Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Nguyễn Thị Thêm - 30 tháng 4 năm 1975 chị ở đâu?

05 Tháng Năm 201412:00 SA(Xem: 17134)
Nguyễn Thị Thêm - 30 tháng 4 năm 1975 chị ở đâu?


30 tháng 4 năm 1975 chị ở đâu?




30-4_logo-large-content

Chịvề nhà sau một ngày lang thang ngoài đồng. Con trâu đã vào chuồng ngủ yên. Chị lặn lội ra bờ ruộng cắtmột gánh cỏ về sân hợp tác xã trình diện rồi đem vào chuồng trâu. Chị cũng không cần biết hôm nay mình được bao nhiêu điểm lao động. Cuộc đời chị như cái máy chạy theo những mắc xích vòng quay. Sáng trưa chiều tối,chị làm, chị sống, chị sinh hoạtnhư một cái xác không hồn. Chị đã mất tất cả niềm vui và nụ cười từ khichị đặt chân lên mảnh đất này.

Chị bước vào nhà, buổi chiều đã buông. Ngoài sân mấy vồng ớt,nén, cà chờ chị cho tí nước uống. Nó cũng khao khát như chị. Nó muốn được sống, được hít thở khí trời, được ươm hoa kết nụ. Đứacon gái lớn bồng em lao ra mừng chị. Nhìn con, chị chỉ muốn khóc, muốn ôm nó vào lòng chở che, an ủi. Con ai đem bỏ nơi này. Tội thân con tôi. Đứa con gái có đôi mắt xanh thật đẹp, làn da trắng với những cọng lông tơ phơn phớt. Mái tóc vàng rối tung theo gió chiều. Bộ quần áo vải đã sờn vai, bạc màu. Quần ngắn ngủn để lộ ra cặp đùi trắng trái ngược với màu vải đã xám xịt xấu xí. Chị nhìn hai đứa con lòng như dao cắt. Đưa tay ra đón đứa con gái nhỏ, chị bảo con chị: -Đem giỏ cơm vào nhà đi con. Mệ con đâu? -Mệ đi qua nhà mụ Chắt. Nghe nói ngày ni bên nớ có kỵ. -Ờ! Con đã ăn cơm chưa? -Con đợi mạ về ăn luôn. Chịvào nhà, ôm con bé em trong tay, xiết con vào lòng, những đốt xương sườn cấn vào tay chị. Hai đứa bé vừa qua cơn bệnh nên đứa nào cũng gầy nhom, xanh mướt.

Chịnhớ từ ngày chị về nơi này vì khí hậu không quen nên mấy đứa con cứ khóchịu, nayđau mai yếu. Ông chồng chị đã theo lệnh triệu tập, cơm đùm gạo bới đi theo lệnh ủyban chưa nghe tin tức gì. Con bé lớn cả tuần cứ ho. Mỗi lần cơn ho kéo tới cháu lại ói. Những thức ăn, nước dãituôn ra theo từng cơn ho. Nó rũ người xuống oằn oại thở không ra hơi. Nó đã trắng lại bị bệnh nên làn da trắng trở nên tai tái. Hai con mắt xanh lõm vào như cái hố bom. Nó cố gắng ngóc đầu nhìn chị ,đôi mắt mệt mõi, hơi thở khó khăn. Chị ôm đầu con vào lòng ứa nước mắt. Thuốc men đâu còn để lo cho nó. Làm gì có bác sĩ hay tiệm thuốc tây để mua. Con bé lớn đã vậy, con bé nhỏ lại nổi ban. Người sốt từng hồi, mặt mày đỏ bừng, hết sốt lại lạnh. Hai đứa con nằm rên hừ hừ trong sự bất lực của người mẹ. Má chồng chị lăng xăng hết xoa dầu rồi nấu nước gạo rang cho uống. Buổi sáng chị cõng con lớn đi trạm xá. Con bé đã lớn lại cao, chị cõng con chân nó lòng thòng gần chạm đất. Conđường từ nhà đi lên trạm xáphải qua mấy xóm, bọc theo con đường dẫn ra ruộng tuốt mãi ỡxóm Yên.Tới nơi thả con xuống cái ghế gỗ trước trạm xá là chị ngồi vật xuống thở dốc, dường như tất cả sức lực của chị đã cạn. Con bé rũ người ra nhưmuốn té. Chị lại bật dậy đở con. Cô y tá mặc cái quần chẻn, áo trắng cổbâu như dân công đi tải đạn. Cô ta bước tới rờ rờ đứa bé. Chẳng biết côcó kinh qua trường lớp gì hay không, chỉ biết cô là đồng chí hộ lý, là cán bộ y tế ngoài Bắc vào công tác. Phụ tá cô ta là con gái của lão chủ tịch xã nghe nói đã tốt nghiệp lớp 2 trường làng ở đây. Loayhoay một hồi, cô ta ghi vào sổ tên họ chị và con bé. Mở lọ thuốc vạn năng, cấp cho chị vài viên Xuyên Tâm Liên bảo về canh chừng cho con bé uống. Thế là xong. Chị biết mấy viênthuốc đóchả tác dụng gì, nhưng vẫn nhận về. Vì chị cần giấy chứng nhận là con chị bệnh thật, để chị được tạm nghỉ lao độngmột ngày, không bị đem ra kiểm điểm và ghi vào sổ đen. Chịlại cõng con bé lớn về qua con đường hồi nãy đã đi. Chị lấy cái khăn trùm lên đầu con cho khỏi nắng và che luôn cho mình vì không thể đội nónlá. Buổi chiều trước giờ trạm xá đóng cửa, chị lại bồng con em đi khám và cũng nhận vài viên Xuyên Tâm Liên như con chị. Lần này có thêm lời dặn dò: -"O nhớ tán ra cho hén uống" Điđi về về, hai chân chị muốn rã rời, hai tay tê dại, lưng mõi, người ê ẩm mà hai con bé vẫn trơ ra, dường như càng ngày càng nặng. Chị nuốt nướcmắt, nổi uất nghẹn dâng lên làm chịkhông thở được. Tức ran cả ngực, cái đầu muốn bể tung. Mẹ chồng chị cũng đau thương không kém. Bao nhiêu chịu đựng, dồn nén vật bà suy nhược, đau nhức toàn thân. Bà gục xuống nằm ly bì . Một mình chị chăm bacon bệnh trong hoàn cảnh lạ người lạ quê. Con gà mái mới gầy, nhảy ổ được vài ba trứng, chị lấy nấu cháo cho mẹ chồng, cho con. Chị muốn thịtluôn con gà để hầm cháo mà mẹ chồng không cho:
- Thôi con! Để nó còn đẻ lấy trứng tẩm bổ cho cháu. Một buổi tối. Chị ra giữa trời, nhìn lên bầu trời tối thui chị muốn hét to hết hơi sức của mình nhưng kịp thời ngưng lại. Chị lấy tayquẹtnước mắt và nói với tất cả dồnnén trong lòng: -ÔngTrời! Tui bây giờ không còn gì hết. Hai đứa con tui, ông muốn bắt đứa nào thì bắt một đứa. Đứa kia cho nó lành bệnh. Con ruột, con nuôi tui không phân biệt. Tui quá sức chịu đựng rồi. Tui không đấu với ông nữa. Ông tha cho tui. Chịcũng không biết sao chị lại nói những lời không đầu không đuôi, bất tôn, bất kính như vậy. Chị là Phật Tử, lúc nào cũng niệm Phật mà giờ chịlại ra sân nói chuyện với ông Trời. Buổisáng, trời còn tờ mờ. Chị dậy sớm ra vườn hái đọt chè tươi nấu nước chomẹ chồng. Hốt nửa lon gạo bắt cháu cho con. Ngồi khơi lửa rơm cho nồi cháo, ghế ấmnước bên cạnh chị nghĩ mônglung. Phải làm gì đây? Liều thôi. Sống chết có phần số. Không lẽ cứ bó tay đứng nhìn. Chịra vườn, hái tất cả những loại lá, loại rau mà chị biết. Đào ít cỏ gấu,giựt ít dây tơ hồng, cỏ vườn chầu, rễ tranh, lá chanh, lá ổi. Chị hái không kể số là loại gì và bao nhiêu. Chị đem tất cả xuống sông rửa sạch. chặt nhỏ và xao thủy thổ rồi nấu nước cho con uống. Cả hai đứa bé và cả mẹ chồng. Chị đã tới nước liều, chị cóc sợ điều gì xảy ra. Thếrồi, như một phép lạ, cơn ho con bé lớn vơi dần và vài ngày hết hẳn. Con bé nhỏ dịu sốt và ban trắng từ từ lặn, để lại những mảng da đen đen.Mẹ chồng chị đã có thể dậy vàrachợ bán để kiếm cơm nuôi cả nhà. Sau cơm mưa trời lại sáng, các con chịđã có thể chăm sóc lẫn nhau, chị lại tiếp tục ra đồng hợp tác xã làm việc như bây giờ. Có lẽ ông Trời đã nghe chị kêu, đã đồng cảm với chị vàcho chị một con đường để tiếp tục cuộc hành trình cam khổ.

Chịvào nhà lấy cơm cho con ăn. Lựa khoai chị gắp ra một cái dĩa để mình ăn, còn cơm trắng đơm vào chén cho con. Mấy con cá sông kho với ớt đỏ lòm bắt mắt. Ở đây, người ta ăn ớt như không hề biết cay và con bé lớn chị không biết từ lúc nào nó có thể ăn ngon lành. Còn chị thì chỉ ăn cá, gạtớt không ăn mà còn muốn cháy cả lưỡi. Chị múc nước tô canh rautập tàng chan vào chén và đút cho bé em. Mẹ chồng chị đã nấu sẳn trướckhi đi cóviệc. Ăn xong, chị bảo con bé chị chơi với em để mạ gánh nước tưới ớt kẻo tối.

Chịgánh đôi thùng ra bờ sông. Hôm nay sao bến vắng lạ lùng, không có ai xuống tắm hay giặt giũ. Chị để đôi thùng trên mấy tảng đá rồi thọc chân xuống nước,nhìn ra mông lung. Sông Ô Lâu nước trong vắt, bên kia sông thấp thoáng nhà cửa và bóng người qua lại. Những con cá lội lững lờ dướichân chị. Thỉnh thoảng lại đụng vào chân chị nhồn nhột. Có vài con tôm nhỏ bơi qua về bình an, vô tư. Chị không biết mình nên buồn hay vui, nênkhóc hay cười. Hôm nay, trong sân hợptác xã chị đã nghe tin Sài Gòn thất thủ. Mọi người vui mừng hò reo. Mấy tên Cán Bộ hét lớn: -"Quân ta toàn thắng, đã ủi xập dinh Độc Lập rồi. Tướng Minh đã đầu hàng. Quânta toàn thắng"Chị bước ra khỏi sân tập đoàn, tránh xa tiếng hò reo ồn ào, Nước mắt không chảy mà tim đập rất nhanh. Quânta toàn thắng? Quân nào là quân ta? Quân nào là quân địch. Trong cái mớhổn độn đó chị nghe như có tiếng kêu gào, tiếng khóc dậy trời và những tiếng nổ kinh hồn của đạn pháo. Chị không biết cha mẹ mình ra sao? Anh em người nào còn, người nào mất. Còn thằng em đi Hải quân có kịp về nhà hay đã di tản theo tàu. Con mắt chị mờ theo ánh nắng chói chang. Sài gònthất thủ là chị còn cơ may tìm về cha mẹ. Tất cả đều đã xong đã hết , đã tận cùng. Đất nước và con người đã cạn hết sức lực vì hai chữ hòa bình và tựdo. Máu đã đổ nhiều rồi, nước mắt đã chảy thành sông. Khăn tang cô phụ, thi thể tử sĩ, tiếng khóc mẹ già, nước mắt con thơ đã vang lên từ bao nhiêu năm.Thôi thì hòa bình cũng tốt. Chị nghĩ như vậy và nghĩ đến con tàu Bắc Nam đem chị về miền Nam. Về mảnh vườn thân yêu quen thuộc. Chị lại được hít thở không khí tự do và đầm ấm gia đình. Nhưngchị lại lạnh cả xương sống khi nghĩ đến thực tế. Tự do ư? Rồi miền Namcũng sẽ là Cộng Sản. Cũng Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc. Cũng làm ăn tập thể, cũng hội họp thâu đêm. Cũng chế độ tem phiếu. Cũng bình bầu, cũng góp gạo nuôi quân, cũng nắm gạo bỏ hũ cho hội phụ nữ, cũng nắm gạotích lũy cho Thanh Niên. Cũng băng rôn, cờ xí trên mọi ngã đường, cũng cổng văn hóa mỗi đầu xóm nhỏ... Mộtmiền Nam trù phú, rộng rãi, tự do phải đi vào hợp tác xã, phải quy nạp tài sản đất đai vào tập thể, phải lao động, chấm công, bình điểm. Chị không thể mường tượng được xã hội miềnNam sẽ đối phó ra sao. Bâygiờ, ngồi một mình yên lặng chị thấy mình thật mâu thuẩn. Vui hay buồn khi Sài Gòn thất thủ, cha mẹ chị phải làm sao khi cả đàn con đều mang súng Quốc Gia. Còn chồng chị bao giờ mới về. Bênnày con sông Ô Lâu buồn ngơ ngác như vậy đó. Mọi thứ ở đây thay đổi lạ kỳ. Bên kia con sông Đồng Nai của chị có nổi sóng ba đào hay im lìm chịuđựng. Con đường về mới lóe lên đã tắt ngúm khi người kiểm soát người. Khi chế độ hộ khẩu và hệ thống kiểm tra lý lịch chặt chẻ gò bó người dân. Chị làm sao có đủ chử ký từ ông đội trưởng hợp tác xã đến Ủy Ban vàtheo hệ thống dài tới tỉnh để được về nhà. Nướcmắt chị ứa ra, chị như con chim bị nhốt trong lòng không cách chi vùng vẫy. -Mạ ơi! răng mà lâu rứa mạ!Cótiếng con bé lớn gọi chị. Có lẽ chờ lâu không thấy chị về, con bé chạy đi tìm vì sợ chị gánh nước lên dốc bị té hay lấy nước bị hụtchân. Chị trả lời cho con yên tâm rồi quảy đôi thùng xuống sông lấy nước.ThángTư, ngày 30 sẽ là điểm mốc của lịch sử Việt Nam. Chị đã chứng kiến Đà nẵng hổn loạn, tan tác trong ngày bỏ ngõ. Chị biết Sài gòn sẽ còn ghê gớm tang thương hơn. Ôi thành phố hoa màu, Hòn Ngọc Viễn Đông sẽ chìm trong biển lửa. Chạy trốn nơi đâu, thoát thân cách nào. Toàn bộ VN đã nhuộm màu cờ đỏ. Thế là đã hết, đã chấm dứt thể chế Quốc gia. Nơi đây không một tin tức từ bên ngoài. Chỉ nghe vang vang tiếng loa phóng thanhtừ Ủy Ban xã và tiếng nhạc lềnh lềnh âm hưởng lạ kỳ. Bầu trời thì cao rộng mà con người nhỏ bé lạc loài vô vọng.

39năm đã qua. Ngày 30 tháng tư năm đó anh ở đâu?. Chị ở nơi nào? Tôi trả lời cho câu hỏi mà mọi người hỏi thăm nhau mỗi dịp tháng tư đen. Ngày đó tôi ngồi bên bờ sông Ô Lâu khóc cho vận nước, khóc cho chồng, cho mình, cho con. 30 tháng tư năm nay (2014) tôi đang ở California nước Mỹ. Haiđứa con gái ngày xưa đã là một phụ nữ trung niên. Chồng tôi đi tù hơn 8năm đã được thả về với thân thể và tâm hồn rách nát. Bây giờ anh đang là một người lính đã hoàn toàn mất hết súng đạn với nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Còn tôi, một người vợ lính ngày xưa chờchồng tù tội trở về. Tôicũng đã hoàn thành nhiệm vụ đối với gia tộc là sinh cho anh thêm hai thằng nhóc con. Bây giờ hai thằng nhóc đó đều là hai người lính trong quân đội Hoa kỳ. Một thằng Không Quân, một thằng dưới biển. Vâng.Tôi đã kể câu chuyện của tôi trong ngày 30 tháng 4 năm 1975. Còn anh, còn chị, còn các bạn. Ngày 30 tháng 4 năm đó đã làm gì? Ở đâu?

Nguyễn thị Thêm
30/4/2014.


04 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 54713)
Nhân dịp nghi lễ Tạ Ơn, BCH Hội AHNgô Quyền và BCH Hội AHBiên Hòa, California đã nhận lời mời của anh Nguyễn Quý Đoàn khoá 6 Ngô Quyền tham dự tiệc thân mật với gia đình ngày chủ nhựt 28 tháng 11 năm 2010.
03 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 105633)
Như hôm nay mưa thì lại nhớ đến những cơn bão rớt ở quê mình, mái nhà xưa và bến sông ngập đầy nắng gió.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 125807)
Luân thường gìn giữ cho nhau Xem như mình lại lỡ tàu nửa đêm Vẫn là anh... vẫn là em... Hãy đem dĩ vãng êm đềm chôn sâu.
02 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 125621)
Sao phương nào tụ lại Theo gió ngàn lung lay Ngọn đông phong tê tái Chiếc lá cuối cùng bay.
01 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 125086)
Tuyết trắng bay bay lạnh buốt đời Nhớ người năm cũ lệ buồn rơi Tình thư còn đó người đâu nửa Người biết hay chăng đã một thời...
01 Tháng Mười Hai 2010(Xem: 112118)
"Cô Ba ơi, con không nghĩ có một ngày con được về và đứng ở đây. Con vẫn còn nhớ mấy trái thị cô đã tặng cho con. Con xin cầu nguyện cho linh hồn của cô được yên vui ở cõi vĩnh hằng"
30 Tháng Mười Một 2010(Xem: 62792)
Cô Trần Thị Hương, nguyên giáo sư dạy môn Quốc văn ở Trung học Ngô Quyền từ năm 1966 đến năm 1973, đã đột ngột qua đời ngày 26 tháng 11 năm 2010 ở Santa Clara, California,
29 Tháng Mười Một 2010(Xem: 43449)
Cầu mong Cô ra đi an bình, thanh thản. Mỗi lần ra biển em sẽ nhớ đến Cô. Chắc là biển sẽ mang Cô về lại với quê nhà...
28 Tháng Mười Một 2010(Xem: 121478)
Lễ Tạ Ơn, chính mùa đoàn tụ Con cháu khắp nơi dắt díu về Quây quần ấm cúng bên cha mẹ Kể chuyện tâm tình cho thỏa thuê…
28 Tháng Mười Một 2010(Xem: 47630)
Mỗi khi chán đời, chờ hoài không thấy cơn buồn tan biến, nhìn mặt mình trong gương ủ rũ, thảm thương hơn chiếc lá nằm lay lắt bên bờ cỏ, chờ gió chiều thổi xuống dòng đường lắm xe, tôi thường ghé nghĩa địa tìm người chết.
27 Tháng Mười Một 2010(Xem: 124477)
“Ngày xanh tóc hãy còn xanh Bóng chim qua cửa tóc đành điểm sương Ngày xanh tươi trẻ đến trường Giờ đây sao biết người thương nơi nào?!”
18 Tháng Mười Một 2010(Xem: 124879)
Đi phương nào thì đường xưa vẫn nhớ Dốc Ngô Quyền ký ức nhớ đầy tim Không bạc lòng áo trắng hiền muôn thuở Nắng gió Biên Hòa vẫn còn đó thương yêu.
18 Tháng Mười Một 2010(Xem: 122800)
Thầy đứng lại để con bước tới Bóng hoàng hôn tỏa ánh nhân từ Ấm lòng con tình thầy vời vợi Tuổi học trò chẳng chút ưu tư .
12 Tháng Mười Một 2010(Xem: 120085)
Có phải xa mười năm mà anh nhớ Sàigon Hay nhìn một chút nắng lên mà thương về bên ấy?
05 Tháng Mười Một 2010(Xem: 124792)
Bây giờ mây đang bay vào cô tịch Vẫn nhớ nao lòng sông lạnh chiều xa Ở đó có hàng sa kê thật tuyệt Và một người đàn mãi khúc tình ca.
04 Tháng Mười Một 2010(Xem: 64268)
Ly cà phê buổi sáng Nhìn đời trôi theo ngày cùng tháng Bao tiếc nuối cũng đành Còn bên ta ngàn nỗi muộn màng
02 Tháng Mười Một 2010(Xem: 135029)
Mẹ đã thay cha buổi sớm chiều Dạy con cao cả một chữ YÊU Dạy con hiếu đạo tròn ân nghĩa Cơm cha, áo Mẹ buổi kinh chiều
01 Tháng Mười Một 2010(Xem: 48743)
Thầy Cô ơi! Bạn ơi! Giờ ở nơi đâu Có lượm được chút nào công thức Toán? Đời không cộng thêm vui, đời trừ đi hy vọng Hạnh phúc chẳng nhân lên, buồn khổ lại chia đều
01 Tháng Mười Một 2010(Xem: 116961)
Huỳnh văn Huê vào đệ thất Ngô Quyền năm 1963, đệ nhất B1 năm 1970, học cùng với Ng.x.Quang, Ph.t.Thừa, Tr.h.Phúc, Tô.a.Dũng và nhiều bạn khác nữa…
31 Tháng Mười 2010(Xem: 118609)
Vết thương nào rướm máu Vết cắn nào in sâu Cho muôn đời muôn kiếp Ta vẫn là của nhau
30 Tháng Mười 2010(Xem: 116096)
Hoa hướng dương cần nắng Để đong đưa sắc vàng Xòe hết cánh xinh tươi Mặt tròn xoe duyên dáng.
29 Tháng Mười 2010(Xem: 124388)
Thu đến rồi tàn, thu lại sang Ngoài kia sắc lá đỏ, cam, vàng Gió thu vi vút se se lạnh Muôn thuở tình thu, nhớ mênh mang...
27 Tháng Mười 2010(Xem: 281313)
... để thấy mùa Thu năm nay khởi sắc, lãng mạn và nồng ấm hơn bao giờ hết với đất trời vàng ươm màu áo mới và lòng người như vương vấn chút heo may... Xin bấm vào tựa bài muốn đọc:
23 Tháng Mười 2010(Xem: 112341)
Phải chi từ biệt là quên hết Không còn ray rứt phút thương đau Phải chi chia cắt mà tình chết Mình chẳng nhớ nhau đến bạc đầu.
23 Tháng Mười 2010(Xem: 57836)
Sao rơi hay đom đóm? Chớp tắt suốt đường quê Bìm bịp kêu thắc thỏm Đêm bỗng dài lê thê. Đom đóm hay sao rơi? Chập chờn theo cánh gió Hương hoa khế bồi hồi
22 Tháng Mười 2010(Xem: 112453)
Có phải chiều nay mưa hắt hiu Sương mù tỏa kín khắp buổi chiều Gió mơn man tung làn tóc rối Mắt nhạt nhòa giọt lệ buồn thiu