Có những cá tính, những sở thích hôm nay bắt nguồn từ thời còn ngồi ở ghế Trung học được các Thầy Cô truyền dạy nhiều kiến thức. Như lớp Tứ 1 (9/1) nk 69-70 của chị Võ Thị Ngọc Dung chẳng hạn cả lớp mê thơ và đã tập tành làm thơ từ một giờ Quốc Văn sôi nổi, lý thú của Thầy Nguyễn Văn Phú.
Thấy học trò ngoan, chăm học Thầy còn hát cho cả lớp nghe bài ”Ông lái đò" khiến học trò năm cuối đệ nhất cấp mơ hồ cảm nhận được rằng "không ai được tắm hai lần trong cùng một gìòng sông".
Thầy đã dạy cho lớp lớn bằng tất cả nhiệt tình của một ông Thầy với bảng đen, phấn trắng trên bục giảng Ngô Quyền. Đến lúc tóc đổi màu, giữa quê người, Thầy vẫn bảo ban văn học quê mình cho thế hệ lớp nhỏ qua điện thoại. Dù bằng phương thức nào đi nữa, cũng xin ghi ơn Thầy đã truyền dạy cho chúng ta những kiến thức văn học và kinh nghiệm đời quý báu của một nhà giáo, một người thuộc thế hệ các bậc sinh thành.
Thầy Nguyễn Văn Phú
Năm 2002, gặp lại thầy Nguyễn Văn Phútrong buổi họp mặt CHS Ngô Quyền lần đầu tiên tại nhà hàng Regent West, hình ảnh Thầy với mái tóc bạc trắng và dáng dấp gầy gầy đã khiến tôi xúc động và gợi nhớ ngay đến bài hát “Ông lái đò” mà Thầy đã hát trong dịp Tất niên của lớp Tứ 1 chúng tôi năm nào. Nhân cơ hội, tôi đã mời Thầy lên hát lại bài này cho mọi người cùng nghe. Thầy có vẻ ngạc nhiên và rất xúc động bảo rằng: “Vì tuổi tác và quá mỏi mệt sau những năm cải tạo nên đã quên lời hát, xin đọc 4 câu thơ để cho tròn tình nghĩa”. Bốn câu như sau:
“Đò chìm, ông lái bơ vơ,
Bỏ thuyền, xa bến, ngẩn ngơ nỗi sầu,
Triều dâng sóng vỗ bạc đầu,
Khói sương hư ảo nhuốm màu tang thương”*
Từ đó, những lần sinh hoạt của Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Ngô Quyền sau này luôn có mặt Thầy với những lời hướng dẫn thân tình, thắm thiết.
Thầy Phú là giáo sư dạy môn Quốc Văn lớp Tứ 1 chúng tôi, niên khóa 69-70. Niên khóa 69-70 là niên khóa đáng ghi nhớ nhất của đám học trò đệ Tứ vì đó là năm cuối cùng của bậc trung học “đệ nhất cấp”, để sang năm tới tùy theo việc chọn ban A, B, C sẽ chia tay nhau lên “đệ nhị cấp”. Nhưng một lẽ đặc biệt hơn nữa, đó cũng là năm cuối cùng để rồi năm sau hệ thống giáo dục của toàn quốc đổi thành hệ 12 cấp lớp gồm trường tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5 (thay vì lớp năm, tư, ba, nhì, nhất), trường trung học từ lớp 6 đến lớp 12 (thay vì đệ thất, lục, ngủ, tứ, tam, nhị, nhất) và bỏ hẳn tên gọi “đệ nhất cấp” và “đệ nhị cấp” ở bậc trung học. Vì vậy, Thầy trò chúng tôi đã tổ chức vài cuộc đi du ngoạn trong cái năm “bản lề” này thật vui vẻ và đầy thú vị!
Thầy Nguyễn Văn Phú và lớp Tứ 1 (1970)
Thầy Trần Văn Phúc, Thầy Nguyễn Viết Long, Thầy Nguyễn Văn Phú và lớp Tứ 1 (1970)
Mỗi lần gặp lại Thầy là tôi nhớ đến những giờ học cũ khi cả lớp say sưa nghe thầy giảng Truyện Kiều của Nguyễn Du, một tác phẩm mà Thầy rất tâm đắc và thường gọi bằng cái tên “Đoạn Trường Tân Thanh”, nhớ đến 2 khuôn mặt đặc biệt mà Thầy đã đặt tên cho sau khi giảng trích đoạn tả tài sắc hai chị em Kiều. Chị Trương thị Thúy (Thúy Kiều), và Nguyễn thị Hiệp (Thúy Vân). Chị Thúy (gọi là chị vì tuy học cùng lớp nhưng chị cao lớn và hơn chúng tôi một, hai tuổi gì đó) hiện đang ở Việt Nam mà lần về thăm vào năm 2002, lúc họp mặt bạn bè cũ, tôi có gặp. Chị vẫn mặn mà, sắc sảo như Thúy Kiều trong câu “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh” và Hiệp, hiện đang ở San Jose, chúng tôi cũng đã có dịp hàn huyên, tíu tít trong lần họp mặt NQ năm 2004 ở SanJose, vẫn khả ái, xinh tươi như Thúy Vân với “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”. Thời gian không làm thay đổi nhiều hai gương mặt đẹp “tiêu biểu” của lớp chúng tôi.
Gặp Thầy, lại nhớ đến giờ Văn học sử, khi giảng về dòng văn học lãng mạn, Thầy chuyển sang đề tài “Nghi án TTKH” khởi đầu với bài thơ “Hai sắc hoa Tigôn” khiến cả lớp xôn xao. Với lối kể chuyện sinh động và lôi cuốn, Thầy biến giờ Văn học sử vốn khô khan trở thành một buổi tranh luận về “huyền thoại” tên của tác giả ba bài thơ “Hai sắc hoa Tigôn, Bài thơ đan áo và Bài thơ cuối cùng” mà cho đến Nguyễn Thị Thúy (Thúy Kiều)Nguyễn Thị Hiệp (Thúy Vân)
bây giờ vẫn chưa biết rõ là ai? thật hào hứng, sôi nổi khiến cả lớp say mê theo dõi. Đến lúc chuông reo, câu chuyện vẫn chưa dứt, chúng tôi đành tiu nghỉu đứng lên khi nghe Thầy hẹn đến… tuần sau sẽ tiếp. Sau buổi đó, không biết có bao nhiêu đứa bạn đã mê thơ TTKH như tôi? Nhưng tôi nhớ mình đã chạy ngay ra nhà sách Huỳnh Hiệp “bê” ngay một bộ “Việt nam Thi Nhân Tiền Chiến” gồm 3 quyển “Thượng, Trung và Hạ” về nhà để “nghiền ngẫm” và “tập tểnh”… làm thơ. Kết quả là cũng có được một vài… con cóc nhảy ra sau này. Cám ơn Thầy đã là động lực, khởi nguồn giúp cho con biết yêu thơ từ đó.
Nhắc đến Thầy không thể không nhắc đến một biệt danh khác của Thầy là “Ông lái đò”. Nhân buổi Tất Niên của lớp, mời Thầy lên gíúp vui, Thầy đã hát bài “Ông lái đò” sau khi ví von hình ảnh này với những người Thầy đã tận tụy, dìu dắt, đưa đường cho biết bao học trò sang sông tới bến tương lai và như những người khách vô tình, sang sông dễ có mấy ai còn nhớ đến “Ông lái đò” nơi bến cũ vẫn ngày ngày “đưa mắt mỏi mòn trông”. Lời nhắn nhủ chân thành, cảm động đó khiến tôi nhớ mãi. Nhớ đến ân nghĩa của Thầy Cô mỗi khi nghe lại bài hát “Ông lái đò”.
Trong Tuyển Tập 2006, chắc cũng do cảm hứng từ bài hát và những kỷ niệm khó phai này. Thầy đã gửi đến cho đàn trò cũ một bài thơ đầy xúc cảm:
BẾN CŨ, ĐÒ XƯA
Mơ về bến cũ đò xưa,
Mà nghe như gió như mưa trong lòng.
Sông xưa nước vẫn xuôi dòng,
Chiều say nước lớn, nước ròng càng say.
Ai về xứ bưởi Đồng Nai,
Ngô Quyền bến ấy, biết ngày nào quên.
Đò tôi xuôi ngược, lênh đênh,
Giữa dòng sóng dữ, bập bềnh nổi trôi.
Bể dâu trải mấy, cuộc đời,
Thuyền không, khách vắng, đổi dời, đục trong.
Khách xưa giờ đã sang sông,
Biết ai còn nhớ tới ông lái đò.
ÔNG LÁI ĐÒ GIÀ
Bến Ngô Quyền 65-71
(Thân tặng các em cựu học sinh Ngô Quyền,
đặc biệt các em Ban Văn Nghệ Hiệu Đoàn thời 69-71)
Các bạn của Tứ 1 năm xưa, chắc rằng, không ít trong lòng chúng ta vẫn còn giữ được những kỷ niệm và mang cùng tâm trạng như tôi về hình ảnh của “Ông lái đò” ngày nào: Thầy Nguyễn Văn Phú.
* Bài thơ do Thầy Phú sáng tác trong những ngày đầu mới sang Mỹ. Dưới đây là nội dung toàn bài mà Thầy đã gửi cho và nói rằng : “Vào lúc đó, vì xúc động nên chỉ đọc bốn câu đầu. Nay ghi lại toàn bài để em tùy nghi sử dụng”.
“Đò chìm, ông lái bơ vơ,
Bỏ thuyền, xa bến, ngẩn ngơ nỗi sầu.
Triều dâng, sóng vỗ bạc đầu,
Khói sương hư ảo nhuốm màu tang thương.
Trời Tây làm khách tha hương,
Vẳng nghe đâu đó tiếng chuông gọi hồn.
Hoàng hôn, rồi lại hoàng hôn,
Hỏi người năm cũ, ai buồn hơn ai?”(1)
Chú thích:(1) Người năm cũ, ám chỉ cụ Nguyễn Du. "Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như"?.
Võ Thị Ngọc Dung
Vui buồn giữa Thầy Phú với Ban Biên Tập
Khi thực hiện bài cho MGTT nhân dịp Lễ Tạ Ơn 2009 ở Mỹ, Ban Biên Tập được khen là đã dùng .... "nho chùm" đúng chỗ, Thật ra, kiến thức về Hán văn của BBT mỏng manh hơn cả ... vỏ trái nho. Và người cố vấn cho BBT trong "thành tích " "xổ nho chùm" rất chính xàc là Thầy Nguyễn Văn Phú. Thầy đã chỉ dạy qua đường dây điện thoại đường dài khi chúng tôi "cầu cứu" thầy về nhửng kiến thức văn học Việt Nam hay từ ngữ Hán Việt. Ai dám bảo là ra khỏi trường thì không còn có cơ hội học hỏi từ quý Thầy Cô?
Tôi chí được biết Thầy Phúvài năm gần đây nhưng tôi rất quý Thầy vì hai lý do: Thầy có mái tóc bạc trắng như Ba tôi, một mái tóc bạc từ những năm bốn mươi như Ngũ Tử Tư thức dậy thấy đầu bạc trắng; và Thầy không được sống bên cạnh các con của thầy như Ba Mẹ tôi với chúng tôi.
Được hân hạnh góp một bàn tay nhỏ nhoi trong "nơi chốn tìm về" trên Internet của Hội CHS NQ, tôi vẫn gõ cửa quý Thầy Cô bằng điện thoại để chắc chắn mình không viết sai khiến các đàn anh đàn chị phải nhíu mày khi thấy "hậu sinh khả ... ố"; và để các Thầy Cô (nhất là các Thầy Cô dạy Việt văn) phải buồn vì "nồi cháo phổi đã dốc ra hết" mà học trò vẫn còn ngu ngơ!
Khi xe lửa rời bến, tôi đứng ở cửa sổ để nhìn lại Huế một lần cuối thì khói xe lửa tạt vào mặt tôi và từ đó bụi khói vào mắt tôi làm tôi chảy nước mắt suốt một đoạn đường dài.
vẫn cằm vuông. vẻ cương nghị
nét phong trần, theo thời gian, phủ dầy vai áo
chiếc chemise carreaux thầy thường mặc
như một chọn lựa dấn thân
ngày tuổi trẻ
cho tuổi trẻ
lần cuối cùng tôi gặp lại thầy, đã quá tám năm...
Màu da ngâm ngâm hơi rám nắng, mũi không cao, mắt mí lót, mặt có những nốt tàn nhang li ti. Nụ cười cũng chẳng làm nghiêng nước nghiêng thành nhưng biểu cảm sự thành thực và thân thiện.
Những giọt nước mắt của mùa thu yêu thương và hoài niệm. Rồi mọi thứ sẽ qua, rồi tôi cũng sẽ đi vào hư vô. Mọi vật đều vô thường. Hãy nghĩ như vậy để yên vui.
Dĩ vãng chợt về ta đứng lặng.
Chuyện của ngày xưa, thu của Thu.
Ta đến giữa mùa thu lá vàng.
Ta đi màu sắc vẫn ngập tràn.
Giữ mãi trong tim vàng, tím, đỏ
Như giữ một thời đã sang trang.
Người đi vượt chốn ba đào
Mùa thu ở lại ngắm sao nguyên cầu
Thời gian cõi tạm bao lâu?
Mùa thu ở lại ngậm sầu lá rơi!
Mong người đến chốn đúng nơi
Thành tâm chung sức giúp đời an yên
Nguyện cầu cho sân si con người dịu lại, thấy được sự vô thường của cuộc sống. Nguyện cầu cho lửa mau tàn, cho người dân trở về nhà sinh sống bình an. Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát.
Viết vài dòng này để tạ tội với dì tôi đã một thời mù đôi mắt vì tình lụy và nhất là tạ tội với ông Nghị Nguyễn Bá Kỳ vì tôi đã hiểu lầm ông. Hắt hơi là tình hận chứ không phải muốn hù dọa, khoe danh.
..Mỗi người sống chết an bài?
Tin buồn loan tới Anh Hoài đã đi
Một tuần Vĩnh biệt chia ly
Thanh Hoài, Tường Cát viết chi, nói gì?
Sinh hữu hạn, tử vô kỳ?
Bạn hiền thân ái sầu vì mất Anh.
. Các Tăng Ni dù không được tập trung cầu nguyện như những mùa Vu Lan trước, nhưng năm nay bà Tâm tin tưởng Thầy, Sư Cô và các vị Sư sẽ trì chú tụng kinh nhiều hơn ở mỗi đêm.
Buổi tưởng niệm kết thúc qua phần tri ơn của gia đình “Chúng con vô cùng tri ơn quý Thầy Cô và quý anh chị cựu học sinh Ngô Quyền đã mang đến cho ba chúng con một cuộc đời, một cuộc sống đầy ý nghĩa”.
Chiếc ghế trang trọng dành cho Thầy vẫn luôn nằm trong lòng mỗi người học sinh Ngô Quyền xa xứ. Chúng con xin hứa sẽ làm tốt để xứng đáng với sự dạy dỗ và thương yêu của Thầy.
Ta đã mệt nhoài bao năm tháng
Buông tay rủ sạch, ta rút lui.
Ta nghe văng vẳng những hồi chuông.
Tiếng mõ ngân nga vọng vô thường
Khoan thai ta bước vào vô tận
Một kiếp phù du chẳng vấn vương.
Tai nghe chim hót ngất ngây.
Hồ Thu in bóng rừng cây muôn mầu.
Vui lên xin chớ u sầu!
Hẹn ngày tái ngộ bắt đầu thu sang ?
Viễn du thế giới thênh thang .
Ngày Xưa Thân Ái kiên gan đợi chờ...
Con tạ ơn Thầy Cô đã cho chúng con qua sông yên bình, cho chúng con có căn bản đạo đức và kiến thức làm người hữu dụng.
Ở nơi xa không thể về đốt hương tưởng niệm. Con xin kính gửi đến Thầy cô tất cả lòng kính yêu trân trọng nhất.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.