Nếp sống đạo một thời
Lịch sử xây nhà thờ làng Yên Phú là một lịch sử đầy oan trái. Những cánh đồng lúa của bổn đạo mới trong làng – như những luống cầy vỡ đất mà mỗi luống cầy hằn lên những đau thương, tủi nhục và mồ hôi nước mắt.
Cuộc đời của anh tôi
Chương Một
Thày mẹ tôi sinh được 9 người con. Một người anh trai tôi chết sớm ngay từ khi tôi chưa sinh ra đời nên tôi không biết mặt. 8 người còn lại chia đều bốn trai bốn gái. Như thói thường, thày tôi đặt tên cho bốn anh em trai tôi theo thứ tự: Thông, Phán, Ký, Lục. Bốn chức vị trong hệ thống hành chánh của thời Pháp thuộc và việc đặt tên cho các con ấy như một kỳ vọng. Kỳ vọng của thày tôi đã xảy ra có thể đã vượt cả niềm ao ước của thày tôi. Riêng anh Thông, người anh cả của tôi sau này trở thành một linh mục ưu tú của Địa phận Hà Nội cùng với các linh mục khác như Nguyễn Văn Vinh, Phạm Hân Quynh, Oánh, Nhân.
Và anh tôi đã để cả cuộc đời tận hiến phục vụ cho giáo hội cho đến khi lìa đời.
Trong một bút tích ngắn mà anh tôi đã để lại, tập Lời Thông Reo. Với nét chữ rắn rỏi, những dòng tâm huyết mãnh liệt, hùng tráng để lại như báo trước một định mệnh éo le và gói ghém trọn vẹn nỗi khốn khổ trong cuộc đời anh tôi. Trước ngày lên đường đi du học Âu Châu năm 1950, anh tôi viết lời nhắn nhủ các em:
“Đời anh đã cống hiến. Nó sẽ ngừng, sẽ tắt nhanh chóng trước một viên đạn hay chết dần theo thời gian, nó vẫn là một đời cống hiến. Lâu hay chóng không hệ. Trước hay sau không lo. Nó vẫn là một đời cống hiến. Trong nháy mắt hay trong những ngày tháng miên man, đời sống có thể dập vùi trong giây lát hay hy sinh chậm chạp dần dần.”
Đoạn nhắn nhủ trên vừa như lời nhắn nhủ khuyên răn, vừa như lời trối trăn, vừa ứng nghiệm vào chính cuộc đời anh tôi.
Từ Âu Châu du học trở về, thay vì ở trong Nam yên lành, anh tôi đã tình nguyện trở về Bắc năm 1955. Vài năm sau anh tôi đi tù, cộng chung là 23 năm. Lúc ra khỏi ngục tù cộng sản, dưới mắt tôi, anh tôi chỉ còn là một phế vật cả về thể chất và nhất là tinh thần. Trí óc không còn bình thường nữa. Những ngày đoàn tụ với gia đình, các em ở miền Nam cũng là những ngày cuối cùng của anh tôi trước khi lìa đời.
Tôi viết lại những dòng này trước là để tưởng niệm anh tôi và ghi lại cả một nếp sống đạo cả một thời của người công giáo miền Bắc, địa phận Hà Nội mà anh tôi là chứng nhân của Chúa, một linh mục miền Bắc đã bị giam cầm trong nhiều năm tháng.
Riêng phần các chị tôi ở trên, không hiểu tại sao, thầy tôi không đặt tên theo một thứ tự sắp xếp nào cả. Phải chăng là do vấn đề trọng nam khinh nữ? Trong bốn anh em thì sau này chỉ có anh cả tôi và tôi giữ nguyên tên cha mẹ đặt ra. Hai người kia tự đổi tên
Anh tôi trong câu truyện mà tôi sắp nói đến ở đây, chính là người anh cả tên Thông. Anh Nguyễn Minh Thông (1922-1991).
Theo tôi được biết sau này thì thày mẹ tôi là dân ngụ cư ở làng khác đến. Đó cũng có thể gọi là những cuộc di dân kinh tế. Thày tôi vốn có chút chữ nghĩa Hán văn và tiếng Việt nên cánh nhà giàu tin dùng cho làm sổ sách, đứng bán thuốc Bắc. Dần dà có tay nghề vững vàng xin ra ở riêng. Vốn chịu khó, không nề hà bất cứ việc gì nên cứ thế mà phất lên.
Làng tôi
Làng tôi ở là làng Yên Phú. Chính ra hiện nay là An Phú. An phú là an bình và trù phú có tiếng là đông nhất nên còn được gọi Nhất Xã, Nhất Thôn (Có nghĩa thôn lớn không thuộc thôn nào) Tiếng nhà đạo gọi là Kẻ Tâng. Bây giờ là xã Thanh Hương, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Xứ Kẻ Tâng chỉ cách Hà Nội 60 cây số. Nhưng thời ấy thì được coi là xa xôi lắm, vì có người cả đời không biết Hà Nội. Muốn đi Hà Nội, chúng tôi phải dùng xe tay do một người làng kéo lên hướng Bắc là tỉnh lỵ Phủ Lý, khoảng 10 cây. Bình thường, người phu xe tay là một tá điền. Nhưng khi có người muốn đi Phủ Lý thì anh kéo lên tỉnh. Lúc về thường kéo xe không.
Lên đến Phủ Lý rồi thì dùng xe ca chạy lên Hà Nội. Các xe thời 1945 còn chạy bằng hơi nước. Đằng sau có một nồi súp de đốt bằng than đá. Vậy mà cũng mất nửa ngày mới đến Hà Nội. Thời chiến tranh Việt-Pháp, do Việt Minh sau này là cộng sản đặt mìn nên đường nhiều chỗ có đầy ổ gà. Xe đi rất chậm để tránh ổ gà nên coi như đi mất trọn ngày.
Thời còn nhỏ, tôi chỉ được biết đây là xã lớn, nằm sát Quốc lộ 1A nên nhà ngói san sát với sân gạch với hàng cây cau thẳng tắp hai bên sân.
Vì là xã lớn nên làng còn có một con đường lát gạch bổ cau (lát xiên và dựng nghiêng viên gạch). Con đường này như một thứ Quốc lộ bấy giờ, nối Xóm Ngoài và xóm Trong. Xóm Trong thường nghèo nên phần lớn là nhà lợp tranh. Khi nào nhà dột chỉ dậm lại là xong. Nhà gạch hay nhà tranh là cách để phân biệt giàu nghèo. Nhà trung lưu có một thửa ruộng chừng một mẫu đất trở lên.
Vì cánh nhà giàu xụ có các ông Hậu Nhất, Hậu Nhì, rồi đến cánh các ông Nghị Hai, Nghị Ba đến Nghị Năm, Nghị Sáu. Trong các ông Nghị tôi chỉ biết rõ nhà Nghị N. vì là hàng xóm nhà tôi, chỉ cách một khoảnh vườn nhỏ. Ông Nghị N. to béo, phục phịch, mặc áo lụa mỡ gà. Dáng đấp đúng là một ông phú hộ giầu có cả từ phong cách đến cách ăn mặc đi đứng. Bà Nghị ngược lại gầy đét như con mắm. Nghe nói bà nghiện thuốc phiện. Các anh con nhà Nghị N. đều ăn nên làm ra, đi học Hà Nội và cũng có người đỗ đến tú tài. Thuở ấy, chỉ có anh Cả tôi và anh Tú Đ. Bên nhà Nghị N. là có bằng tú tài.
Về sự giàu có thì sao biết hết được. Người giầu có ở thôn quê thường có thói quen dấu của vì sợ trộm cướp. Nên cũng chỉ nghe nói chứ làm sao mà biết rõ hết được. Nhưng cứ nghe thiên hạ bàn tán về cái giầu của họ thì ghê gớm lắm. Cũng lại chỉ theo lời đồn nhà họ có cả trăm mẫu ruộng – loại ruộng chân nhất đẳng chứ không phải nhị đẳng hay tam đẳng. Và cũng chẳng thiếu một số ruộng mật điền. Chung quanh nhà thường có những bức tường đá tảng xây cao khoảng hai thước, trên lại còn có gắn các mảnh thủy tinh hay mảnh sành để ngăn cản kẻ trộm nhất là cướp.Trong nhà lại còn có nhà ngang, dãy dọc dành cho thợ thuyền, người ăn, người ở cả trăm người. Dù giàu có, nhưng họ ăn uống cũng tiệm tặn lắm chi li từng tý từ con tôm con tép đến quả cà dầm tương. Tôi đã có lần sang nhà họ chứng kiến họ đang ăn cơm. Trên chiếc mâm gỗ sơn son thiếp vàng, bát đũa đều có bịt bạc, vẽ hoa văn mầu xanh của chén xứ. Nhưng trên mâm chỉ vỏn vẹn vài cuộng rau muống dầm tương. Cái xa hoa nhất là một cái bát chiết yêu trong đó có thịt chim bồ câu bằm nhỏ, bỏ muối mặn, hai ông bà Nghị ăn cả tuần mới hết.
Họ ăn uống thanh cảnh và tặn tiện. Hồi ấy tôi cũng đã mường tượng thêm ra lối ăn uống của ông Bà Nghị với cái niêu đất nhỏ thổi được chừng 3, 4 bát cơm gạo tám ăn với thịt bồ câu bằm. Một góc xã An Phú cạnh Quốc lộ 1A, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Nguồn: Google Maps
(Còn tiếp)
Nguyễn Văn Lục
