Võ Quách Thị Tường Vi là một Y sĩ nội khoa và là Giáo Sư Đại Học tại Texas
Nhìn qua khung cửa
sổ của phòng cấp cứu, bên ngoài trời đã bắt đầu xế chiều. Cơn nóng của mùa Hè
vẫn còn gay gắt khi tôi chạm tay vào cửa kiếng. Sắp tới giờ đi thăm bệnh nhân
trong khu nội trú rồi. Từ khi vào bệnh viện hồi sáng sớm đến giờ, tôi chưa có
dịp để đi ra ngoài.
Phòng cấp cứu hôm
nay quá bận với nhiều bệnh nhân bị bệnh rất hiễm nghèo cần chữa trị kịp thời.
Có ba bệnh nhân không thở được nên phải đặt ống thở nội khí quản và đã được
chuyển lên phòng ICU hay Phòng Hồi Sinh để theo dõi điều trị. Năm bệnh nhân
khác đã nhập viện để cho thuốc kháng sinh theo đường nước biển, và cho thuốc
hoá trị khẩn cấp, vì bệnh ung thư đã lan tràn nhiều nơi.
Có những bệnh nhân
đã được trị bệnh bằng hoá chất, sau một thời gian khoảng chừng 7 tới 10 ngày
thì tiểu cầu, hồng huyết cầu, và bạch huyết cầu đã bị xuống thấp, bị sốt
cao, không ăn uống gì được, rất nguy hiểm đến tính mệnh. Còn những bệnh nhân
khác đi vào phòng cấp cứu vì bị tăng độ đau đớn trong người, hay đang chờ kết
quả xác nghiệm của máu, nước tiểu, hình chụp quang tuyến, hay CAT Scan và MRI.
Không khí trong
phòng cấp cứu bây giờ thì cũng không ồn ào lắm. Phần lớn ai cũng ăn nói nhỏ nhẹ
và ít gây tiếng động. Nhưng một khi có bệnh nhân bị tắt thở, tim ngừng đập, các
nhân viên của phòng cấp cứu phải gọi “code blue” để được cấp cứu lập tức.
Khi code blue này được gọi, có những bác sĩ ngoại khoa hay chuyên về gây mê cũng túc trực một bên, để trong những trường hợp khó tìm mạch máu hay cần bỏ ống thở vào nội khí quản thì họ sẽ sẵn sàng mà giúp một tay. Không khí trong phòng cấp cứu sẽ sống động hẳn lên, với tiếng người đối đáp, máy móc lao xao, điện thoại hay máy Fax rung tiếng liên hồi, và những âm thanh lanh lảnh qua hệ thống truyền tin trên trần nhà.
Đôi khi, cũng có những tiếng nấc
nghẹn ngào của những gia đình thân nhân vì đang lo lắng không biết người thân
yêu của mình có qua khỏi lúc ngặt nghèo nầy hay không. Ban đầu, mới nhìn vào
thì thấy rất hổn loạn, nhưng thật ra thi nó cũng có cái thứ tự riêng của nó.
Mọi người ai cũng có một vài nhiệm vụ để làm, như một bộ máy liên kết cùng ăn
khớp với nhau.
Tôi về làm cho
bệnh viện này từ hồi mới ra trường. Tưởng chừng sẽ làm tạm ở đây vài năm rồi
chuyển qua ngành tim mạch mà tôi rất có cảm tình từ khi còn đi học. Nhưng dần
dà tôi lại thích tiếp xúc với những bệnh nhân bị những chứng bệnh nan giải nầy.
Tôi thông cảm và thấy thật gần gũi với họ. Và “vài năm” của tôi lại trở thành
“vài mấy chục năm” nay rồi.
Bệnh viện nầy chuyên chữa trị bệnh ung thư và là một bệnh viện lớn nhất trên nước Mỹ với những chương trình nghiên cứu và điều trị ung thư rất tân kỳ. Bệnh nhân của nhà thương nầy đến từ khắp nơi trên thế giới. Từ những người nói tiếng Tây Ban Nha đến tiếng Thố Nhỉ Kỳ, tiếng Trung Đông, Châu Phi, Phi Luật Tân, hay tiếng Tàu… Như vậy tôi cũng được học hỏi thêm nhiều và thích nhất là những người đồng nghiệp của tôi cũng rất dễ thương và thân thiện.
Mấy năm đầu, vì là một trong những
người Việt Nam đầu tiên làm việc ở nhà thương nầy, nên mỗi khi có bệnh nhân
người Việt đến, tôi thường hay được gọi để thông dịch giùm. Nhiều khi quá bận,
không đến được lúc ấy thì tôi lại tìm dịp ghé thăm sau, để hổ trợ tinh thần cho
những người bệnh nhân nầy và gia đình của họ. Và từ đó tôi đã trở thành “Cô V Y
Sĩ” mà những bệnh nhân thường hay gọi một cách rất thân tình. Tôi đã trở thành
một phần tử trong gia đình của họ một cách “bất đắc dĩ”, từ những bữa tiệc mừng
sinh nhật thôi nôi, đến cả những ma chay cưới hỏi, họ đều muốn tôi tham dự.
Sau nầy, khi số bệnh nhân người Việt tăng nhiều, ban điều hành của bệnh viện có mướn thêm thông dịch viên nên tôi cũng đỡ... khổ. Và cũng như đã hiễu ngầm với nhau, mỗi khi có bệnh nhân người Việt vào phòng cứu cấp, các vị y sĩ khác đều “nhường” cho tôi. Họ thường nói là tôi sẽ hiểu ý bệnh nhân hơn và như vậy việc chữa trị cho bệnh nhân cũng sẽ được hiệu quả hơn. Tôi thì chỉ cười và nói sao cũng được, nhưng trong lòng rất vui vì có dịp đế tiếp xúc và hàn huyên với đồng hương người Việt của mình. Tôi luôn thầm nhủ rằng mọi việc trên đời đều có số mệnh cả. Nếu mình có thể chia sẻ những buồn vui, tạo niềm tin yêu và giữ nguồn hy vọng cho những người bạn đồng hương kém may mắn này thì việc gì rồi cũng có thể qua đi.
ooOoo
Có bàn tay ai đang đặt nhẹ trên vai tôi. Tiếng của Ted nói:
- Tới giờ đi khu nội trú rồi. Mình đi thôi.
Ted là một bác sĩ chuyên về nội thương và làm chung nhóm của tôi. Anh trẻ hơn tôi khoảng 5 tuổi, rất tận tâm với bệnh nhân. Anh hay tâm sự với tôi về việc gia đình cùng hai đứa con và người vợ Ý Đại Lợi của anh. Chúng tôi rất thân thiết trong tình đồng nghiệp làm chung với nhau.
Cầm cái ống nghe bỏ vào túi áo lab, tôi đứng lên đi với Ted. Bỗng cô Jenny, điều dưỡng trưởng của phòng cấp cứu, lật đật chạy vào:
- Dr. V, có một người bệnh nhân đang đến bằng xe cứu thương trong vòng vài phút. Rất nguy kịch không thở đươc. Ông ấy chỉ nói tiếng Việt thôi, nhờ Dr. V ở lại một tí để giúp chúng em nhé. Cô Jenny năn nỉ.
Bác sĩ Ted nói:
- Thôi V cứ ở lại một chút đi, tôi đi trước cũng được. Khi nào xong thì gặp nhau ở khu Tim Phổi lầu 7 đó nha.
- Ok, cảm ơn Dr. Ted nhiều nhe.
Quay qua cô Jenny tôi hỏi:
- Bệnh nhân này là ai vậy Jenny?
- Dạ đây là ông Thanh, 60 tuổi, bệnh nhân mới của bệnh viện, tuần trước có vào phòng khám để gặp bác sĩ Morris vì bệnh ho kinh niên. Họ đang tình nghi bệnh nhân bị bệnh lao phổi đó. Như vậy thì mình phải đeo mask (khăn vuông nhỏ có giây thung choàng đầu đeo vào để bảo vệ mủi miệng ngăn ngừa khỏi bị lây bệnh).
- Ok, thôi mình qua phòng code
blue đi.
Phòng code blue là
phòng dành cho những bệnh nhân bị nguy hiểm đến tính mệnh, sắp chết hay hấp
hối. Phòng này có đầy đủ dụng cụ cứu cấp, Oxigen, máy đo hay shock tim, phòng
mổ tiểu khoa, thuốc mạnh cấp cứu. Khi bệnh nhân không may phải vào phòng này
thì sống chết như chỉ mành treo chuông, hy vọng chỉ đặt vào trong tay của những
bác sĩ cùng điều dưỡng chuyên nghề.
Có tiếng còi xe cứu thương hụ lên từ
ngoài đường lớn và ngừng lại ở trước cửa vào của phòng cấp cứu. Hai người trong
xe cứu thương nhảy ra, hai người hai bên, đẩy một băng-ca đi ở chính giữa. Trên
băng-ca này có một bệnh nhân người Á Châu, thở rất khó khăn và đang được tiếp
hơi Oxigen chuyền qua ống dây nhỏ gắng vào trong lỗ mũi. Bệnh nhân độ chừng
khoảng 57 tới 60 tuổi, mái tóc đã điểm muối tiêu trên một vầng trán rộng với
đôi chân mày đen rậm đẫm giọt mồ hôi. Khi chuyển từ băng-ca qua giường, anh cố
giương mắt lên nhìn nhưng sau vài giây là nhắm mắt lại. Hai bàn tay để trên
bụng và đang nắm chặt một túi xách của hãng hàng không Pan Am đã ngã màu, các
góc cạnh thì sờn và bị nứt nẻ rất nhiều.
Các y tá điều dưỡng và nhân viên
phòng cấp cứu đổ ập lại. Người thì lấy áp xuất máu, người thì lấy máu, người
hỏi hồ sơ lý lịch của bệnh nhân qua người bạn cùng đi theo đến bệnh viện. Không
khí phòng cấp cứu sống động hẳn lên. Nhân viên nào cũng đeo mask màu vàng và
mang găng tay khi tiếp xúc với bệnh nhân. Khi một cô y tá giở tay anh để lấy
cái túi xách Pan Am đi thì anh bấu chặt lại, không cho gở ra. Người y tá phải
dỗ dành hứa là sẽ trả lại cho anh, một lát sau anh mới chịu nhẹ lơi tay ra.
Có tiếng của Jenny báo cáo:
- Dr. V, áp xuất của ông Thanh là 76/48, mạch máu là 120 nhịp một phút, hơi thở là 28 trong một phút, độ Ốc-xi trong máu là 86 với lượng Ốc-xi non rebreather mask.
- Em cho 1 lít dung dịch nước biển vào mạch máu mau đi. Mở cho nước biển chảy thật nhanh nhé. Gọi ban gây mê và chuẩn bị cho đặt ống vào nội khí quản. Tôi nói.
Jenny báo cáo tiếp:
- Dr. V, kết quả thử nghiệm về rồi
với hồng huyết cầu là 2000, tiểu cầu 45000, bạch huyết cầu 15000. Mấy thử
nghiệm khác cũng bình thường.
Bệnh nhân nầy thiếu máu? Tại sao? Tôi đặt câu hỏi trong đầu mình. Khi tôi khám bệnh nhân dù tim đập rất nhanh nhưng nhịp độ thì bình thường, phổi thì khò khè và khó thở, người không bị phù thủng. Bệnh nhân chỉ hé mắt nhìn tôi rồi khép lại. Tôi nói với Jenny.
- Em cho bắt đầu kháng sinh
bằng đường vein đi nhé.
Lúc nầy thì một bác sĩ gây mê đã đến đặt ống thở vào khí quản của bệnh nhân. Bỗng Jenney hớt hải chạy đến báo cáo với tôi:
- Dr.V, áp xuất của ông Thanh giờ bị tuột xuống còn 60/30 thôi và mạch rất yếu
Tôi ra lệnh:
- Bắt đầu Dopamine drip đi em và bolus 1 lít dung dịch nước biển đi. Khi áp xuất huyết ổn định một chút, em cho bệnh nhân đi chụp CT scan của phần ngực nhe.
Dopamine là một loại thuốc có thể
làm mạch máu co lại và áp xuất tăng lên.
Khoảng chừng 30 phút sau thì Jenny
cho biết là áp xuất của ông Thanh đã ổn định và hơi thở cũng bình thường với
máy trợ hơi thở-respirator và đang được chuyển lên phòng cấp cứu đặc biệt
(ICU). Phong, người bạn của Thanh, vẫn đứng lẫn quẫn trong phòng cấp cứu. Tôi
đến nói chuyện với Phong một chút.
Phong kể rằng ngày xưa Thanh học bên Đại Học Khoa Học đến năm thứ Hai thì bị động viên đi khóa sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Sau 75 thì ở lại Việt Nam. Thanh qua định cư ở Mỹ hơn 15 năm nay rồi, đã ly dị và có một đứa con gái, nhưng ngưng liên lạc với gia đình gần 10 năm nay. Anh hút thuốc lá rất nhiều và thường có những cơn ho liên tục từ 5 năm về trước. Lần gặp bác sĩ Morris tuần rồi, anh bị nghi là vướng bệnh lao và đang chờ kết quả của cuộc thử nghiệm của đàm. Cuộc đời Thanh có những thăng trầm mà Phong đã tâm sự sơ qua cho tôi nghe một cách rất nhẹ nhàng và vắn tắt.
Khi nghe Phong kể lại những chuyện nầy làm tôi nhớ về những năm học ở Đại Học Khoa Học ở Sài Gòn.
ooOoo
Sau khi học xong bậc trung học ở trường công lập Ngô Quyền Biên Hoà, tôi lên Sài Gòn học tiếp. Tôi ở chung với năm người bạn gái khác, trong một căn nhà nhỏ có gác ở trên từng hai, đường Hồng Thập Tự Sài Gòn. Chúng tôi chia ra để làm những việc như nấu cơm, đi chợ cho cả nhóm. Có những tối, cả nhóm họp lại, tôi đánh đàn guitar, các bạn quay quần hát những bài hát như Như Cánh Vạc Bay, Phố Núi Cao Phố Núi Đầy Sương, Căn Nhà Ngoại Ô... Cả đám cười vui trên căn gác trọ nhỏ hẹp.
Từ căn nhà trọ nầy đến trường thì rất gần, tôi đi bộ được. Nhớ hồi ấy có hai hàng cây phượng tây rợp bóng mát hai bên đường, đi bộ rất là thú vị. Tôi nhớ lại những buổi sáng thứ Bảy có giờ thực tập tại phòng lab cho môn động vật, mổ con tôm càng bị đầu tôm chích vào tay đau điếng và có những lần tôi đi học trể, bị khóa cửa không được vào, đi lang thang trong khuôn viên trường đại học.
Trường đông sinh viên, không đủ chổ ngồi nên chúng tôi thường chen chúc nhau ngồi trên sân khấu của giảng đường gần thầy cô, vừa dễ nghe, nhưng phải tội là sau mấy tiếng đồng hồ ngồi một chổ, lưng và chân thiếu điều muốn co lại, đi không nổi.
Tôi cũng nhớ có
những lần lên Thủ Đức đi tìm những lá cây cho môn thực vật. Khi đi về nắng cháy
da, nằm la liệt mấy ngày.
Tôi thường hay đội cái mũ nhựa
trắng, phủ che mặt và phía sau đầu, nhưng vẫn không đủ mát cho những ngày nắng
cháy Sài Gòn hay Biên Hòa. Chiếc mũ này có rất nhiều kỷ niệm đối với tôi. Tôi
đã dùng tiền lương đầu tiên ít ỏi mà tôi đã kiếm được bằng đi dạy kèm để mua
cái mũ này. Dù không trị giá bao nhiêu, nhưng đối với tôi nó thật là to lớn vì
nó tượng trưng cho sự trưởng thành và tự lập của mình.
Và từ đó chiếc mũ này đã theo tôi đi nhiều nơi như khi tôi tham gia vào đám văn nghệ “Thằng Bờm”, cùng các bạn bè đi lang thang trong các câu lạc bộ, hát nhạc dân ca, đi học hay đi lên Bình Dương, dọn dẹp lại những căn nhà bị phá vỡ vì bom đạn.
Và có những buổi sáng sớm thứ Hai, tôi đạp xe từ Phúc Hải-Dưỡng Trí Viện lên nhà Ga Biên Hoà để đi Sài Gòn học, hai bên đường rất vắng vẻ vào lúc năm giờ sáng, đầu vẫn đội cái mũ nầy làm tôi cũng bớt sợ. Sau đó một dạo thì tôi làm mất cái mũ này, tìm hoài không thấy. Tôi lại thay nó bằng một cái nón lá nhưng ít đội hơn vì nón lá, khi chạy xe đạp xuống dốc, hay bị gió cản lại, rất là bất tiện.
Mới đây mà đã mấy chục năm rồi, vật đổi sao dời, cảnh cũ người xưa không bao giờ tìm lại được.
ooOoo
Ngày hôm sau, tôi có ghé qua phòng ICU thì thấy Thanh có vẻ bớt nhiều, tỉnh táo hơn một chút nhưng vẫn còn dùng ống hô hấp nhân tạo. Anh nhìn tôi một cách chăm chú và chúng tôi dùng tay làm dấu để nói chuyện với nhau.
Nhân viên điều
dưỡng cho biết anh sẽ không cần ống hô hấp nhân tạo nữa vào chiều nay nếu mọi
việc không có gì thay đổi. Thanh làm dấu cho tôi biết là anh đang thèm thuốc
lá. Trời ơi! Bệnh gần chết mà cũng còn ghiền thuốc!!! Tôi lắc đầu và mỉm cười
mà thôi. Kết quả về vi trùng lao -Koch- được thử nghiệm nhưng chưa có. Nhân
viên nhà thương vẫn còn đeo mask khi đến chăm sóc anh.
Buổi chiều ngày hôm sau, tôi đến thăm, thì Thanh được di chuyển xuống khu bệnh lao phổi. Thanh có vẻ khoẻ hơn nhiều, hơi thở bình thường và ống thở đã được rút ra, chỉ còn thở Ốc-xi qua mũi thôi. Thấy tôi thì Thanh mỉm cười và lên tiếng chào. Thanh hỏi.
- Dạ đây có phải là Dr. V mà hôm tôi mới vào đã gặp rồi phải không?
- Đúng vậy đó anh Thanh. Hôm ấy anh bị bệnh rất nặng. Tôi rất là ngạc nhiên khi anh còn nhớ. Anh thấy người ra sao? Thở còn khó khăn không? Tôi hỏi.
- Dạ tôi đã bớt nhiều, thở có vẻ dễ dàng hơn nhiều. A, Dr. V, xin lỗi không hiểu Dr. V sinh ở đâu vậy? Thanh hỏi.
- Dạ tôi sinh ra ở Bình Định và lớn lên ở Biên Hoà. Mà anh hỏi để làm gì vậy ? Tôi hỏi lại.
- Dạ tôi thấy đôi mắt của Dr. V mang máng giống một người nên hỏi vậy thôi. Xin lỗi nha.
Thanh trả lời giọng nói của anh lộ vẻ buồn bã, âm thanh trầm như có chút buồn phiền và trách móc. Tôi hỏi.
- Nghe bạn anh nói ngày xưa anh học ở Đại Học Khoa Học. Tôi cũng học ở đó mấy năm. Anh học năm nào vậy?
- Dạ tôi học năm 72-73. Cuối năm 73 thì tôi bị động viên nên đi Thủ Đức. Thanh trả lời.
- A, thì ra vậy. Lớp đông quá nên không nhớ ai là ai cả. Tôi nói.
- Vâng, đúng vậy. Thanh nói xong
rồi im lặng. Đôi mắt nhìn xa xăm và biểu lộ sự mệt mõi.
Tôi về phòng làm việc, coi lại hồ sơ của Thanh. Khi liếc qua kết quả của CT phổi thì tôi khựng lại, tim như muốn ngừng đập một giây phút. Kết quả ghi rõ ràng là có một cục bứu rất lớn, khoảng chừng 4.5 cm ở phổi phía trên bên trái với những đặc điểm tiêu biểu cho ung thư phổi loại tế bào Oat Cell hay tế bào ung thư phổi loại nhỏ.
Những tế bào ung thư nầy đã lan tràn qua những hạch chung quanh và đến gan. Oat Cell hay những tế bào ung thư ung loại nhỏ rất là khó trị, lan tràn rất mau và tỷ lệ sống sót trong vòng 5 năm rất thấp. Loại ung thư nầy, nếu dùng hoá trị (thuốc trị những tế bào ung thư, thông thường phải chuyền qua mạch máu qua nhiều chu kỳ), thường mang đến kết quả hữu hiệu hơn so với những cách trị khác.
Tôi gọi bác sĩ Ted, bây giờ bác sĩ nội khoa cho Thanh. Ted hẹn sẽ gặp tôi ở phòng của Thanh để chúng tôi cùng thông báo kết quả cho bệnh nhân biết. Khi chúng tôi đến phòng Thanh thì Phong cũng có mặt. Ted báo hung tin nầy cho Thanh, còn tôi thì thông dịch lại. Thanh im lặng không nói gì cả. Còn Phong thì hỏi những câu hỏi như cách chữa trị, có thể sống bao lâu nữa…
Tôi trả lời những câu hỏi nầy cho Phong, còn Thanh thì vẫn tiếp tục yên lặng. Khi Ted đi rồi thì Thanh hỏi tôi.
- Ung thư phổi thì từ đâu mà ra vậy, Dr. V?
- Cũng có nhiều nguyên do. Có thể do môi trường mình sống, gia truyền, miễn nhiễm, chất hoá học. Phần lớn là do thuốc lá mà ra.
- Như vậy cai thuốc lá có khó lắm không? Tôi cũng muốn bỏ cái thói quen nầy nhưng thấy khó quá.
- Cũng không khó lắm. Nếu anh muốn thì chúng tôi sẽ chỉ cách cho anh nhe.
- Phải chi hồi đó tôi cai thuốc lá sớm thì có thể tôi không bị ung thư phổi phải không Dr. V? Thanh nói.
- Cũng có thể lắm. Nhưng bây giờ anh đã bị rồi, thì cũng nên chú trọng với thực tế để tìm cách chữa trị nhe.
- Như bệnh ung thư của tôi thì Dr. V nghĩ là tôi sẽ sống được bao lâu nữa? Xin hãy thành thật mà trả lời.
- Thật ra thì khó nói lắm. Ung thư loại tế bào nầy rất là nguy hiểm và khó trị. Tôi trả lời một cách thành thật.
Thanh im lặng. Tôi thấy có những
giọt nước mắt ứa ra ở khoé mắt của anh. Anh khóc âm thầm.
Tôi đi ra bên ngoài để tránh cho anh
nhìn thấy mình cũng đang khóc. Tôi khóc thương cho số phận một con người với
những chuổi đời thăng trầm theo vận nước nổi trôi. Tôi khóc thương cho Thanh và
cũng hình như khóc thương cho chính mình.
Khi tôi trở lại thì Phong đã đi về,
chỉ còn một mình bệnh nhân nằm, cái hình bóng nhỏ nhoi trông thật tội nghiệp
nằm im trên tấm khăn trải giường trắng mướt. Nghe tiếng động, Thanh quay lại và
ánh mắt sáng lên khi nhận ra tôi. Tôi bây giờ không đeo chiếc mask nữa vì biết
rằng sau cuộc thử nghiệm anh không bị lao phổi mà bị những tế bào gây ung thư
phổi.
- Dr. V đó à, tôi cũng muốn nói chuyện với Dr. V một chút. Dr. V có thì giờ để tôi nói chuyện không?
- Tôi có nhiều giờ lắm. Anh Thanh cứ nói đi. Tôi đáp lời.
- Cuộc đời tôi bây giờ có hai nguyện vọng. Thứ nhất là gặp được con gái tôi sau mười mấy năm xa cách. Còn nguyện vọng thứ hai thì mong manh lắm, tôi chắc sẽ không thành đâu. Thanh ngập ngừng.
- Lần cuối anh gặp con gái ở đâu và bao lâu rồi? Tôi hỏi.
- Khoảng chừng 10 năm. Tôi lập gia đình khi gặp vợ tôi 15 năm về trước. Nàng lúc ấy có một vẻ đẹp u buồn, giống như người con gái mà ngày xưa tôi đã gặp. Sau 5 năm thì tình cảm giữa chúng tôi phôi pha. Cũng không hiểu tại sao. Chúng tôi lúc đó ở San Jose, nàng theo đạo Công Giáo và có gia đình thân quyến ở đây. Hơn mười mấy năm không liên lạc, tôi nghĩ là họ không còn ở đó nữa đâu. Thanh nói.
- Còn nguyện vọng thứ hai của anh
là gì? Tôi hỏi.
Thanh ngập ngừng không nói. Tôi cũng không ép Thanh làm gì.
ooOoo
Tối đó, khi về nhà
tôi liên lạc với ông anh tinh thần tên Peter đang làm việc ở Los Angeles. Nói
là anh chứ thật ra ông ấy là linh mục của một giáo phận Công Giáo ở vùng
Riverside. Sau khi nghe chuyện xong, linh mục Peter bảo tôi hãy yên tâm để ảnh
liên lạc giúp tìm vợ con anh Thanh. Hai ngày sau, cha Peter gọi lại báo tin đã
tìm được họ rồi. Số là, cha Peter có điện thoại về địa phận Công Giáo vùng San
Jose và nói chuyện cùng cha xứ ở đó. May mắn thay vợ của Thanh còn một bà mẹ ở
xứ đạo nầy và cha xứ đã nói chuyện cùng bà ấy về việc Thanh muốn gặp lại vợ con
mình.
Hằng ngày tôi vẫn
đến thăm Thanh.Thời kỳ nầy anh đang được chữa trị bằng hoá trị. Anh cũng bị
những phản ứng phụ như ói mữa, buồn nôn, đi tiêu chảy và tiểu cầu cùng hồng
huyết cầu bị xuống thấp nên phải tiếp huyết cùng chuyển tiểu cầu. Thanh vẫn
buồn bã và thỉnh thoảng tôi thấy Thanh khóc. Còn người thì hốc hác đi nhiều.
Tôi không nói cho Thanh biết về vụ vợ con Thanh, để tránh cho Thanh khỏi thất
vọng, nếu không gặp được vợ con mình. Thanh cũng không nói nguyện vọng thứ hai
của anh là như thế nào.
Sau đó một tuần, một buổi chiều tôi ghé thăm Thanh. Qua cửa sổ kiếng của phòng, tôi thấy có hai người đang quây quần kế bên anh. Một người đàn bà giống như là vợ của anh và một cô bé chừng 15-16 tuổi. Tôi đoán chắc là vợ con của anh. Thanh ngó ra và tôi đã thấy ánh mắt của anh. Ánh mắt vừa tỏ vẻ biết ơn nhưng lại đượm buồn thêm một chút gì u uẩn nào khác nữa. Tôi mỉm cười và giơ tay lên chào. Anh gật đầu và cũng mỉm cười lại. Tối hôm ấy, tôi không ghé thăm Thanh như thường lệ, nhưng trong lòng tôi rất vui mừng, vì biết rằng Thanh đã tìm được vợ con của mình. Tình cảnh đã thay đổi vào lúc cuối đời rồi, Thanh cũng nên hoà giải để tâm hồn được an vui và thanh thản một chút. Tôi thầm nghĩ như vậy.
ooOoo
Chiều hôm sau, tôi ghé qua thăm Thanh thì phòng nay đã trống. Cô trưởng toán điều dưỡng ở khu nầy đến gặp tôi báo là Thanh đã đi về San Jose với vợ con mình và nhờ trao cho tôi một cái túi xách bằng nhựa. Bên trong túi xách nầy có một cái túi xách Pan Am mà tôi đã thấy khi Thanh mới vào nhà thương nơi phòng cứu cấp. Mở cái túi xách Pan Am ra thì trong đó có một túi đồ. Tôi vội mở túi đồ ra thì có một lá thơ và một cái mũ màu ngà đã sờn mòn nứt nẻ nhiều nơi. Tay run run tôi cầm mở rộng cái mũ cũ nầy ra. Vành mũ bên trong có 5 chữ viết bằng mực xanh mà nay tuy nét mực đã mờ loang lổ nhiều nơi, nhưng tôi vẫn nhận ra là nét chữ và tên của mình. Chuyện gì đây? Sao cái mũ nầy lại ở đây?
Trời ơi thật khó hiểu quá. Tôi không
tự chủ nổi, vội ngồi bệt xuống cạnh cầu thang máy và mở lá thư của Thanh ra
đọc.
V thân mến,
Rất ngạc nhiên lắm phải không V khi nhận lá thư nầy. Xin lỗi V cho Thanh được gọi tên Dr. V một cách thân mật nhe. Mình đã học chung với nhau ở Đại Học Khoa Học mà V vô tình không còn nhớ Thanh nữa đó V. Thanh là người hay ngồi đàng sau lưng của V khi mình học môn Sinh Lý Sinh Hoá của bà Phiêu (vợ Bác Sĩ Trần Nguơn Phiêu) dạy.
Có nhiều lần Thanh định làm quen với V nhưng không có cơ hội. Một hôm tình cờ thấy V bỏ quên cái nón của mình ở trong trường Thanh đã lấy về. Rồi mấy lần định trao lại cho V nhưng không đành lòng. Thôi thì cứ giữ một chút gì của V để mình thương nhớ.
Cả đời Thanh đã mang cái nón của V theo mình hơn 40 năm. V ơi, chiếc nón nầy đã vào sinh ra tử với Thanh khắp bốn vùng chiến thuật, đã trải qua những thăng trầm dâu bể cuộc đời. Thật ra thì Thanh cũng rất hạnh phúc vì lúc nào cũng có cảm tưởng là V đang ở cạnh mình.
Hôm Thanh từ giã trường lớp để đi Thủ Đức, có viết thư giã từ với V và xin gặp V một lần. Thanh đợi suốt cả buổi sáng nhưng không thấy V đến. Khi có dịp thì Thanh cũng cố tìm V nhưng V đã biệt tích rồi. Nghe phong phanh bạn bè nói là V đã chết rồi. Thanh thì không bao giờ tin như vậy.
Ngày đầu vào nhà thương, Thanh đã nhận ra V liền dù thời gian có làm V thay đổi, nhưng ánh mắt và nụ cười của V không khác xưa. Định nói ra cho V rõ nhưng lại thôi. Mọi sự đã muộn màng rồi. Nói ra chi làm bận lòng người bạn của mình.
Bây giờ Thanh xin trao lại chiếc nón này cho chủ cũ của nó. Lòng của Thanh cũng rất thanh thản vì cuối đời được gặp lại V. Lại được V chăm sóc mấy tuần lễ nay rất chu đáo và có dịp nói chuyện với nhau như hai người bạn thân thiết ngày xưa.
Cảm ơn V đã lo lắng và chăm sóc Thanh mấy tuần lễ qua. Cũng xin cảm ơn V đã giúp tìm lại con gái của Thanh. Thanh bây giờ xin trao trả lại cái nón cho chủ cũ của nó.
Tất cả tâm tình của Thanh trong mấy chục năm qua cũng xin gửi lại cho V. Xin V nhận vì đây là nguyện vọng thứ hai và cuối cùng của Thanh.
Vĩnh biệt nhe.
Thanh
Nước mắt tôi đã rơi ướt đẫm trên thư của Thanh hồi nào tôi cũng không biết. Thật cả một chân tình mà tôi vô tình không rõ.
Nếu Thanh biết rằng năm xưa, khi
nhận được thư của Thanh, dù không biết Thanh là ai, tôi cũng đã bâng khuâng,
nửa muốn đến gặp người bạn nầy trước khi lên đường nhập ngũ, nửa lại ngại
ngùng. Nhưng giờ cuối cùng thì tôi có đến chỗ Thanh đã hẹn, nhưng đã muộn vì xe
cam-nhông đã chuyển bánh trên đường vào Thủ Đức. Nếu biết vậy thì Thanh cũng có
phần nào an ủi. Thôi cũng là số mệnh!
Và trời ơi! Bây giờ tôi lại mất đi
thêm một người bạn cho cái bệnh ung thư quỷ quái này nữa rồi. Cả đời tôi đã làm
việc không biết mệt để đem một chút gì hiểu biết về ung thư ra chia sẻ cho
người đời qua những buổi thuyết trình, hướng dẩn, hổ trợ để ngăn ngừa hay tìm
kiếm ung thư sớm.
Phải chi tôi gặp lại Thanh sớm hơn để có dịp khuyên Thanh nên ngừng hút thuốc, để tìm kiếm bệnh này sớm thì biết đâu Thanh sẽ không đến nỗi phải bó tay như bây giờ. Phải chi ... phải chi…
Cả một nỗi niềm hối tiếc ân hận đè nặng trĩu trong lòng tôi. Tôi biết cuộc hành trình để tìm kiếm và diệt trừ ung thư của tôi vẫn còn dài đăng đẳng không biết bao giờ cho xong.
ooOoo
Ở trên đời có
những mối tình như cơn lốc, khi qua rồi thì để lại những tàn phá đau thương.
Cũng có những mối tình đơn phương, nhẹ nhàng, thâm trầm và sâu sắc để lại cho
tâm hồn tràn đầy những kỷ niệm như những hương xưa, những kỷ vật đơn sơ, những
lời thơ mộc mạc, những nụ cười bâng khuâng, hay một bản nhạc thân tình. Xin hãy
trân quý gìn giữ những mối tình nầy, vì tất cả có thể làm cho chúng ta cảm thấy
hạnh phúc và ấm áp cõi lòng, vì biết rằng đâu đó trên cõi đời này, có một người
nào đó lúc nào cũng nhớ và yêu thương mình. Khi có dịp để lo lắng cho nhau thì
cũng nên hết lòng hổ trợ để biết đâu mình có thể duy trì sức khoẻ hay mạng sống
cho những người thân mến này.
Tôi đang trầm ngâm suy nghĩ thì có tiếng gỏ cửa phòng và giọng Jenny :
- Dr. V, có một cô bệnh nhân mới đến phòng số 32, 43 tuổi, người Việt, bị ung thư ngực tới thời kỳ thứ 4, xin Dr. V giúp tụi em một chút nhe. Jenny năn nĩ.
- Được Jenny, tôi sẽ đến liền. Tôi trả lời.
Lại thêm một ngày nữa và đời sống mọi người cứ đi vòng quanh như vậy, theo những lối đi mà định mệnh đã an bày. Như nước của những dòng sông cứ theo phương hướng đã định trước mà tụ tập về lòng đại dương. Thôi thì ta hãy an vui với số phận của mình, hãy tiếp tục cuộc hành trình mà mình đã chọn lựa, và cứ ấp ủ những mối tình mà mình đã có trong tâm hồn, vì đó là những nguồn hạnh phúc mà không ai lấy đi được. Tôi thầm nhủ, với những hành trình dài và gập ghềnh trong cuộc sống mà mình còn giữ được những tâm tình như vậy thật không phải là hạnh phúc và may mắn lắm sao?
Võ Quách Thị Tường Vi
Sài Gòn, Hạ Trắng, tháng Sáu, 2013