MGTT 19 - GIÁO SƯ DƯƠNG QUẢNG HÀM (1898-1946)
Thời còn là học trò Ngô Quyền trước năm 1975, mỗi cuối niên khóa, ở mỗi lớp, ba học sinh đứng hạng nhất, nhì và ba được lãnh phần thưởng ở thư viện trường, hoặc ở rạp Biên Hùng. Phần thưởng không nhiều nhưng là cả một sự khích lệ, cao khoảng 15 – 20 cm, thường là sách giáo khoa cho năm tới và những quyển sách đặc biệt như sách học làm người hoặc sách biên khảo. Một bộ sách thường xuyên có mặt trong phần thưởng mỗi cuối năm là bộ sách:”Việt Nam thi văn hợp tuyển” cuả giáo sư Dương Quảng Hàm gồm 2 quyển sách dày khoảng 500 trang, bìa màu vàng mạ bạc, chữ màu đen, in trên giấy tốt như giá trị cuả tác phẩm, như sự trân quý cuả nhà xuất bản, của Bộ Giáo dục VNCH cho công trình tim óc cuả một vị giáo sư tài hoa vắn số.
Thời đó, còn dại khờ, chúng tôi không biết giáo sư Dương Quảng Hàm là ai. Rất nhiều người trong chúng tôi còn tưởng ông là một nhà giáo đương thời như các giáo sư Nguyễn Văn Phú, và Nguyễn Tá cuả bộ sách Toán chương trình Trung học.
Dù mù mờ, không biết gì về một nhà giáo có tài, có tâm huyết, tất cả chúng tôi đều thấy bộ sách “Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển” là một công trình biên soạn quý hiếm cuả văn học Việt Nam từ thời dân tộc chúng ta bắt đầu có chữ viết, không bị cả quân xâm lược Tàu, lẫn giặc thực dân Pháp dùng chính sách ngu dân để đồng hóa người Việt Nam vào với dân Tàu hoặc dân Tây.
Một điều khó tin là sau bao nhiêu năm sống đời lưu lạc, nói và học bằng tiếng Mỹ giữa quê người, qua Google, tình cờ chúng tôi chợt khám phá ra tiểu sử tác giả bộ sách biên khảo rất có giá trị trong văn học Việt Nam là giáo sư Dương Quảng Hàm, một người thuộc thế hệ ông bà của chúng tôi.
MGTT số 18 xin dành riêng để vinh danh một nhà giáo tận tụy, dành cả một tấm lòng cho quê hương, cả một trái tim cho văn học nước nhà. Bài này, xin được xem như một nén hương lòng trân quý và biết ơn cuả nhiều thế hệ Thày và trò Ngô Quyền dành cho cố giáo sư Dương Quảng Hàm, cựu giáo sư, cựu Hiệu trưởng trường Bưởi ở Hà Nội (sau cuộc di cư vĩ đại của đồng bào miền Bắc năm 1954 đã trở thành trường Trung học Chu Văn An ở Sàigòn.). Cụ Dương Quảng Hàm là một nhà giáo có công dựng nền tảng cho văn học Việt Nam, một người uyên bác, tài hoa đã bị “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” nên đã lìa đời lúc chưa đến 48 tuổi với một nguyên nhân mù mờ trong một giai đoạn lịch sử phức tạp, đau thương của dân tộc.
Ban Biên Tập
Ðể khắc họa rõ nét hơn về nhân dáng và tư cách của Giáo Sư Dương Quảng Hàm, xin trích ra sau đây những nhận xét của chính học trò cụ là học giả Nguyễn Hiến Lê, hs trường Bưởi, niên khóa 1929-1930:
Mấy năm trước, những khi thấy cụ đi qua sân trường, tôi thường để ý: cụ đi bộ, lúc nào cũng rảo bước, cụ thấp bé mà bước những bước dài, nhón gót (người ta bảo là tướng yểu), như lúc nào cũng vội vàng - cụ có bao giờ biết thơ thẩn, mơ mộng không nhỉ? - mà ngồi xe đạp thì trái lại, cụ đạp rất chậm, tốc độ đều đều, chỉ độ mười cây số một giờ, tới cửa lớp, cụ thận trọng hãm lại, cho xe nghiêng qua một bên, khoan thai bước xuống, gác xe, gỡ cái kẹp ống quần ra, tháo chiếc cặp phồng những sách vở, rồi ôm cặp tiến vô lớp. Gặp bạn đồng sự cụ niềm nở bắt tay, nhưng ít khi đứng lại để trò chuyện; cụ tới lớp không khi nào trễ, nhưng cũng không khi nào quá sớm, chỉ dăm ba phút là cùng, như vậy thì đâu có thì giờ để trò chuyện. Tôi có cảm tưởng cụ là một chiếc đồng hồ mà thì giờ của cụ đã tính trước đâu vào đấy hết. Chúng tôi phục cụ ở điểm đó.
Cụ sống rất giản dị. Từ nhà ở giữa phố Hàng Bông lên trường, đường dài vào khoảng ba cây số, mà quanh năm, Hè cũng như Ðông, mưa cũng như nắng, ngày nào cụ cũng chầm chậm đạp một chiếc xe cũ; suốt hai năm học cụ, tôi nhớ chỉ một hai lần cụ đi xe kéo vì mưa gió lớn quá hoặc vì trong mình khó ở. Có lần chúng ‘thổi’ mất chiếc xe của cụ và bọn chúng tôi được một dịp cười: con người cẩn thận như vậy mà cũng để mất xe ư? Và chiếc xe ‘tàng’ như vậy mà chúng cũng ‘thổi’ ư?
Y phục của cụ hình như chỉ có vài bộ, một cổ lỗ, nhưng lúc nào cũng sạch và có nếp. Tóc thì chắc chắn một tháng cụ mới húi một lần và chỉ khi nào húi cụ mới cạo râu, vì vậy râu cụ đã thưa lại lởm chởm, trông y như limailles de fer (mặt sắt, mài giũa) và chúng tôi dùng danh từ Pháp đó để đặt biệt hiệu cho cụ.
Sau đây thêm một chi tiết mà cũng theo Nguyễn Hiến Lê, là đã học được từ cụ “một bài học lặng lẽ và cao thượng”:
“Theo lệ, cụ mở cuốn sổ tay ra chấm tên một học sinh vào hạng trung bình. Anh này chắc cũng chỉ thuộc lõm bõm, trả được một vài câu rồi ngừng, thú rằng không thuộc. Cụ gọi thêm một anh khác, cũng không thuộc nữa. Cụ ngạc nhiên, hỏi tại sao? Một anh bạo dạn đứng lên thưa rằng, chúng tôi không ai thuộc cả vì không ưa Jules Boissière, một tên thực dân không có cảm tình với dân tộc mình. Rồi chúng tôi trình với cụ tất cả những điều chúng tôi trách hắn. Cả lớp chờ sự phản ứng của cụ.
Cụ làm thinh một vài phút rồi bỗng nhiên tôi thấy hai giọt nước mắt lăn trên má cụ. Cụ vẫn ngồi yên nhìn xuống phía cuối lớp, cũng không lấy chiếc khăn tay nhỏ xíu bằng vải trắng để lau nước mắt nữa, mặc cho nó rơi xuống mặt bàn và tự khô trên má. Hôm đó cụ không cho điểm ai cả.”
Hình bóng ấy của Dương Quảng Hàm chỉ có học trò của cụ ghi nhớ được. Thế hệ sau ít ai còn biết rõ. Ngay cả cái chết của cụ cũng không sách vở nào nói đến. Chỉ là lời đồn. Chỉ là nghe nói. Có nguồn tin kể rằng cụ bị chết cháy, trong một căn nhà bốc lửa khi tiếng súng nổ chát chúa xa gần. Ngoài cửa ngôi nhà, có vài cán bộ nhưng không có ai can thiệp. Có người nói cụ bị chết trong can qua. Những cuốn sách in ở Hà Nội vừa qua, nói cụ “mất” ở Hà Nội. Một cuốn in ở Sài Gòn nói cụ “mất tích.”
Phải có một ngày sự thực hiện ra. Nhưng nó không tự nhiên hiện ra. Nếu các thế hệ sau không tìm hiểu, không tra vấn, không tìm lại những bài học lịch sử, lịch sử sẽ bị lãng quên hay bị biết đến trong sai lạc, cố ý hay vô tình.
Nguyễn Hiến Lê (1912 – 1984)