Nhận định về ba vai trò của Bảo Đại: Vua, Cố vấn tối cao, và Quốc trưởng (P1)
Trong chương Hai cuốn S.M. Bao Daï Le Dragon D’Annam, nxb Plon, 1980, Bảo Đại đã viết: Empereur D’Annam. [Hoàng đế Annam, 1926-1945]. Chương ba, ông viết Conseiller suprême du gouvernement [Cố vấn tối cao chính phủ Hồ Chí Minh, 1945-1946] và chương bốn ông viết: Chef de l’État [Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam, 1949-1955, trong Liên hiệp Pháp].
Nhận định và đánh giá vai trò Bảo Đại nhà Vua, Bảo Đại Cố vấn tối cao và Bảo Đại Quốc Trưởng
Sự phân chia ba vai trò như thế giúp cho việc tìm hiểu, đánh giá ông trong mỗi thời kỳ thêm minh bạch và rõ ràng hơn. Thật ra thời kỳ ông làm Cố vấn tối cao cho chính phủ Hồ Chí Minh rất ngắn, 1945 đến 1946. Nó chỉ có tính cách tượng trưng cho tính thống nhất của Hồ Chí Minh. Tháng ba năm 1946, ông đã rời Việt Nam. Nhưng chính giai đoạn ngắn ngủi này lại rất lý thú, một trò lợi dụng, lừa đảo giữa đôi bên, giúp thấy rõ thêm bản lãnh của Bảo Đại so với Hồ Chí Minh.
Nhưng rất nhiều tác giả chỉ coi Bảo Đại (1913-1997) lúc nào cũng là vua và vì thế cách viết, cách ứng xử của họ, do nể trọng có nhiều thiên lệch và định kiến. Một trong những khuyết điểm lớn nhất của những tác giả nêu trên định kiến, muốn bảo vệ cái hào quang quá khứ của triều đình nhà Nguyễn qua nhân vật Bảo Đại. Nhưng đó là một nhận định sai lầm, thiếu dữ kiện lịch sử hay cố tình bôi bác lịch sử cho những tham vọng thấp kém và đầy ảo tưởng.
Chế độ vua quan triều Nguyễn đã cáo chung và Bảo Đại là vị vua cuối cùng triều Nguyễn đã không mang lại một chút hy vọng và tin tưởng nào cho dân chúng. Chỉ cần đảo mắt nhìn chung quanh các láng giềng của Việt Nam như Nhật, Thái Lan cho thấy đất nước cần những người lãnh đạo sáng suốt, vì dân như thế nào.
Khi viết về vua Bảo Đại, tôi căn cứ trên cuốn Hồi Ký đã nêu trên. Dĩ nhiên người ta cũng thừa hiểu rằng Hồi ký này không phải chính tay Bảo Đại viết. Ông đã nhờ một sĩ quan Pháp viết dùm. Cái khó chịu là trong Hồi ký lúc tác giả xưng hô ở ngôi thứ nhất, “Je”, nhưng ngay sau đó xưng ở ngôi thứ ba, “il”. Sự lẫn lộn như thế về mặt hình thức làm giảm giá trị cuốn sách đối với người đọc.
Nhưng thể Hồi Ký tự nó khó bảo đảm được sự thật. Trong các sách hồi ký của người Việt Nam cùng lắm có vài cuốn được coi là trung thực là cuốn Một cơn gió bụi của cụ Trần Trọng Kim và cuốn hồi ký của cụ Nguyễn Xuân Chữ (1898-1967).
Rồi từ đó, tôi nhận định xem điều gì ông không nói, không viết, điều gì ông che dấu sự thật nhờ vào sự so sánh với các tài liệu khác.
Cảm tưởng chung của người viết khi đọc cuốn Hồi ký của Bảo Đại là, thứ nhất ông thật ít nói đến đời tư, hầu như câm lặng. Hoặc chỉ nói nửa vời. Đời tư của ông vốn phức tạp, chiếm lĩnh hầu như cả cuộc đời ông như bao nhiêu vợ bao nhiêu mối tinh lăng nhang, tiền bạc, nhà cửa dinh thự nhiều vô số kể. Tất cả hoàn toàn không được nói tới. Sự không nói tới này tạm hiểu được.
Sự ít nói đó nếu chịu khó giải mã nhiều cách. Có thể như một quán tính, cái môi trường ông sinh ra, nơi ông đã sống 9 năm thuở nhỏ. Đó là cái môi trường trong nội cung đầy thù nghịch với trên dưới 10 ngàn người. Nhưng người có chức, có quyền phẩm chật khác nhau tranh dành nhau một mẩu quyền hành, bị thất sủng hay được ân sủng, bị truất phế hay bỗng chốc lên ngôi. 142 người con của Minh Mạng tranh chấp nhau cũng đủ nát triều đình cộng với 51 người con của Gia Long. Và chỉ có một chỗ ngồi cao trọng mà thôi.
Đó là bi kịch triều đình phong kiến, xã hội đa thê, bi kịch Nhà Nguyễn. Trị trong nhà không xong, nói chi đến trị nước. Ngoài chuyện ăn ngủ đã chiếm hết thời gian của họ, thời giờ còn lại là những toan tính, những âm mưu từ nhiều phía mà trước hết là phải biết sống còn.
Nghệ thuật biết sống còn là thứ cha truyền con nối trong chốn cung đình và lây lan ra bên ngoài như một thứ văn hóa dân gian vùng đất nghèo khó ngoài cung điện.
Phần còn lại là do giáo dục trong cung đình mà chính ông Bảo Đại được dạy dỗ. Trong cung đình có đủ hạng người, đủ mọi hệ phái, hệ phả từ các đời vua trước để lại nên có thể kèn cựa nhau, rình mò sơ hở của nhau để ám hại nhau.
Cho nên cách giữ mình tốt nhất là im lặng như không nhìn, không thấy để tránh tai họa đổ xuống khi lỡ miệng rồi bị dèm pha, tố cáo. Chính Bảo Đại viết như sau:
“Cette éducation de prince aboutissait à un véritable conditionnellemnt. ‘Un lavage de coeur’ qui devait écarter toute passion chez le futur empereur. Plus encore, le prince ne doit même pas avoir à maitriser ses sentiments, il les re foule. La sagesse dit: ‘Gardez votre bouche comme une jarre et vos pensées comme une forteresse.’”
(S.M. Bao Daï, S.M. Bao Daï Le Dragon D’Annam, Plon, 1980, trang 19)
(“Việc giáo dục một hoàng tử khởi đầu bằng một hình thức điều kiện hóa thực sự. “một thứ tẩy trái tim” bằng cách phải loại trừ mọi thứ dục vọng nơi nhà vua tương lai. Hơn thế nữa, hoàng tử còn cần phải chế ngự được các tình cảm của mình, phải biết dập tắt chúng. Đạo lý dạy rằng: ‘Thủ khẩu như bình. Phải che đậy các ý nghĩ của mình không để lộ ra ngoài,.’”)
Chính Bảo Đại thú nhận ông không bao giờ khóc hay bộc lộ sự buồn phiền. Ông đã đạt tới sự vô cảm, sự lạnh nhạt ở bề ngoài.
Chính nhờ sự biết kín đáo giữ mình này như một thái độ chính trị khôn ngoan, ông tránh được nhiều lần có thể đe dọa đến tính mạng của ông. Hay ít lắm, ông bớt được kẻ thù. Và cũng không thiếu người lầm tưởng sự im lặng, một thái độ chính trị của ông, và xếp ông là người hiền lành. Có thể nói, thái độ im lặng của Bảo Đại là một bản lĩnh chính trị cao hơn nhiều người khi phải đối đầu với người Pháp và nhất là với Hồ Chí Minh.
Ông hơn người ở chỗ ấy. Và sau đây là bằng chứng cụ thể.
Vẻ tráng lệ cổ kính của truyền thống Annam: các bà thái hậu tiếp bộ trưởng bộ thuộc địa tại hoàng cung Huế (1931)
Ở trong cùng là chiếc ngai vàng bỏ trống của hoàng đế An Nam [Bảo Đại] người đang du học tại Paris; phía sau ngai vàng là chân dung của vị vua trẻ; bên trái là ông bà bộ trưởng Paul Reynaud; phía sau ông bộ trưởng là các công chúa An Nam; bên phải là ông bà Pasquier, Toàn quyền Đông Dương.
Source: The ILlustration Newspaper of 1931, a weekly newspaper published in Paris, founded by Edouard Charton. The first issue was published on March 4Th 1843.
Khi ra Hà Nội làm Cố vấn tối cao cho chính phủ Hồ Chí Minh, cái thế chính trị của ông là quá bấp bênh; ông có thể bị Hồ Chí Minh thủ tiêu, ám hại dễ dàng bất cứ lúc nào. Chức cố vấn tối cao cho lúc nào thì mất lúc nào cũng dễ như thế. Ông thừa thông minh để hiểu điều ấy.
Kẻ thù trong cung, nếu có, chẳng nghĩa lý gì. Kẻ thù người Pháp, họ chỉ mong muốn có bạn, Bảo Đại có đủ tư cách để đối phó theo nghĩa là người bạn của nước bảo hộ. Ông có đủ tất cả mọi thứ trên đời này mà ông mong muốn, trừ chữ Độc Lập.
Nhưng đối với Việt Minh, ông chỉ có thể chọn lựa chữ sống hoặc chết. Ông đã chọn bằng mọi giá phải sống.
Ông và Hồ Chí Minh lần đầu gặp nhau đã khoác tay nhau đi dạo như những người bạn thân từ lâu ngày gặp lại nhau.
Trong các buổi họp hàng tuần thường kéo dài từ 9 giờ đến 13 giờ trưa, ông chỉ ngồi quan sát người khác mà không hề phát biểu. Thật không dễ để ngồi im lặng. Chỉ một lần khi Phạm Văn Đồng phát biểu là trong quỹ nhà nước chỉ còn có ba đồng 25 xu. Và để có tiền, đề nghị phải đánh thuế gián thu trên các sản phẩm tiêu thụ như như gà, vịt và trâu. Bảo Đại đã buột miệng nói: “Vous oubliez le chien.” Các ông đã quên còn con chó. Hồ Chí Minh cười.
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 136).
Công dân Vĩnh Thuy (bên phải), cựu hoàng Bảo Đại, sau khi thoái vị, sẽ là Cố vấn Tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh (tháng 8 năm 1945). Nguồn: Henri Estirac – Tháng 11 năm 1945
Và để kết thúc chương làm cố vấn trong thời kỳ này. Ông đã tự hào về sự khôn ngoan của mình như một kẻ từng trải. Nhưng đồng thời những điều tiết lộ của ông cho thấy trong 15 năm ở ngôi vua, ông đã chứng kiến biết bao điều trong nội bộ cung cấm của triều đình Huế. Ông viết:
“Bien qu’ayant le même âge que la plupart d’entre eux, mon expérience en ce domaine est beaucoup plus grande. Quinze années, passées à la tête de l’état, m’ont permis de connaitre tant d’intrigues, d’ambitions, de manoeuvres sordides, que j’ai acquis des hommes une profonde connaissance qui me laisse peu de doutes sur les véritables motivations de leurs actes.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 137)
(“Mặc dầu cùng một cỡ tuổi với phần đông những người trong bọn họ, nhưng kinh nghiệm về lãnh vực này của tôi thì hơn họ nhiều. 15 năm trong vai trò đứng đầu quốc gia đã cho phép tôi biết các thủ đoạn, những tham vọng, những mánh khóe bẩn thỉu mà tôi hiểu rõ con người nhờ đó giúp tôi hiểu những động lực sâu xa nơi những hành vi của họ.”)
Thứ hai, ông có một bản năng sinh tồn, một sự ích kỷ đến độ thản nhiên, vô cảm, trước mọi hoàn cảnh, mọi biến cố ngay cả đối với người ruột thịt. Ông chỉ biết có ông và chỉ ông mà thôi. Đừng tìm nơi ông bất cứ một sự thương xót, một chia xẻ, một tình cảm dù nhỏ nhặt nào. Trong cả cuốn hồi ký, không có chỗ nào, ông nhắc nhớ một lần đến con cái ông.
Ra ngoài Bắc trong lúc có nạn đói, đất nước rối beng, ông như được sổ lồng vẫn thản nhiên tìm thú vui chơi hưởng thụ. Khi quân Tầu sang Việt Nam giải giới quân Nhật, nhiều chính trị gia thuộc các đảng phái quốc gia như VNQD và Đồng Minh Hội, tất cả trông cậy vào ông. Họ đến gặp ông để yêu cầu ông đứng ra lãnh đạo Quốc Gia. Ông viết như sau:
“A toutes ces propositions, j’oppose une totale indifférence.”
(S.M. Bao Daï ibid., trang 138)
(“Trước những yêu cầu của họ, tôi phản đối một sự dửng dưng toàn diện.” )
Tuyên bố như vậy nhưng ông không làm gì cả. Và cũng không lạ gì sau này, đi bất cứ đâu, ở bất cứ hoàn cảnh nào, ông cũng tìm thú vui chơi mà gái là hàng đầu. Trong chuyến đi sang Trùng Khánh có Hà Phú Hương, một cán bộ cộng sản đi cùng để yêu cầu Tưởng Giới Thạch giúp vũ khí chống Pháp. Lúc quyết định trở về, một cách bất ngờ, cựu hoàng thông báo thẳng thừng:
“Quand vient l’heure du retour, l’ex-empereur annonce tout de go à ses compagnons qu’il ne reprendra pas le chemin de Ha noi. “je reste, dit-il, je vais faire du tourisme… et il ajoute: “si vous voyez ma femme, dites-lui que je suis en bonne santé.” Huong est furieux, explose, dit ce qu’il a sur le coeur depuis le départ.”
“Majesté, vous ne pensez qu’à bien vivre, aux femmes et aux jeux.”
(Daniel Grandclément, Bao Dai ou les derniers jours de l’empire d’Annam, nxb JC Lattès,1997, trang 225-226)
(Khi đến lúc phải quay về Việt Nam, cựu hoàng tuyên bố thẳng thừng với những người đồng hành với ông là ông không về Hà Nội. “Tôi ở lại, tôi sẽ đi du lịch.” Ông thêm: “Nếu gặp vợ tôi, nhờ các ông nói giúp tôi khỏe mạnh.” Hà Phú Hương nổi giận, không còn giữ được những điều kìm nén ông giữ trong lòng từ lúc ra đi đến giờ:
“Thưa Hoàng thượng, ngài chỉ nghĩ tới ăn chơi cho sướng, nghĩ tới gái và cờ bạc.”)
Trước một câu nhận xét nặng nề và xỉ nhục như thế. Cựu Hoàng chỉ cười.
“L’empereur sourit mais ne dit rien.”
(Daniel Grandclément, ibid., trang 226)
(“Cựu Hoàng mỉm cười nhưng không nói gì.”)
Mặc dầu đây chỉ là một giai thoại do Hương kể lại. Nhận xét của Hương đâu có sai sự thật. […] Rõ ràng là cựu hoàng không trở về với gia đình.
Một vấn đề chính trị cao siêu hay đơn giản chỉ là lo cho sinh mạng không bảo đảm an toàn, nếu trở về Hà Nội? Bỏ trốn hay chỉ là vắng mặt? Vấn đề này ông đã lưỡng lự lẩn tránh một cách quá khéo léo và nay thì câu truyện đã rõ ràng.
Người Pháp dùng ông đã không uổng công. Hồ Chí Minh muốn biến ông thành một hoàng thân Souphanouvong bên Lào, nhưng đã thất bại.
Tuy nhiên, trong Hồi ký của ông, ông lật ngược câu chuyện, ông cho rằng trước khi lên máy bay từ Côn Minh trở về Việt Nam, ông nhận được một điện tín của Hồ Chí Minh, nội dung như sau:
“Sire, tout va bien ici, prenez votre temps. D’ailleurs, vous nous serez très utile en restant en Chine. Ne vous inquiétez pas, dès que le moment de votre retour sera venu, je vous préviendrai. Reposez-vous bien pour les tâches qui nous attendent. Baisers fraternels. Signes: Hồ Chí Minh.”
(S.M. Bao Daï, ibid., trang 156)
(“Bệ hạ, bên này mọi chuyện đều tốt đẹp, ngài cứ thong thả. Đằng khác việc ngài ở lại bên Tàu sẽ tốt hơn cho chúng ta. Ngài đừng quan ngại gì khi nào cần đến sự trở về của ngài, chúng tôi sẽ thông báo cho ngài sau. Ngài cứ an tâm trước những bổn phận đang chờ đợi chúng ta. Một cái hôn tình nghĩa. Ký tên. Hồ Chí Minh.”)
Sau đó, Bảo Đại còn tả oán là hành lý cũng như giấy tờ tùy thân đều đã để trên máy bay. Nay ông ở lại một mình trơ trọi, không có cả quần áo để thay. Ông cho rằng Hồ Chí Minh đúng là một kịch sĩ lừa đảo. Ông ngồi xuống bậc thềm thì may quá có một người Tàu, ăn mặc theo lối Tây Phương đến chào ông. Hai người nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp và nhận ra từng học bên Pháp. Người Tàu tên Vu sau đó đã mời ông về nhà và câu truyện sau đó còn kéo dài với rất nhiều kịch tính.
Ông được ông bạn mới quen đưa về nhà và hơn một tháng dẫn đi ăn chơi, đi đây đi đó.
Ngày 15 tháng Chín, 1946, ông quyết định đi Hong Kong. Có nghĩa là ông Bảo Đại đã ở Trùng Khánh, bên Tàu nửa năm trời. Ông Bảo Đại đã không cho biết chi tiết đầy đủ về thời gian này.
Tuy nhiên, cũng theo Nghiêm Kế Tổ khi về nước kể lại thì có một số người như Lưu Đức Trung, Phạm Văn Bính, Đinh Xuân Quảng, Bùi Tường Chiểu sang Trùng Khánh gặp cựu Hoàng.
Để làm sáng tỏ thêm về chuyện bức điện tín của Hồ Chí Minh gửi cho ông Bảo Đại trước lúc lên máy bay là thật hay câu chuyện bịa, sau đây là một đoạn trong sách “Việt Nam Máu Lửa” của ông Nghiêm Kế Tổ, lãnh đạo phái đoàn sang Trùng Khánh như sau:
“Tháng 3 năm 1946, Nghiêm Kế Tổ, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao trong chính phủ Liên Hiệp Hồ Chí Minh dẫn phái đoàn sang Trung Quốc để tỏ tình thân thiện. Buổi tối, trước hôm đi, trong phiên họp riêng tại dinh chính phủ. (Cụ Hồ Chí Minh, Cựu Hoàng Bảo Đại, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Công Truyền, Hà Phú Hương) sau khi đã vạch rõ ý nghĩa cuộc đi và nhiệm vụ phái đoàn, Hồ Chí Minh quyết định cả Cựu Hoàng cũng sẽ cùng đi và phái đoàn phải cấp bách sửa soạn, khởi hành ngay ngày hôm sau. […] Đêm hôm đó sau cuộc Hội Nghị, Nghiêm Kế Tổ tới biệt thự riêng của Cựu Hoàng, rồi cùng sang nhà bên cạnh gặp Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam. Mọi người đều trình bày lợi hại, khuyên Cựu Hoàng nên xuất ngoại với tư cách một vị Hoàng Đế thoái vị đi du lịch. Cựu Hoàng đồng ý ngay.”
(Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam máu lửa, nxb Xuân Thu, tháng 7, 1989, trang 107)
“Sau một tháng giời, Cựu Hoàng vẫn ở lại Trùng Khánh. Riêng phái đoàn Nghiêm Kế Tổ trở về nước. Vấn đề đó là mặc nhiên như vậy.”
(Nghiêm Kế Tổ, ibid., trang 108)
Thêm một bằng cớ bội phản này, theo lời kể lại của Vũ Đình Hòe, cựu Bộ trưởng Tư pháp thời đó kể lại phiên tòa xét xử ông Cố vấn tối cao Vĩnh Thụy, một nhân viên của chính phủ được coi là đào nhiệm.
“Phiên xử diễn ra vào năm 1950-1951 trong đó tất cả thành viên chính phủ đều giơ tay biểu quyết xét xử, trừ ông Bùi Bằng Đoàn, Trưởng Ban Thường trực Quốc Hội, vì trước đây ông có giữ chức thượng thư trong triều đình Bảo Đại.
Tòa án Khu III do ông Lê Văn Chất làm chánh án, ông Bùi Lâm làm Công cán Ủy viên, một Hội thẩm chính trị là đại biểu quân đội, một Hội thẩm chuyên môn là ông Trần Đình Trúc, Thẩm phán do giám đốc khu III phái sang. Hai luật sư biện hộ là ông Đỗ Xuân Sang và ông Nguyễn Mạnh Tường.
Bản cáo trạng buộc tội rất đanh thép. Sau khi đã thực thi đủ thủ tục pháp lý và bàn luận kyc càng. Hội đồng xét xử đã ra phán quyết vắng mặt bị cáo: Tử hình đốí với Nguyễn Vĩnh Thụy về tội phản quốc.
Sau lời biện hộ của luật sư Nguyễn Mạnh Tường, bản án được ghi là:
“Tử hình vắng mặt, khi nào bắt lại được can phạm thì sẽ mở lại phiên tòa chứ không được thi hành cái án đã tuyên trước đó.”
(Vũ Đinh Hòe, cựu bộ trưởng tư pháp, kể chuyện về luật sư Nguyễn Mạnh Tường tại phiên tòa xét xử ông cố vấn Vĩnh Thụy. Đăng trên An Ninh Thế giới, tp Hồ Chí Minh, ngày, 23-8-2009
Phần trên đây giúp bạn đọc hiểu rõ hơn con người của Bảo Đại và sẽ giúp hiểu được vai trò của ông sau này như thế nào.
(Còn tiếp)
Nguyễn Văn Lục
Nguồn: DCVOnline