“Hồ Sơ Về Lục Châu Học – Tìm hiểu con người ở vùng đất mới” của Nguyễn Văn Trung (I)
Tác giả Nguyễn Văn Trung, nguyên giáo sư đại học Văn Khoa Huế và Sàigòn là một người cầm bút quen thuộc và các công trình biên khảo của ông có một ảnh hưởng không nhỏ đến giới thanh niên ở miền Nam trước 1975.
Nhìn lại sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Văn Trung nhân đọc cuốn“Hồ sơ Lục Châu Học – Tìm hiểu con người ở vùng đất mới dựa vào tài liệu văn sử bằng Quốc ngữ ở miền Nam từ 1865 – 1930”
Ảnh hưởng về triết học cũng có, ảnh hưởng về xu hướng chính trị thiên tả cũng có.
Trong bối cảnh ấy, có lần Nguyễn Trọng Văn đã không ngần ngại gọi những người trẻ này là những đứa con hoang của Nguyển Văn Trung.(1) Chữ con hoang hàm ý tiêu cực mà Nguyễn Trọng Văn dành để chỉ thứ triết học hiện sinh – dưới mắt một người theo cộng sản – trở thành lỗi thời và chỉ có tính cách thời thượng.
Đó là cách nhìn, đánh giá chính trị có thể chẳng liên quan gì đến văn học – triết học.
Trong trường hợp tác giả Nguyễn Văn Trung. Ông có những chặng đường cầm bút đánh dấu một thời kỳ – đánh dấu thời tuổi trẻ và thời đã trường thành – đánh dấu giai đoạn sống trong ‘tháp ngà’. Lại có giai đoạn nhập cuộc. Chưa kể sau 1975, Nguyễn Văn Trung phải cầm bút theo đơn ‘đặt hàng’ của chính quyền cộng sản!
Người viết chỉ có hai nhận xét về sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Văn Trung.
Nhận xét thứ nhất là có một Nguyễn Văn Trung trước 1975 và một Nguyễn Văn Trung sau 1975. Trước 1975, ông là ngòi bút viết đa dạng từ triết học, văn học đến chính trị và cuối cùng là báo chí. Đồng thời để lại một số tác phẩm được xuất bản trong suốt thời gian đó.
Mỗi thời kỳ đánh dấu một giai đoạn cầm bút. Chẳng hạn giai đoạn làm báo là giai đoạn rời bỏ tháp ngà để dấn thân nhập cuộc. Giai đoạn sau 1975 chỉ làm nghiên cứu văn học là một lối lách chính trị. Đặc biệt, chính quyền cộng sản đã yêu cầu ông viết lại rất nhiều đề tài như Triết học hiện sinh, Hiện tình hồ sơ Hội Đồng Giám Mục – Vấn đề công giáo và dân tộc, v.v.
Phần lớn phần tài liệu này chưa được in thành sách.
Chưa kể khi ra hải ngoại, ông có viết một số vấn đề – như trong các Nhận Định 7 – 8 – 9 – 10 chỉ được in dưới dạng photocopy.
Số tác phẩm để lại cho đời trên thực tế chỉ là những gì viết trước 1975. Khoảng hơn 20 cuốn.
Đó là tất cả di sản tinh thần của một cuộc đời cầm bút miệt mài của một người trí thức miền Nam trong 20 năm.
Rồi cũng như số phận con dân miền Nam. Ông bị đi tù biệt giam!
Điều tiết lộ này có thể làm một số người không khỏi ngạc nhiên. Người ta quen gán cho ông nhãn nhiệu thiên tả đã đành mà còn là người theo cộng sản.
Theo cộng sản hay không thì để người cộng sản trả lời cho rõ.
Sau 1975, trên nguyên tắc, kể như ông và đa số người khác không được cầm bút.. Hầu hết các người cầm bút như các nhà văn miền Nam – ngay cả những người ra được hải ngoại – ngay cả những người nổi tiếng một thời. Hâu như có sự ngưng trệ, nghẽn mạch. Ngưng trệ vì bị cấm đoán không còn có cơ hội cầm bút. Nghẽn mạch vì dù có cơ hội cầm bút, nhưng lại không biết viết cái gì, viết cho ai, viết để làm gì?
Sự nghiệp văn học của họ dần đi vào tình trạng lão hóa khi tuổi tác càng cao.
Nhận xét thứ hai liên quan đến cá tính, con người tác giả.
Văn là Người! Phải chăng điều đó đúng trong trường hợp Nguyễn Văn Trung?
Một nhận xét nó sẽ liên quan đến cả sự nghiệp viết lách của ông mà nếu nắm được thì mọi chuyện thật trở nên dễ dàng.
Ông là loại người không thuộc về đám đông.
Về việc cầm bút, ông được xếp vào loại người cầm bút có vấn đề. Người nào, chế độ nào, tôn giáo nào có tham vọng muốn kéo ông về phía mình thường thất bại. Ông thường nói, tôi là người không chịu xếp hàng ngay cả không xếp hàng với cả những người không xếp hàng. Ông chơi với nhiều người, giao du nhiều loại bạn.
Người không hiểu ông, thường xếp lộn chỗ ngồi cho ông không ít. Vì thế người ta đội cho ông nhiều thứ mũ.
Phần ông đã quyết định ở lại. Đúng hay sai chỉ mình ông biết. Nhưng khi cho con trai đầu của ông vượt biên vào năm 1979 thì điều đó hẳn đã nói lên điều gì.
Sau 1975, công an khám phá ra thấy ông không nằm trong đường giây nào cả. Phải chứng minh được ai móc nối, hoạt động theo chỉ thị của ai. Ông không hoạt động theo sự móc nối thì đặt ra nhiều vấn đề. Thế thì đúng là “người được Mỹ CIA cài lại”. Trước 1975, ông cũng có gặp một số người Mỹ. Có người tố cáo. Thôi đúng là “CIA nó cài lại”. Ông đi tù.
Trát lệnh bắt ông vì can tội “phản cách mạng”.
Nhân viên chấp pháp là Ngô Văn Dần – tự Quang Minh – 6 tháng trời hỏi cung ông. Ông chấp pháp có nhận xét: “Người của CIA gì mà một câu tiếng Mỹ ăn đong cũng không biết?”
Sau này đáng lẽ hai người coi nhau như kẻ thù, họ trở thành bạn tâm giao.
Có lần ông Dần đến thăm ông Trung không gặp để lại thư:
“Mình đến thăm anh, nhưng anh đi vắng. Tối nay có rỗi, anh ghé chỗ mình chơi, ta hàn huyên chuyện đời. Nhà mình ở 39 – 2 Sương Nguyệt Ánh (Anh đã đến vài lần, còn nhớ không? Ngày 17/5/1979.”
Thế cho nên, cuộc đời cầm bút của ông Trung là phức tạp, nhiều vấn đề. Vấn đề của ông là vấn đề của vấn đề – vấn đề đụng chạm đến mọi phía: Quốc Gia, cộng sản, công giáo, Phật giáo, bảo thủ, chính trị tả phái hay hữu phái.
Nếu nói theo kiểu Sartre, ông có thể có người đọc mà không có công luận. Người đọc đọc ông – thích thú cũng nhiều. Nhưng công luận thì tỏ ra không còn đóng vai trò người đọc nữa mà trở thành những phán quan.
Đó là những loại giáo sĩ trị, ngay cả giáo sĩ Mác–xít trị. Quốc gia chửi đã đành. Cộng sản cũng không tha. Công giáo chửi đã đành, Phật giáo cũng không chừa.
Tôi đưa ra một tỉ dụ. Khi ông viết cuốn Nhận Định I. Xuất bản năm 1958. Ông nhận được không biết bao nhiêu sự ái mộ của độc giả qua việc mua sách. Sách tái bản đến lần thứ tư. Tuy nhiên, trong tập Nhận Định I có một bài công luận – qua giáo sĩ trị – không chấp nhận được. Đó là bài: Từ bi Phật giáo và Bác ái công giáo. Công giáo chính thức qua Đại Chủng Viện Bùi Chu trong tạp chí Ra Khơi do linh mục Trần Văn Hiến Minh, bề trên chủng viện Bùi Chu chủ trì, lên tiếng.
Sự lên tiếng của vị linh mục này vào thời đó được hiểu như một vạ tuyệt thông gián tiếp. Nguyễn Văn Trung từ nay đeo cái bảng rối đạo trên ngực.
Phật giáo trong tạp chí Nhân Loại có bài của Đường Minh với tựa đề “Đạo Phật không có từ bi?” Sau đó tiếp nối là vụ đánh hội đồng của Phạm Công Thiện trong Hố Thẳm của tư tưởng.
Công luận đã thắng lớn.
Lần tái bản sau đó, Nguyễn Văn Trung đánh rút bài đó ra.
(còn tiếp)Nguyễn Văn Lục
Nguồn: DCVOnline