu Xường, chín Suổi, riêng cô Tám lại mang tên đẹp hơn của loài hoa Huệ. Thời tuổi thơ của các cô và ba tôi nghèo lắm, các cô và ba tôi đều phải đi ở đợ người giàu có khác để có tiền về phụ ông bà Nội nuôi các cô Tám và chú Chín của tôi. Những ngày cận Tết cả nhà đều mừng rỡ khi ba tôi trở về với gói thịt ba rọi trên tay, từ đồng tiền làm công vất vả của ba tôi.

Sau nầy hằng năm đến những ngày cận tết, tôi đều đi theo cô ba hoặc chú chín, ba tôi thì đi lính miền xa, xuống Tân Vạn giẫy mả ông bà. Con  đường đất đỏ vòng sau sân vận động quán thịt rừng Mười Dương. Nghĩa trang của gia đình Nội còn lại ở đây, cho đến bây giờ đã được giành lấn và bán dần, có mả ông bà cố, các chú chết trẻ, sau nầy bà nội, cô ba và chú chín cũng nằm yên nghỉ ở đây. Thuở nhỏ, khi các ông chú vẫn còn, tôi luôn đến chào ông chú 7, ông chú 8, được ông chú kể cho nghe ông nội còn nhiều anh em giàu lắm đang ở Cát Lái, chỉ có ông Nội tôi chết nghèo những vẫn gìn giữ đất với mồ mã tổ tiên. Con đường này đã là nơi phải đi và đến mỗi năm ngay cả khi ba tôi mất, ba tôi không được nằm chung với ông bà nội tôi, đến để thăm mộ để được nghe  lại những kỷ niệm  của ba tôi trong những lần về thăm, cũng dưới tàn cây bưởi ba tôi đã cùng 2 ông chú và các bậc trưởng thượng ở đây, cùng nhấp men cay trao đổi việc nhân nghĩa ở đời và đờn ca xướng hát. Tôi không hình dung được nơi nào (theo lời bà nội kể lại), ba tôi thời trai trẻ làm sao có thể tránh được sự ruồng bố của Tây ban ngày, cũng như sự khủng bố hù dọa của Việt Minh vào ban đêm.

Tôi đã đi trên con đường đá sỏi, con đường từ bến đò ngựa của chùa Long Thiềng chạy tới Cầu Hang, đến mả thằng Tây quẹo vào Tân Bản. Quê của bà Nội nơi đó có những bà dì 7, bà dì 8 là em của bà Nội tôi, có nhhững người con chú Hai Hư, Sáu Dê, chú tám Tiền và cô tám Khỏe. Chú Tám tên Tiền nhưng lại nghèo nhứt xóm. Tôi luôn nhớ và quý trọng thiếm 8 Tiền, khi chú 8 Tiền bị đi quân dịch và tử trận ngoài Bình Tuy trước năm 70, để lại thiếm 8 tuổi còn trẻ và hai người con gái còn nhỏ. Thiếm đã ở vậy, hằng ngày đạp xe đạp từ Tân Bản lúc tờ mờ sang, qua Biên Hòa hốt rác chợ cho công ty vệ sinh để nuôi con. Năm 1972 tôi đi lính đổi về miền Tây, chỉ đến thăm thiếm tám Tiền ngay sau khi tôi ra tù năm1981, thiếm tám Tiền lúc đó cũng còn nghèo và khó khăn, nhưng chén cơm và bữa ăn thiếm dành cho tôi là cả sự ấm lòng, ấm lòng như tên gọi thân thương thiếm đã từng gọi tôi như những ngày còn nhỏ “thằng cu Hạnh”. Bây giờ 2 người con gái của thiếm đã có gia đình, rất có hiếu nhờ trời thương cũng ăn nên làm ra. Một lần từ Mỹ trở về tôi đã tìm thăm và trao thiếm một số tiền, nhưng thiếm vẫn khăng khăng không nhận. Con đường vào Tân Bản đã dạy tôi làm người như thế đó…

Tôi đã thường xuyên đi bộ qua cầu Gành và cầu Rạch Cát để đến Hãng Dầu (ấp Phước Lư). Con đường Hàm Nghi từ thời còn trại cưa Lê Văn Tính, bên kia đường rầy là nhà bà ngoại tôi, đổ dốc phải về phía bờ sát bên trại lính gìn giữ chân cầu, những tiếng còi tiếng động cơ của những chuyến xe lửa qua lại hằng ngày từ Sài Gòn ra miền Trung.Tôi nhớ con đường theo bà Ngoại đến nhà ông Cò Hương, bà ba Chẵn, anh hai lớn, anh hai nhỏ, thằng Độ và anh Tràng Quân Cảnh. Nhà ông thầy Ký Bình có  người con gái học Ngô Quyền. Ngoài lộ chính là tiệm sửa xe đạp của bác Năm Chẵn, chợ chồm hổm nhóm vào buổi sáng và những tiếng trống báo giờ ra chơi của trường Đồ Chiễu. Ông Ngoại bà ngoại của tôi có gốc gác từ Bình Đa An Hảo, nhưng cũng có nhiều bà con họ hàng ở  Cù Lao. Ba má tôi đã chọn quê ngoại để nương thân sau ngày cách mạng 1 tháng 11 năm 1963 cho đến bây giờ, tôi vẫn ở Hóa An với bà nội cho đến khi bà nội mất và đi lính. Những con đường qua bến đò kho, bến đò An Hảo, qua nhà ông Kinh Lý Nhơn như đã quen từng bước chân của đứa học trò nghèo. Những năm đất nước đổi thay lại càng gắn bó với miền đất với những con hiền hòa nầy hơn. Những đêm buồn tìm qua người bạn tù trong căn chòi nhỏ bên bờ sông gần bến đò kho, cũng món ăn tự nấu, với chai rượu đế được mua từ lò của người hàng xóm, sóng nước Đồng Nai vẫn âm thầm lặng lờ trôi trong đêm đen, đen như những mãnh đời của chúng tôi đã bị chế độ gạt bỏ. Nhớ hai khu chợ nhỏ từ cầu cống vào chợ Cù Lao, ngôi chùa Đại Giác, phía sau là nghĩa địa nơi tôi đã nhiều lần cùng đến để chia sẻ những mất mát của gia đình những người bạn, cũng như đã tôi từng hiên ngang (vì không ai dám) ôm hai sừng trâu nhảy xuống đặt trên quan tài của ba của một người bạn đã hạ huyệt (theo lời yêu cầu của người bạn qua lời khuyên của một thầy yếm trước cái chết bất thường của người sinh ra mình).

Biên Hòa cũng có những mùa nước lớn với bão lụt năm Thìn còn trong trí nhớ của người cao tuổi, riêng tôi chỉ còn nhớ những năm sau những ngày sống với gia đình Cô Tám tại xóm Lò Heo, gần Đình Tân Lân và trường tiểu học Nguyễn Khắc Hiếu. Trong mùa nước lũ, muốn ra đường từ trong xóm ra đường phải xử dụng những con đò. Ở đây tôi có bà mợ Năm Giỏi người đã chăm sóc cho má tôi những ngày sinh ra tôi, tôi có ông Thầy Năm dạy tôi học toán tập đánh vần, tôi có những người bạn cu Bưởi, cu Dần, cu Giao v. v... , tôi có những người chị, chị Hương, chị Sương của xe đò Liên Hiệp. Và hơn hết là gia đình cô dượng Tám tôi với những đứa em, có thằng em Huỳnh Kế Hiếu đã mất tin hơn 34 năm rồi… chắc là đã chết…

Chợ Biên Hòa có những con đường, nhưng với tôi đường Phan Chu Trinh và Lê Thánh Tôn mang nhiều kỷ niệm, Lê Thánh Tôn là những ngày đi học còn Phan Chu Trinh là những ngày vất và trước sự đổi thay. Đường Lê Thánh Tôn nối dài từ đầu chợ tiệm hớt tóc Công Tạo, tiệm bán phụ tùng xe đạp Đông Hưng xuống bến đò Hóa An, những lần đi học tôi phải qua đò Hóa An đón xe lam lên trường Ngô Quyền. Trước đây tôi có những người bạn thân tình xóm chợ như Giang Hưng (cháo Tiều), Nguyễn Tấn Lực, thời gian này tôi có anh Đảm, anh Tư Sơn, anh Lê Ngọc Sâm, anh Nguyễn Thy Ân và bạn tù Hồng Sang. Tôi có gia đình thân quen như ruột thịt, thầy tư Giàu dạy Pháp văn hàng keo cũ,  trước mặt là nhà thầy Ba Miên, cô giáo Hường, nhà may Mỹ Dung, bên cạnh là gia đình cô ba cô sáu với các anh các chị Hảo Hớn Hùng Hào Điền Viên, gia đình thầy Tư Giàu với Việt, Nam, Dân, Hoàng Nguyệt,  những người anh người bạn lề đường một thời quần rách áo vá, một thời ngả nghiêng. Hẻm 109  đường Phan Chu Trinh gần khu Thành Kèn để vào xóm Hoa Lư, con đường đó đã theo tôi đến bây giờ và trọn đời. Quê vợ tôi là ở đây, với ông Tề, ông Căn, ông Bội, chú thím Phách, anh chị Phướng. Nơi đây ròng rã hơn 10 năm liền vào mỗi sáng sớm trong lúc mọi người đang an giấc trong chăn ấm, tôi phải đạp xe đạp sau này là xe ba gác vào hầm nước đá sau tiểu khu cũ, hoặc đến  trại Bạch Đằng trên đường đắp mới, quần áo ướt đẫm và lạnh cóng nhưng mồ hôi vẫn nhuể nhại, chở nước đá về bỏ lẻ cho các quán cà phê như một nghề để sống, bằng sự giúp đỡ và thương mến của bà con xóm chợ Biên Hòa, những quán cà phê lề đường, những xe nước mía, atisô v. v...  Trong đó có vợ chồng anh chị Cao, anh Cao đã từng cứu tôi thoát chết với bệnh kiết lỵ trong tù cộng sản tại Hốc Môn. Thời gian còn lại là bạn tù bạn lính đốt đời qua những cơn say. Bây giờ mỗi người một phương, lớp người lớn không còn nữa, riêng tôi luôn vẫn nhớ những ân tình của bao người dành cho kẻ tha phương…

Tôi có cơ duyên được sống nhiều nơi của miền đất Biên Hòa, Hóa An vẫn mãi là quê tôi hai tiếng ngọt ngào.  Dòng sông cứ trôi, nước trôi ra biển lại mưa về nguồn, tôi vẫn thương con đường làng dẫn vào trường học ngày xưa, cũng con đường đó xuống bến đò sang sông với bao kỷ niệm với những người bạn lúc thiếu thời, tình cảm xóm giềng làng xã sao mãi thân thương và còn gắn bó. Những kỷ niệm êm đềm và vụng dại của tuổi thơ tôi sẽ giữ mãi, để biết mình từ đâu biết chốn để quay về dù trong tâm tưởng. Xin được đốt lên nén hương lòng kính dâng lên ông bà nội ngoại, cô dượng, cậu mợ, ba tôi và chú chín Suổi, một người chú đã thương tôi hơn cả những đứa con. Kính nhớ đến những bậc trưởng thượng, các cô chú bác của Hóa An xưa, nghèo tiền nhưng giàu nhân nghĩa đã từng được thể hiện qua những bút tích được  lưu giữ của cố nhân sĩ Lương Văn Lựu tác giả bộ sách “Biên Hòa Sử Lược”

Hóa An sông núi hai vùng

Núi Châu, chùa Hiển, sông Đồng nước trong

Người hiền vẹn chữ hiếu trung

Vui trồng hành cải, sống cùng thủ công

Nhớ thương xưa cách đôi lòng

Nay cầu bắt nối lắp dòng mộng mơ

 

Những cơn mưa bắt đầu dứt hột, những giọt nước mưa vẫn còn đọng trên những cánh tần xanh lá mỏng manh. Tôi chợt nhận ra không thể quên được những phút giây êm đềm, hạnh phúc, tình yêu thương, cũng như những ân tình ân nghĩa từ những tình cảm tôi có được từ tha nhân. Giờ đây được sống nơi xứ người, với những xa lộ thẳng hàng với những đoàn xe nối dài những đêm không ngủ. Một thoáng chốc buồng tim chợt đau nhói, khi nhớ về những con đường với những thân quen của Biên Hòa xưa cũ. Hai giọt nước chợt lăn dài trên má, không biết là những hạt mưa hay những giọt sương…

NGUYỄN HỮU HẠNH

 

24 Tháng Mười 2020(Xem: 12342)
Căn nhà như chiếc áo rách toang Mưa tuôn, gió thổi sẽ tan hoang Tôi thân các cháu chờ người cứu Xin trời thương xót kiếp cơ hàn.
18 Tháng Mười 2020(Xem: 12762)
Khi xe lửa rời bến, tôi đứng ở cửa sổ để nhìn lại Huế một lần cuối thì khói xe lửa tạt vào mặt tôi và từ đó bụi khói vào mắt tôi làm tôi chảy nước mắt suốt một đoạn đường dài.
18 Tháng Mười 2020(Xem: 12262)
vẫn cằm vuông. vẻ cương nghị nét phong trần, theo thời gian, phủ dầy vai áo chiếc chemise carreaux thầy thường mặc như một chọn lựa dấn thân ngày tuổi trẻ cho tuổi trẻ lần cuối cùng tôi gặp lại thầy, đã quá tám năm...
18 Tháng Mười 2020(Xem: 13136)
Thế đành... dang dở... âu đành thế Thôi vậy... ngậm ngùi... cũng vậy thôi Bạn hỡi! Hãy quên đi bạn hỡi Đời vui như thuở mới vui đời!
10 Tháng Mười 2020(Xem: 10798)
Màu da ngâm ngâm hơi rám nắng, mũi không cao, mắt mí lót, mặt có những nốt tàn nhang li ti. Nụ cười cũng chẳng làm nghiêng nước nghiêng thành nhưng biểu cảm sự thành thực và thân thiện.
10 Tháng Mười 2020(Xem: 13273)
Thôi nhé! Nghìn thu em ngủ yên Nỗi đau chị không muốn khêu thêm Tiễn em bàn phiếm buồn rưng rức Những dòng chữ viết cũng ưu phiền.
09 Tháng Mười 2020(Xem: 13054)
Thôi thì trước mặt sông sâu Lá xuôi dòng nước biệt sầu thế gian Đẹp thay chiếc lá thu vàng Bềnh bồng trên nước thênh thang giữa trời...
04 Tháng Mười 2020(Xem: 12156)
Những giọt nước mắt của mùa thu yêu thương và hoài niệm. Rồi mọi thứ sẽ qua, rồi tôi cũng sẽ đi vào hư vô. Mọi vật đều vô thường. Hãy nghĩ như vậy để yên vui.
30 Tháng Chín 2020(Xem: 14047)
Dĩ vãng chợt về ta đứng lặng. Chuyện của ngày xưa, thu của Thu. Ta đến giữa mùa thu lá vàng. Ta đi màu sắc vẫn ngập tràn. Giữ mãi trong tim vàng, tím, đỏ Như giữ một thời đã sang trang.
30 Tháng Chín 2020(Xem: 13273)
Người đi vượt chốn ba đào Mùa thu ở lại ngắm sao nguyên cầu Thời gian cõi tạm bao lâu? Mùa thu ở lại ngậm sầu lá rơi! Mong người đến chốn đúng nơi Thành tâm chung sức giúp đời an yên
24 Tháng Chín 2020(Xem: 14736)
Trăng viễn xứ trở về trên bến đợi Lòng thuyền xưa rời bến đã lâu rồi Trăng viễn xứ mờ mờ trên bến cũ Lòng thuyền nào đã chứa nửa vầng trăng?!
24 Tháng Chín 2020(Xem: 12757)
Trăng Thu đủng đỉnh qua vườn Chén trà hỏi bánh người thương đâu rồi? Gió thu lùa vạt mây trôi Để trăng in đậm dáng người phương xa
19 Tháng Chín 2020(Xem: 12028)
Nguyện cầu cho sân si con người dịu lại, thấy được sự vô thường của cuộc sống. Nguyện cầu cho lửa mau tàn, cho người dân trở về nhà sinh sống bình an. Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát.
19 Tháng Chín 2020(Xem: 13812)
Từ biệt Portland về Cali Hai nơi cháy lớn ở và đi Tàn tro mắt đỏ tôi xoa mãi. Tháng chín năm nay thật ai bi.
12 Tháng Chín 2020(Xem: 12560)
Viết vài dòng này để tạ tội với dì tôi đã một thời mù đôi mắt vì tình lụy và nhất là tạ tội với ông Nghị Nguyễn Bá Kỳ vì tôi đã hiểu lầm ông. Hắt hơi là tình hận chứ không phải muốn hù dọa, khoe danh.
05 Tháng Chín 2020(Xem: 15448)
..Mỗi người sống chết an bài? Tin buồn loan tới Anh Hoài đã đi Một tuần Vĩnh biệt chia ly Thanh Hoài, Tường Cát viết chi, nói gì? Sinh hữu hạn, tử vô kỳ? Bạn hiền thân ái sầu vì mất Anh.
05 Tháng Chín 2020(Xem: 11898)
Gió Thu nhè nhẹ vẫy tay chào Nàng Thu xinh đẹp đã bước vào Lá đỏ nghiêng mình soi dòng nước Trăng vàng lộng lẫy giữa ngàn sao
05 Tháng Chín 2020(Xem: 12791)
Xuân đi, Xuân tới bao lần, Nhớ mùa Xuân cũ tần ngần ngóng trông Đất Trời, Biển rộng mênh mông? Niềm vui, hy vọng sẽ không phai mờ.?
04 Tháng Chín 2020(Xem: 11788)
Bây giờ Tháng Chín Mùa Thu Trăng treo đỉnh núi vọng mù tóc bay Biển đời gió đọng mưa lay Cầu mong được phút giây này bình yên...
29 Tháng Tám 2020(Xem: 11765)
. Các Tăng Ni dù không được tập trung cầu nguyện như những mùa Vu Lan trước, nhưng năm nay bà Tâm tin tưởng Thầy, Sư Cô và các vị Sư sẽ trì chú tụng kinh nhiều hơn ở mỗi đêm.
27 Tháng Tám 2020(Xem: 13758)
Cám ơn cháu cho ta giác ngộ Một lạy thôi rực rỡ hào quang Cử chỉ khiêm cung bát ngát sen vàng Ta học Phật, học từ đứa bé.
26 Tháng Tám 2020(Xem: 13597)
Rất muốn ngắm biển đêm bằng đôi mắt Tìm những điều ẩn ý dưới hoang mang Và muốn thấy giữa vô cùng tịch mịch Trăng lạc đường vì gió mãi lang thang.
23 Tháng Tám 2020(Xem: 9852)
Buổi tưởng niệm kết thúc qua phần tri ơn của gia đình “Chúng con vô cùng tri ơn quý Thầy Cô và quý anh chị cựu học sinh Ngô Quyền đã mang đến cho ba chúng con một cuộc đời, một cuộc sống đầy ý nghĩa”.
22 Tháng Tám 2020(Xem: 9272)
Chiếc ghế trang trọng dành cho Thầy vẫn luôn nằm trong lòng mỗi người học sinh Ngô Quyền xa xứ. Chúng con xin hứa sẽ làm tốt để xứng đáng với sự dạy dỗ và thương yêu của Thầy.
22 Tháng Tám 2020(Xem: 14174)
Khủng khiếp ngoài trời lửa bốc nhanh Cali hỏa hoạn đã tung hoành Mây đen chế ngự vùng trời rộng Lửa cháy tràn lan khắp núi xanh
14 Tháng Tám 2020(Xem: 15040)
Ta đã mệt nhoài bao năm tháng Buông tay rủ sạch, ta rút lui. Ta nghe văng vẳng những hồi chuông. Tiếng mõ ngân nga vọng vô thường Khoan thai ta bước vào vô tận Một kiếp phù du chẳng vấn vương.
12 Tháng Tám 2020(Xem: 13589)
Tai nghe chim hót ngất ngây. Hồ Thu in bóng rừng cây muôn mầu. Vui lên xin chớ u sầu! Hẹn ngày tái ngộ bắt đầu thu sang ? Viễn du thế giới thênh thang . Ngày Xưa Thân Ái kiên gan đợi chờ...
09 Tháng Tám 2020(Xem: 12565)
Con tạ ơn Thầy Cô đã cho chúng con qua sông yên bình, cho chúng con có căn bản đạo đức và kiến thức làm người hữu dụng. Ở nơi xa không thể về đốt hương tưởng niệm. Con xin kính gửi đến Thầy cô tất cả lòng kính yêu trân trọng nhất.