Danh mục
Số lượt truy cập
1,000,000

Nghiêm Thái Bình - CÁI CÂY MÍT

30 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 52636)
Nghiêm Thái Bình - CÁI CÂY MÍT

CÁI CÂY MÍT.


mit_thai-large

 

 Khi tôi trở thành cháu rể, bà ngoại của vợ tôi đã xấp xỉ thất tuần. Dáng người bà mảnh khảnh, nhưng rất dẻo dai. Bà luôn động tay động chân suốt ngày, thích lê đôi guốc mộc rảo loanh quanh trong mảnh vườn rộng khoảng hai sào, loáng thoáng vài loại cây ăn trái do chính tay bà trồng, bà loay hoay cố tìm những công việc nhè nhẹ vừa sức, rồi tẩn mẩn, tỉ mỉ như là thú tiêu khiển tuổi già. Vườn nhiều nhất là chuối, có lẽ chủ yếu chắn gió là chính, hoa lợi tính sau. Vì khu đất tọa lạc tách biệt trên một gò cao, như một ốc đảo, xa xa mới có xóm nhà độ mươi căn, ba mặt giáp ruộng lúa, chỉ phía trước dính liền với quốc lộ, bên kia đường cũng là ruộng, cho nên gió thổi lồng lộng tứ bề.

 Thỉnh thoảng vợ chồng tôi về quê dăm ba bữa, tôi thường theo cậu em vợ ra vườn chơi với bà, lúc thì phụ chặt những tàu lá chuối khô đem về để dành chụm lửa, khi thì đứng đỡ thay bà những buồng cau do cậu em vợ đang từ từ thả dây xuống, rồi thì dọn cây ngã, chất đống những cành củi khô vương vãi, cột thành từng bó đem vào chái bếp. Cậu Út mới tám tuổi mà giỏi lắm, chỉ cần cái nài bện vòng tròn bằng những sống tàu lá chuối khô tròng vào hai cổ chân, thoắt một cái là cậu ta đã trèo lên đến ngọn cau, chuối chỉ cần nhìn thân mới nhú, cậu đã biết loại chuối gì! Nghe kể cậu Út mới lẫm chẫm biết đi đã không còn thấy mặt cha, sau 75, ba vợ tôi cũng được nhắn nhủ chuẩn bị mùng mền, quần áo, lương thực dùng trong 15 ngày, nhưng rồi ông ra đi mãi mãi chẳng bao giờ trở lại, thân xác đã bón cây bón cỏ ở vùng núi rừng phía Bắc. Bà ngoại thương cậu Út lắm, thỉnh thoảng tôi vẫn thấy bà vuốt vuốt những chiếc lá li ti vương trên tóc cậu, đôi mắt bà hoe đỏ, đượm buồn. Tôi đoán trong lòng bà đang dâng trào tình thương, tội nghiệp cho đứa cháu sớm mồ côi cha. Bà vừa làm vừa hay kể cho tôi nghe những chuyện ngày xửa ngày xưa, kể từ lúc bà theo chồng sống trên mảnh đất này. Bà kể rất mạch lạc và gãy gọn, bà nói về giai đoạn chiến tranh xảy ra như cơm bữa ngay trên đoạn quốc lộ cách nhà non cây số, súng bắn, mìn nổ, bom bay, đạn lạc, chuyện mấy năm bà phải ly hương, nhớ vườn nhớ cây, nhớ cả tiếng gà liu chiu dành ăn mỗi sáng. Rồi chuyện gia đình vợ, như rắn mất đầu, mấy năm vừa hồi hương, bị dè bĩu, đố kỵ, hắt hủi, mưu sinh cực kỳ vất vả. Tôi vẫn từng trực tiếp chứng kiến những tang thương, những mất mát, ly tan của cuộc chiến vừa qua, nhưng khi nghe bà kể lại vẫn thấy lòng mình ngậm ngùi nao nao một nỗi buồn khó tả. Bà chỉ tay phía cây mít gần ao rau muống sau nhà, cây mít độc nhất trong vườn. Bà nói cây mít đó không có ai trồng cả, ngày làm tang lễ cho ông ngoại xong, bà mới thấy cây mít này mọc lên. Bà lấy đó là cái mốc đánh dấu thời gian ông ngoại mất với niềm tin mãnh liệt là ông để lại kỷ niệm cho con cháu trước khi về thế giới bên kia. Sợ gà bươi, bà rào chắn cẩn thận, từ đó sáng dậy là bà ra cây mít thắp nhang, lâm râm cầu nguyện ông phù hộ an bình cho con cháu. Bà nói như có điều linh thiêng, cây mít lớn nhanh và sai trái vô cùng. Vợ tôi nói bà góa chồng lúc ngoài bốn mươi, ước chừng cây mít cũng đã hơn hai chuc năm. Bà kể có lần cậu Út còn bé, lần mò ra vườn một mình bị ngã xuống ao, khi bà phát hiện, chỉ thấy hai tay cậu Út giơ cao nhấp nhô dưới nước, bà quýnh quáng chỉ biết buột miệng gọi "ông ơi! ông ơi!", thời may! cậu ta bám được cành cây mít bị gió lốc hồi tối thổi gãy sà xuống mặt ao, bà càng tin rằng có bàn tay ông ngoại cứu cháu. Những năm tránh loạn lạc về phố, vườn tược gửi lại họ hàng, không thể trực tiếp thắp nhang dưới gốc mít mỗi ngày bà thấp thỏm không yên, như thể có lỗi với ông ngoại vậy đó.

 Bà ngoại vợ tôi mất đi lúc đứa cháu cố đầu của bà là con gái tôi được ba tuổi, một cái dằm cây văng vào làm mắt bà bị nhiễm trùng, đề kháng tuổi già không chống chọi được, sức khỏe bà yếu dần. Biết mình không qua khỏi, nghe đồn khu mồ mả ông ngoại vợ tôi phải giải tỏa, bà trăn trối mẹ vợ tôi đưa bà về dưới quê ngoại của bà, tuốt miệt mấp mé cửa biển. Bà dặn cả nhà, có thăm bà chỉ việc ra gốc mít thắp nhang, bà sẽ cùng ông ngoại về với con cháu. Lúc bà mất, cậu Út ôm bà khóc như mưa, nghe cậu nhắn nhủ: "bà ngoại, ông ngoại, ba con ơi! nhớ về thăm cây mít nha!" cả nhà không ai cầm được nước mắt. 

 Rồi những năm kế tiếp, cứ đến mùa Vu Lan, chúng tôi cùng hẹn nhau môt ngày thuận tiện nào đó trong tháng 7 âm lịch, cả nhà tôi cũng kéo cả về quê. Hôm đó, mẹ vợ tôi chuẩn bị trước một mâm cơm chay cúng ở gốc mít, chúng tôi thắp nhang rồi quây quần ăn uống dưới những tàn cây, lần nào cũng vậy ai cũng thi nhau nhắc kỷ niệm bà ngoại, mẹ vợ tôi kể sơ sơ chuyện ông ngoại vì chỉ có mình bà biết mặt, có điều không nói ra tôi cũng hiểu, gia đình vợ cũng thương nhớ lắm mà không ai muốn nhắc đến ba vợ tôi. Ông chết trong cô đơn, hờn tủi, không mồ mả, không hương khói, lạnh lẽo quá, nhắc lại chỉ thêm đau lòng.

 Mẹ vợ tôi sau đó được đi định cư tại Mỹ theo diện chồng chết trong trại tù cải tạo, những người con còn độc thân được hội đủ tiêu chuẩn đi theo. Vườn tược nhà cửa dưới quê giao lại cho vợ chồng tôi trông coi. Cậu Út trở về VN lần đầu vào ngay mùa Vu Lan. Gia đình tôi đã có thêm rể và cháu ngoại đi cùng cậu Út về thăm mảnh vườn năm xưa, khu vườn này vợ tôi đang cho thuê một phần đất. Cây cối chặt bớt đi nhiều để người ta mở quán nước, riêng cây mít vẫn được vợ tôi dặn dò người thuê đất giữ gìn chăm sóc cẩn thận, nó sừng sững chỗ cũ, một nhánh to bên trái có dấu hiệu khô cằn. Vợ tôi đã sắp sẵn mâm cơm chay bày ra cúng như mọi năm. Cậu Út đứng thắp nhang khấn vái, xa xa tôi thấp thoáng thấy dáng cậu uy nghi đỉnh đạc như hình ba vợ tôi trong bộ đồ đại lễ mà mẹ vợ tôi còn lưu giữ. Chúng tôi lại ngồi dưới bóng mát cây mít dùng bữa chay với tổ tiên, tàn cây mít nay tỏa lớn ôm trùm lấy chúng tôi. Không như lúc mẹ và mấy dì em vợ còn ở đây, lần này vợ tôi nói chuyện với cậu Út rất nhiều về ông ba vợ. Cậu Út muốn tìm hiểu thêm thông tin, để sắp xếp lần sau về đi tìm hài cốt ba mình. Tôi thấy mắt vợ tôi và cậu Út đỏ hoe, tôi quay đi chỗ khác, đứa cháu ngoại tôi vẫn hồn nhiên tung tăng chạy nhảy bên bố mẹ. Gương mặt trẻ thơ sáng rực dưới bóng râm của cây mít. Tôi rùng mình chợt nghĩ, mình còn may mắn và diễm phúc. Ngoài kia nắng lên gần đến đỉnh đầu. Vợ tôi í ới gọi con, gọi cháu lên xe ra về, cậu Út đi giật lùi vẫy vẫy tay chào cây mít. Mắt cậu vẫn liên tục chớp chớp, vợ tôi lại gần đưa chiếc khăn tay cho cậu Út. Tôi lại quay mặt đi chỗ khác một lần nữa.

 Mùa Vu Lan 2013

Nghiêm Thái Bình

 

 

 

23 Tháng Ba 2009(Xem: 72724)
Vẫy tay chào hang yên chi hoa đỏ Chào khuôn sân đá cuội trắng rì rào Chào hàng sao chim tụ về làm tổ Chào tượng Ngô Quyền nắng ngủ trên cao
23 Tháng Ba 2009(Xem: 72900)
Về lại Biên Hòa thăm con đường xưa Dốc học trò vẫn mang tên Kỷ Niệm
23 Tháng Ba 2009(Xem: 72329)
Vẫn là mưa nghiêng nghiêng giăng trắng Trên hàng cây bãi cỏ sân trường Sao không giống ngày xưa sâu lắng Chiều tan trường bè bạn thân thương
23 Tháng Ba 2009(Xem: 69932)
Biên Hòa em vẫn thương hoài Ngô Quyền ngày trước, áo dài màu xanh.
23 Tháng Ba 2009(Xem: 72244)
Nếu một mai tôi chết, Xin đừng khóc cho tôi. Đường đời chia đôi ngả, Hãy chôn tình phai phôi.
23 Tháng Ba 2009(Xem: 72271)
Saigon ơi, xa rồi ta vẫn nhớ Những chiều xưa hai đứa lén hẹn hò!
23 Tháng Ba 2009(Xem: 72088)
Lưu bút ngày xưa kỷ niệm đầy, Tình thân bạn cũ hãy còn đây! Ngây ngô ghi vội đôi dòng chữ Đầy ấp yêu thương mỗi phút giây.
02 Tháng Ba 2009(Xem: 71813)
ôi, mùa hè tuổi nhỏ hóa thân giữa màu hoa ôi, mùa hè êm ả phục sinh từ đôi ta!
24 Tháng Hai 2009(Xem: 32787)
  Trong tuyển tập “Giữa Hai Miền Mưa Nắng” của nhà văn Hoàng Mai Ðạt, tác giả đã kể lại một chuyến về Việt Nam vào năm 1998, đặc biệt là ở vùng đất Biên Hòa, quê vợ của anh. Sau đây là trích đoạn tác giả về thăm một nơi chốn đã khiến anh bồi hồi với bao cảm xúc, đó là trường Ngô Quyền của vợ anh cũng như của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên, người viết những bài thơ tình bất hủ mà anh yêu thích từ lâu.
24 Tháng Hai 2009(Xem: 80331)
  ( Kính tặng Thầy Toán Nguyễn Văn Phố)
24 Tháng Hai 2009(Xem: 72840)
  Nay đất khách quê ngưòi: Thân biệt xứ. Áo công khanh rách nát giữ trong tim. Chút hương xưa là chút lửa êm đềm, Dùng sưởi ấm niềm riêng, chờ Hội lớn.
24 Tháng Hai 2009(Xem: 35412)
  Rời Sài Gòn tháng Tư năm 75. Đến Mỹ, Thượng Châu hợp tác với nhà văn Võ Phiến, Lê Tất Điều, ký giả Nguyễn Hoàng Đoan xuất bản tờ báo Việt ngữ đầu tiên tại Hoa Kỳ tên Hồn Việt, do nữ ca sĩ Khánh Ly làm chủ nhiệm. Sau đó, hội nhập đời sống Mỹ, đi làm việc ở SanDiego đã được 28 năm và sắp về hưu. Lâu lắm, không viết lách gì, nhưng bây giờ với tiếng gọi trường cũ Ngô Quyền, Thượng Châu rất sẵn sàng và vui vẻ đóng góp
20 Tháng Hai 2009(Xem: 81543)
Ba mươi năm chờ đợi Hoa tàn, trăng tận, sông quằn mình trăn trở Ba mươi năm nhớ mong Lá héo, sao mờ, biển cồn cào dậy sóng
20 Tháng Hai 2009(Xem: 76739)
  Đứng trước biển mùa Đông thêm cô quạnh Cánh hải âu đơn lẻ chập chờn bay Hải đăng xa nhạt nhòa trong sương lạnh Đá chập chùng, mong mỏi đợi chờ ai  
20 Tháng Hai 2009(Xem: 76687)
  Nhớ sao cứ nhớ quắt quay Ngô Quyền bạn cũ giờ đây ai còn?                  
20 Tháng Hai 2009(Xem: 76207)
Một chút mây trời, để nhớ thương, Bay qua thật nhẹ, trước cổng trường.  
16 Tháng Hai 2009(Xem: 76485)
Tặng Mai Trọng Ngãi, Đinh Hoàng Vân, Tiêu Hồng Phước, Tô Anh Tuấn và Phan Kim Phẩm.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 24383)
Sự cư xử giản dị nhưng đầy tình chân thật của em là một món quà vô giá mà không dễ gì tôi nhận được một lần thứ nhì trong đời.
09 Tháng Hai 2009(Xem: 37995)
... và như thế, Ngô Quyền hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là tổ ấm của chúng ta miên viễn, đời đời...
05 Tháng Hai 2009(Xem: 90863)
Năm mươi ngọn nến hồng đang rực sáng, hân hoan mừng phút giây hạnh ngộ, trùng phùng. Hãy cùng nhau sớt chia, gìn giữ vì ngọt bùi nào rồi cũng sẽ chóng qua…
05 Tháng Hai 2009(Xem: 39329)
  Trường Trung Học Ngô Quyền được điều hành bởi một Ban Giám Đốc, đứng đầu là Hiệu Trưởng
04 Tháng Hai 2009(Xem: 87925)
  Con xin phép được viết đôi dòng kỷ niệm trong lứa tuổi học trò của con vớI những câu nói của Thầy mà gần 50 năm qua vẫn còn in đậm trong trí con.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 35453)
  Chúng tôi trưởng thành trong một nền giáo dục “NHÂN BẢN và KHAI PHÓNG”, mà tinh thần “Tôn sư trọng đạo” thể hiện trong câu “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”, với Thầy, một lòng tôn kính, với bạn, một dạ chân tình, xin mượn nơi nầy thắp nén tâm hương tri ân quí Thầy đã quá vãng, tưởng nhớ quí Bạn đã qua đời.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 75297)
  Này em còn nhớ hay quên ? Lời Thầy Cô dạy chớ nên lơ là. Vì đâu mà có thân ta, Công Cha, Nghĩa Mẹ bài ca dao này;  
04 Tháng Hai 2009(Xem: 39749)
Dĩ nhiên, đám học trò chúng tôi thích lắm, vì ý tưởng lạ đó không tìm thấy được trong Việt Nam Sử Lược của sử gia Trần Trọng Kim hay trong Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 40932)
  Trường Trung học Ngô Quyền là một trường sinh sau đẻ muộn, so với các trường Pétrus Ký, Gia Long ở Sàigòn, và các trường Nguyễn Đình Chiểu (được gọi là Le Myre de Vilers thời thuộc Pháp) ở Mỹ Tho, và Phan Thanh Giản ở Cần Thơ.
04 Tháng Hai 2009(Xem: 83556)
Nhìn em dáng nhỏ hao gầy Cho tôi nghe tiếng thở dài buồn tênh
04 Tháng Hai 2009(Xem: 47194)
Một cuộc biển dâu, đổi đời, tang thương đã diễn ra quá nỗi bi đát. Biên Hòa còn đó, mà lòng Biên Hòa đã mất tự bao giờ. Nay tuổi đời đã cao, nghĩ đến thời son trẻ, mà ngậm ngùi tiếc nuối quá khứ. Công đã tạm thành, danh đã tạm toại, nhưng tâm hồn tôi vẫn ngậm ngùi nhớ tiếc những phút giây hạnh phúc đầu tiên, đã qua mất rồi.