Văn Thơ Giáng Sinh
(Nguồn: sangtao.org)
Với đại đa số dân chúng, lễ Giáng Sinh được coi như một ngày lễ lớn của dân tộc và đó là một nét văn hóa đẹp. Ngày lễ Noel như một ngày lễ của tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo. Trong sinh hoạt xã hội và cả sinh hoạt về văn học, ngày lễ ấy có một vị trí rất quan trọng. Mặc dù Thiên Chúa Giáo mới du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 19 cho tới nay, nhưng lễ Giáng Sinh đã trở thành một ngày lễ nhân gian của cả nước. Và riêng với tôi, thì có ý nghĩ rằng tôn giáo nào cũng tốt cũng dạy người ta làm việc thiện nên những ngày lễ là những ngày nhắc nhở tất cả mọi người đi trên con đường tu thân tu tập ấy…
Thời điểm này là thời điểm của nhạc Giáng Sinh. Ở khắp nơi đều vang vang những bản nhạc quen thuộc. Nghe nhạc, biết là mùa Giáng Sinh về.
Về nhạc ngoại quốc hay thánh ca Giáng Sinh quen thuộc với ngưới Việt Nam thì White Christmas, Holy Nights, Santa Claus is coming to town, Jingle Bells, Feliz Navidad, The Little Drummer Boy, Ave Maria… Còn nhạc Việt thì nhiều lắm . nào Đêm Thánh Vô Cùng, Đêm Đông Lạnh Lẽo Chúa Sinh Ra Đời, Mùa Sao Sáng, Chiều Bên Giáo Đường, Kinh Chiều, Bài Thánh Ca Buồn, Tà Áo Đêm Noel… Còn nhạc phổ từ thơ thì Tha La Xóm Đạo, Mimosa Thôi Nở, Nguyện Cầu, Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím…
Rõ ràng chúng ta thấy không khí của Giáng Sinh trong ngần ấy những bài hát. Trên truyền hình, trên đài phát thanh, trên những chương trình DVD, CD… hay trong quán cà phê, trong các thương xá, mọi nơi mọi chỗ, không khí Giáng Sinh tràn đầy trong những dòng nhạc ấy.
Một bản nhạc về Hàn Mặc Tử của Trần Thiện Thanh cũng thường được nghe trong lễ Giáng Sinh. Hàn Mặc Tử là một thi sĩ lớn của thi ca Việt Nam. Ông làm thơ bằng cả cuộc đời đau đớn của mình, bằng bệnh tật ác nghiệt phong cùi dày vò thể xác ông. Mỗi mùa trăng là mỗi lần ông bị chết điếng trong đau đớn khi vi trùng Hansen đục khoét trong xương tủy. Thơ của ông kết tinh từ những cảm giác ấy, từ những nỗi bất hạnh tột cùng của thể xác tận tâm hồn. Thơ của ông là:
“Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
mỗi lời thơ đều dính não cân ta
bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
như mê man chết điếng cả làn da
cứ để ta mênh mang trong vũng huyết…”
Ông mất khi 28 tuổi sau chuỗi ngày bệnh tật đau đớn. Mộ của ông được chôn ở nghĩa trang Quy Hòa chỉ cách trại cùi có hơn 200 thước và sau được gia đình với sự phụ giúp của nhà thơ Quách Tấn đem cải táng tại bãi biển Ghềnh Ráng gần tỉnh Quy Nhơn. Mộ của ông được coi như một thắng cảnh trong vùng và được nhắc nhiều đến trong văn chương và âm nhạc. Linh mục Trần Quý Thiện đã mô tả như sau:
“Mộ phần Hàn Mặc Tử được kiến trúc hình chữ nhật. Trước mộ là một cây thánh giá lớn bằng xi măng cao 0m50. Trên đầu bia mộ là tượng Đức Mẹ Maria hai tay giang rộng mắt nhìn xuống mộ vì trước khi chết Hàn Mặc Tử ước mong được một lần trong đời đến kính viếng Đức Mẹ tại thánh địa La Vang Quảng Trị nhưng không thực hiện được. Bước lên ba bậc tam cấp hiện nay du khách có thể nhìn thấy trên tấm bia mộ ghi rõ tên thánh, họ và tên nhà thơ, ngày sinh và ngày tử cùng tên cha mẹ và anh chị em lập bia mộ. Năm 1991, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh (tức ca sĩ Nhật Trường người viết bản nhạc Hàn Mặc Tử) cùng một số anh chị em nghệ sĩ trong nước đã bảo trợ kinh phí để ban Giám Đốc trại phong cùi Quy Hòa xây một đài tưởng niệm nơi nhà thơ được an táng đầu tiên tại Khe Nước Ngọt. Nghĩa trang Quy Hòa và một nhà Lưu Niệm Hàn Mặc Tử cũng được thiết lập ngay tại địa điểm mà nhà thơ trút hơi thở cuối đời.
Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã nhận định về Hàn Mặc Tử trong bộ Nhà Văn Hiện Đại như sau:
“Hàn Mặc Tử có lẽ là người Việt Nam đầu tiên làm thơ ca ngợi Thánh Nữ Đồng Trinh Maria và Chúa Giêsu. Ông ca tụng đạo Thiên Chúa với một giọng rất chân thành. Đây là lần đầu tiên thi ca Việt Nam thấy được một nguồn cảm hứng mới. Tôi dám chắc rồi đây sẽ còn nhiều thi sĩ Việt Nam đi tìm nguồn cảm hứng trong đạo giáo và đưa thi ca Việt Nam vào con đường triết học.”
Chúng ta không thể nào quên khi nói đến Hàn Mặc Tử mà không nhắc đến bài thơ Ave Maria. Thi sĩ đã làm thơ với lời chào mừng trân trọng cung kính Mẹ Maria, người nữ tuyệt vời thánh thiện. Cái buốt đau của thân thể khi cầm bút với những ngón tay co quắp rút lại vì bệnh đã làm cho thi sĩ như xuất thần để quên đi thực tại và đắm mình trong một niềm tin tôn giáo vô biên.
“Như sóng lộc triều nguyên ơn phước cả
Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng
Thơm tho bay cho đến cõi thiên đàng
Huyền diệu biến thành muôn kinh trọng thể
Và Tổng Lãnh Thiên Thần quỳ lạy Mẹ
Tung hô câu đường hạ ngớp châu sa
Gương xông lên lời ca ngợi sum hòa
Trí miêu duệ của muôn vì rất thánh
Maria! linh hồn tôi ớn lạnh
Run như run thần tử thấy long nhan
Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến
Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thnah vẹn
Giàu nhân đức giàu muôn lộc từ bi”
Đã có một nhận định Hàn Mặc Tử là một nhà thơ Công Giáo. “Với Hàn Mặc Tử, thơ là một nét nghệ thuật cao độ đi vào chủ nghĩa siêu linh, là cõi xuất thế, là bến trăng sao an toàn cho con người ẩn náu khi sống trong tuyệt vọng khổ đau trong cô đơn của của nhân tình thế thái. Không ai có thể phủ nhận nét Công giáo trong thơ Hàn Mặc Tử vì chính ông đa mở rộng biên giới thi ca Việt nam bằng những sáng tạo độc đáo mà nền giáo dục Công giáo từ cha mẹ, gia đình, trường Pellerin và gương sống các nữ tu Phan Sinh đã hun đúc hồn thơ của ông. Trong những ngày cuối đời, ông đã sống như một nhà tu thực sự, cuộc sống chìm lặng trong câu kinh, lời nguyện pha lẫn với những đớn đau do bệnh phong hành hạ. Chính nhà thơ đã thổ lộ “Trong những ngày cuối đời, tôi chỉ biết ngâm thơ và cầu nguyện mà thôi…”
Có ai đã hỏi có nhà thơ nào có thơ được phổ nhạc nhiêù nhất và trong đó có những bài thơ rất lãng mạn tràn đầy tuổi trẻ? Câu trả lời sẽ là nhà thơ Nhất Tuấn và tập thơ Truyện Chúng Mình và những bài thơ được phổ nhạc: “Chúa nhật này trẫm nhớ ái khanh không?” (Nguyễn Đức Quang phổ nhạc), “Con quỳ lạy Chúa trên trời” (Phạm Duy phổ bài thơ Cầu Nguyện) “Mimosa thôi nở ” (Đan Thọ phổ nhạc) “Xin trả Lại Em” (Hoàng Lang phổ nhạc), “Hoa Học trò”, “Niềm Tin” (Anh Bằng phổ nhạc)… Tổng cộng có hơn 40 bài thơ được phổ nhạc trong thời gian từ 1959 đến bây giờ… Ông là một sĩ quan cấp tá tốt nghiệp trường Võ Bị Đà Lạt, làm quản đốc Đài Phát Thanh Quân Đội. Nhưng thơ của ông được giới trẻ ưa thích vì có những tâm tình ngôn ngữ trẻ trung thơ mộng giống họ. Tập thơ Truyện Chúng Mình gồm 5 tập và được coi là một tập thơ có nhiều độc giả nhất.
Thơ trong tập “Truyện Chúng Mình” thì cố nhiên là những chuyện đôi lứa. Nhưng có bài thơ nào về Giáng Sinh không? Mà lại được phổ nhạc nữa?
Chúng ta hãy nghe bản nhạc phổ thơ Nhất Tuấn do nhạc sĩ Đan Thọ: “Mimosa thôi nở”? Tình tứ lãng mạn lắm dù hơi buồn một chút vì “tình chan chứa” mà … “mộng không thành”! Trong Truyện Chúng Mình có bài Mimosa Thôi Nở với những câu:
“Noel xưa anh nhớ
khi hãy còn yêu nhau
nhà thờ nơi cuối phố
thấp thoáng sau ngàn dâu
anh chờ em đi lễ
chung dâng lời nguyện cầu
mimosa bừng nở
đẹp như tình ban đầu
Đà Lạt mờ trăng lạnh
Đường về ta bước mau…”
Cùng nhau đi lễ Noel, hỏi nhau về ước vọng xưa sau. Em nắm tay anh và hồng đôi má. Sao tình tứ quá. Nhưng là chuyện tình buồn”
“mới bốn mùa thu qua
mimosa vẫn nở
sao mối tình đôi ta
ai làm cho dang dở
đêm này Noel đây
chuông nhà thờ khắc khoải
gió đồi lang thang bay
mưa buồn giăng ngõ tối
anh quỳ bên tượng Chúa
cúi đầu chắp hai tay
lạy chúa con chờ đợi
người ngày xưa về đây
nhưng em không về nữa
đường khuya mưa bay bay
Mimosa thôi nở
Trong hồn anh đêm nay.”
Một bản nhạc khác, bài thơ “Con quỳ lạy chúa trên trời” mà nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc cũng là một tình khúc tuyệt vời. Bài thơ lục bát “Cầu nguyện”, bài thơ đầu của tập thơ Truyện Chúng Mình tập 1, được chuyển thể cũng lãng mạn tình tứ không thua “Mimosa thôi nở”. .
Bài thơ ấy nguyên văn như sau như một câu chuyện kể lại bằng thơ, rất mộc mạc nhưng lại gần gũi với cuộc đời thường. Cũng là chuyện một chàng trai quỳ bên tượng chúa cầu nguyện cho có được giai nhân cùng mình chung sống đến cuối đời. Nhưng lại là cuộc chia phôi. Vì người tình đã bỏ đi. Thơ man mác, tuy chỉ buồn thôi và vắng giọt nước mắt. Thơ nén trong tim những nỗi buồn bằng ngôn ngữ đơn sơ…
“Con quỳ lạy Chúa trên trời
để cho con thấy được người con yêu
đời con đau khổ đã nhiều
kể từ thơ dại đủ điều đắng cay
số nghèo hai chục năm nay
xây bao nhiêu mộng trắng tay vẫn nghèo
mối tình đầu chót bọt bèo
vì người ta thích chạy theo bạc tiền
âm thầm trong mối tình điên
cầm bằng Chúa định nên duyên bẽ bàng
bây giờ con gặp được nàng
không giàu, không đẹp không màng lợi danh
chúng con hai mái đầu xanh
chắp tay khấn nguyện trung thnah với nhau
thề nhau sóng gió bể dâu
để yêu. . trước cũng như sau… giữ lời
Người ta lại bỏ con rồi
Con quỳ lạy Chúa trên trời thương con”
Mỗi lần khi Giáng Sinh về, nghe lại bản nhạc ấy, tự nhiên sao tôi nhớ quá những ngày mình còn trẻ. Cũng ngây ngô và mộng ước như thế. Nhưng, chỉ là giấc mơ không thực mà thôi. Mấy ai, trong mối tình đầu tiên mà không vấp ngã phải không?
Ông còn bài thơ nào về Giáng Sinh không? Chắc là còn nhiều. Đơn cử như bài Niềm Tin chẳng hạn. Mà cũng được phổ nhạc và được hát mỗi mùa Giáng Sinh
“lại một Noel nữa
mấy mùa Giáng Sinh rồi
anh ở đồn biên giới
thương về một khung trời
chắc Đà Lạt vui lắm
mimosa nở vàng
anh đào khoe sắc thắm
hương ngào ngạt không gian
mấy mùa Giáng Sinh trước
chỗ hẹn anh chờ hoài
lần này không về được
hồi hộp đợi tin ai
em biết không đời lính
nắng sớm với sương chiều
gió rừng rồi mưa núi
đã làm anh vui nhiều
ở đây anh chờ sẵn
đón thánh lễ truyền thanh
xin Chúa ban ơn xuống
cho em và cho anh
cũng cầu cho thế giới
cho nhân loại hòa bình
cho đôi ta gặp lại
trong một mùa Giáng Sinh.”
Nhạc sĩ Anh Bằng đã phổ nhạc bài thơ này. Vẫn ngôn ngữ bình thường ý tứ đơn sơ nhưng lại tạo được sự thích thú cho người nghe chính vì cái đơn giản, dễ hiểu, dễ cảm ấy.
Tập thơ Truyện Chúng Mình chỉ là chuyện riêng của ông và người tình thôi mà sao lại được hâm mộ đến như thế? Tuy tập thơ ấy chỉ là kể chuyện riêng của hai người nhưng đọc thơ xong độc giả sẽ tưởng rằng có mình ở trong đó và chữ “chúng mình” là của riêng người đồng điệu chứ không phải ai khác. Xem thơ mà tưởng có mình ở trong, vì lời thơ hồn nhiên, ý thơ thành thật, điệu thơ nhẹ nhàng như ngầm chứa nhạc tính ở trong. Thơ viết về những kỷ niệm, rất bình thường vì có thể ai cũng có kỷ niệm và tâm sự như thế. Tình yêu trẻ trung thường đẹp và gợi nhớ đến những giấc mộng ngây thơ. “Truyện Chúng Mình” có nhiều độc giả ái mộ không phải là chuyện lạ!
Thơ tình yêu của Truyện Chúng Mình hay như thế mà có ai nhận xét gì không? Có rất nhiều người đồng điệu đã xẻ chia ý nghĩ với thi sĩ Nhất Tuấn. Thái Thủy, Đỗ Tấn, Thẩm Thệ Hà, Thanh Nam… và nhất là Đinh Hùng:
“…Bài thơ đầu tiên của nhân loại là một bài thơ tình giữa Adam và Eve. Kẻ nào không biết yêu hoặc không thể yêu được nữa là kẻ bị thiệt thòi nhất. Cộng sản cũng chỉ vì không biết thương yêu, không có thơ tình, không biết bói tiếng “Anh” và tiếng “Em” cho ngọt ngà uyển chuyển cho nên mới làm nhiều chuyện phi nhân. Người chiến sĩ phụng sự cho Tự Do Chính Nghĩa từ trong tâm linh chính là người chiến sĩ vẫn hằng ấp ủ một bài thơ tình diễm tuyệt để tặng “Em”… Tôi chờ đợi Truyện Chúng Mình của Nhất Tuấn như một kẻ tình nhân chung thủy chờ đợi tình thư của người yêu. Chắc rằng tất cả những người “đã yêu, đang yêu và sắp yêu” cũng sẽ tìm thấy phần nào bóng dáng tâm hồn họ khi đọc Truyện Chúng Mình…
Nói đến thơ Giáng Sinh phải nhắc đến nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên và các bài thơ của ông. Trong không khí của ngày Noel năm nay, có lẽ chúng ta cũng nên nhắc lại những bài thơ ấy.
Nguyễn Tất Nhiên có những bài thơ rất lạ. Hình ảnh của Chúa và Đức Mẹ được nhà thơ xử dụng phương cách độc đáo, chuyên chở được tình cảm một cách dễ thương. Từ “Vì tôi là linh mục” đến “Chuông mơ”, rồi “Em hiền như ma soeur” đến “Hai năm tình lận đận”, thơ và nhạc hình như đã bổ túc cho nhau để làm nổi bật hơn cá tính của người thơ. Thuở sinh thời, ông thường bực bội vì nghĩ rằng độc giả chỉ biết đến Nguyễn tất Nhiên qua những bản nhạc mà ít để ý đến cốt tủy là chính những bài thơ của ông. Những bài thơ mà ông cho là biểu hiện rõ nét thi ca của ông. Những câu thơ tràn đầy nhạc tính và cũng chan chứa thi tính.
Như bài thơ nhan đề “Nguyện làm cây thánh giá” đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn số Giáng Sinh năm 1972 và sau đổi thành “Hai năm tình lận đận” và Phạm Duy phổ nhạc. Bài thơ ấy có đoạn như sau:
“…em bây giờ có lẽ
toan tính chuyện lọc lừa
anh bây giờ có lẽ
nên làm người tình thua
nhà thờ chuông đổ chậm
tượng Chúa gầy hơn xưa
Chúa bây giờ có lẽ
Rơi xuống trần gian, mưa
(dù sao thì Chúa cũng
một thời làm trai tơ
dù sao thì Chúa cũng
làm đàn ông…dại khờ)
anh bây giờ có lẽ
thiết tha hơn tín đồ
nguyện làm cây thánh gía
trên chót đỉnh nhà thờ
cô đơn nhìn bụi bặm
làm phân bón rêu xanh
(dù sao cây thánh giá
cũng được người nhân danh)
hai năm tình lận đận
em đã già hơn xưa.”
Chỉ có hai năm lận đận cuộc tình thôi mà nhà thơ bắt´ “em” già đi thì hơi ác! Lúc đọc thơ và nghe nhạc, cảm giác hơi khác nhau. Ôi thơ, có một điều gì buồn buồn, nhẹ nhàng và hơi chút mỉa mai. Còn ở nhạc, thì có vẻ ngây thơ lãng mạn hơn. Với tôi, khi đọc thơ, lại cảm vì những chi tiết rất đời thường nhưng lại tạo được nét mới lạ. Từ trước tới giờ, có lẽ chưa có ai có ý nghĩ như Nguyễn Tất Nhiên: dù sao thì Chúa cũng/ có một thời… trai tơ/ dù sao thì Chúa cũng/làm đàn ông dại khờ. Chính cái nét ngang ngang khác người ấy làm bài thơ sinh động. Còn khi nghe nhạc thì cảm giác khác hơn. Cái nét ngang ngang tinh nghịch ngầm không giống ai ấy biến dạng đi. Và thay thế là cảm giác của sự trẻ trung đầy nét lãng mạn. Đó là nhận xét thô thiển của riêng tôi, khi đặt mình vào vị trí người thưởng ngoạn…
Có một tập thơ của nhà thơ Nguyễn tất Nhiên mà hình bìa là hai tháp giáo đường cao vút với bức tranh của họa sĩ Nguyễn Thị Hợp. Đó là tập thơ Chuông Mơ mà Nguyễn Tất Nhiên xuất bản vào dịp Giáng Sinh năm 1999. bài thơ mà nhan đề được chọn cho tập thơ là bài thơ gửi về cho người xưa còn ở Việt Nam.
“chiều nay em còn mảng tóc mai
hay đã lao tâm luống bạc rồi
chiều nay vừa đến giờ tan học
hay vừa buông cuốc chặm mồ hôi?
Chiều nay em bước trên quê hương
Chắc tóc không còn óng ả chuông
Chắc chuông không mượt nâng tà tóc
Chắc tóc và chuông đã… đoạn trường!
Chiều nay em trên quê hương
Chắc chúa chẳng nhìn như mọi hôm
Bởi vì mắt Chúa và em đã
Lóng lánh vùi chôn lệ ngấn lòng
Áo em trắng cả sân trường trắng
Tan học trong đời anh thẩn thơ
Đời anh quên, nhớ, quên, nhiều lắm
Chiều chiều xứ Mỹ cũng chuông mơ.”
Nguyễn Tất Nhiên còn nhiều bài thơ khác . Như “Em hiền như ma soeur”, “Vì tôi là linh mục”… Và cũng được phổ nhạc thành những bài hát mà chưa bị thời gian làm cho phai phôi.
Có một bài thơ khá nổi tiếng của một nhà thơ người miền Nam Bộ. Bài thơ ấy cũng được phổ nhạc bởi nhạc sĩ Huỳnh Anh và nhạc sĩ Anh Bằng. Một bài thơ mà thành hai bản nhạc. Đó là bài thơ “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” bài thơ của Kiên Giang Hà Huy Hà.
Nhà thơ khi ăn mừng thượng thọ 81 tuổi đã mang bức di ảnh của người xưa để công bố một hình bóng nàng thơ áo tím, một nhân vật có thực của đời mình và là một hình bóng thân yêu trong bài thơ. Theo bài viết đăng trên web-site của nhà văn Lê Thiếu Nhơn thì nàng thơ của Kiên Giang Hà Huy Hà (tên thật là Trương Khương Trinh) là bà Nguyễn Thúy Nhiều, người bạn học của chàng hay đi ngang qua nhà thờ mỗi khi xem lễ với tà áo tím. Hà Huy Hà đã mang hình ảnh ấy vào thơ với cảnh giáo đường, với chuông nhà thờ. Và ông cũng lồng vào khuôn cảnh một thời tao loạn để có cảnh tử biệt sinh ly. Thơ Kiên Giang Hà Huy Hà rặc ròng âm hưởng Nam Bộ, có lúc thật giống với thơ Nguyễn Bính nhưng cũng có khi y khuôn như những câu ca dao của miền sông nước Cửu Long. Về khuynh hướng chính trị, Kiên Giang thiên cộng trong thời kỳ trước năm 1975 và là một người được chế độ Cộng sản cho tham dự vào các sinh hoạt văn chương sau 1975 nhưng dường như chẳng có đãi ngộ nào đáng kể mặc dù được xưng tụng là có hơn 60 năm phục vụ nghệ thuật cho cách mạng. Lúc đến tuổi hưu ông phải bán đi căn nhà nhỏ bé của mình và sinh kế cũng khá chật vật.
Đoạn đầu bài thơ:
“lâu qúa không về thăm xóm đạo
từ ngày binh lửa cháy quê hương
khói bom che lấp chân trời cũ
che cả người thương nóc giaó đường
mười năm trước em còn đi học
áo tím điểm tô đời nử sinh
hoa trắng cài duyên trên áo tím
em là cô gái tuổi băng trinh
quen biết nhau qua tình lối xóm
cổng trường đối diện ngó lầu chuông
mỗi lần chúa nhật em xem lễ
anh học bài ôn trước cổng trường
thuở ấy anh hiền và nhát quá
nép mình bên gác thánh lầu chuông
để nghe khe khẽ lời em nguyện
thơ thẩn chờ em trước thánh đường…”
Tình yêu rồi cũng phai phôi. Nàng áo tím đi lấy chồng. Chàng nghe ròn rã chuông xóm đạo như tiễn nàng vu quy. Rồi sau đó chiến tranh, và nàng áo tím ngày xưa đã thành chiến sĩ và chết dưới bóng cờ.
Và kết cuộc:
“Hoa trắng thôi cài trên áo tím
mà cài trên cỗ nắp quan tài
điểm tô công trận bằng hoa trắng
hoa tuổi học trò mắt thắm tươi
xe tang đã khuất nẻo đời
chuông nhà thờ khóc đưa người ngàn thu
từ đây tóc rũ khăn sô
em cài hoa trắng trên mồ người xưa.”
Hình như có một bản khác thì những câu thơ cuối bị sửa đi bằng ngôn ngữ khác. Đó là bốn câu thơ cuối của bài thơ đầu tiên. Về sau này, người chồng của bà Thúy Nhiều ghen tức khi bà này đặt tên con đầu lòng bằng tên ghép của hai người: chính mình và người thơ. Bản sau của bài thơ, Kiên Giang Hà Huy Hà sửa lại đoạn kết bài thơ là
“Lạy chúa con là người ngoại đạo
nhưng tin có Chúa ở trên trời
trong lòng con giữa màu hoa trắng
cứu rỗi linh hồn con Chúa ơi!”
Thơ Kiên Giang ngôn ngữ chất phác, những bài thơ như Xe Trâu hay Hoa Trắng Thôi Cài Trên Aó Tím nhờ sự hồn hậu bình dân biểu lộ tính tình của người dân Nam Bộ nên đã có vị trí trong thi ca Việt Nam…
Ít ai có giọng thơ như thế. Mặc dù có những nhà thơ sinh trưởng ở miền Nam nhưng giọng thơ thì đọc lên nghe âm hưởng của vùng địa lý khác, Thí dụ như Tô Thùy Yên chẳng hạn…
Đọc thơ ông, chúng ta thấy như cả một phương trời của sông nước Hậu Giang, của những tâm tình hồn hậu đơn sơ, của tấm lòng yêu quê hương đất nước. Bài thơ Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím với hình ảnh của xóm đạo, của những mồi tình ngây thơ, của một thời tao loạn chiến tranh đã tạo được nhiều cảm xúc cho người đọc. Cũng như bài thơ Tha La Xóm Đạo của Vũ Anh Khanh đã tạo một nguồn cảm hứng cho người đọc khi ngày Giáng Sinh về…
Nguyễn Mạnh Trinh