
Mụ Thi quăng mạnh xấp vải lên bàn nói trong tiếng rít hai hàm răng đã nhuộm đen:
-Ri nè! Ri nè! Tui đem trả lượi cho hội Phụ Nữ. Con dâu tui không cần chi mô na. Chừ tui trả nì. Mấy mụ lấy về mần chi thì mần, trao cho ai thì trao. Tui ẻ thèm.
Mụ Sen, hội trưởng hội phụ nữ xoa hai bàn tay vào nhau nhìn mụ Thi giả lã:
- Thôi Mụ! Răng mà mụ nóng giận ri hè! Ri là Ủy Ban và Hội Phụ Nữ họp và bình chọn. Răng ai lấy được mà mụ trả.
Mấy mụ ngồi họp im phăng phắc. Đây là quyết định bình chọn của Hợp tác xã, Chi bộ và Hội Phụ Nữ xã ai dám chống lại. Mặc dù con mụ là Sĩ Quan ngụy đi cải tạo chưa về nhưng mụ Thi có em trai mang lon Đại Úy đi tập kết ngoài Bắc mới về làng. Mụ có vai vế trong họ Nguyễn lẫn họ Phạm. Mặc dù mụ chỉ có một gánh hàng tạp hóa nhỏ bán ở chợ làng, nhưng thời buổi tem phiếu ăn độn muôn năm này mụ cũng có thớ lắm chứ. Động đến Mụ, lúc mưa to bão lớn, muốn kiếm lon ruốc hay lá thuốc Cẩm Lệ, mụ ghét không bán chịu thì mần răng.
Nhưng mấy O mấy mụ cũng ức lắm. Ai đời cả đám đàn bà con gái trong làng đua nhau làm lấy thành tích. Giành giật nhau từng điểm lao động trong hợp tác xã. Vậy mà cái quần lụa Bác Hồ thưởng cho Phụ Nữ xuất sắc nhất lại về tay con dâu Mụ Thi. Một người Sài Gòn, vợ ngụy quân coi có tức óì máu không kia chứ.
O Tú nhìn về phía Mụ Sen nói với giọng đầy bất mãn:
-Bầy choa là thành phần trong đoàn thanh niên. Lúc mô cũng làm việc hết mình để đóng góp cho sự đi lên của Hợp tác, của Đảng và nhà nước. Có chi khó mà bầy choa không xung phong đi trước. Răng mà Hội Phụ Nữ lại thưởng cho Mụ Chinh, một người Sài Gòn, là ngụy quyền, vợ ngụy quân không biết mần ruộng?”
Mụ Thi nhìn O Tú mắt muốn đổ hào quang. Mụ biết tranh giành cái quần lụa thưởng này là chị em nhà ôn Đa chứ không ai khác. Mụ không ngờ lũ cháu họ ngoại của mình chỉ vì mấy thước vải quần đen vô duyên này mà cấu xé với nhau. Cái khúc vải này hội Phụ Nữ vênh vang gọi là lụa Bác Hồ, nhưng mụ biết ngay đó là loại hàng xá xị tầm thường ngày xưa mụ cũng đã từng bán. Chỉ có miền Bắc chủ nghĩa nghèo đói mới thấy quý, chứ miền Nam thì chả ai thèm. Nhưng vì danh dự, vì "Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp" mụ không thể để con dâu mình bị người ta ăn hiếp. Mụ quyết phải làm một trận ra lẽ trước khi cầm xấp vải quần về.
- Rứa thì mi nói coi. Mi và hén ai biết trên biết dưới hơn ai. Người mô giành điểm hay hơn thua tranh chấp trong đội. Người mô bì nạnh giành việc nhẹ, giao việc nguy hiểm như xịt thuốc sâu rầy, cuốc hố bom cho hén. Mi xung phong đi trước hay mi cáo bệnh ở nhà. Tau không ra ngoài đồng nhưng tau biết hết. Mi còn con gái con đứa mà mi hỗn hào chanh chua, ai dám chọn mi làm phụ nữ xuất sắc. Xuất sắc ở chửi lộn hả? Tau khôn binh hén, nhưng tau phải lấy công đạo cho hén. Ở đây là Ủy Ban và Hội Phụ Nữ chọn chứ không phải hén xin.
Mụ càng nghĩ càng thương đứa con dâu miền Nam hiền lành đã theo chồng về đây. Ngày xưa, lúc thằng con độc nhất của Mụ viết thư nói là đã chọn được vợ. Mụ nửa mừng nửa lo tức tốc vào Nam. Mụ chỉ có một thằng con trai. Mụ ao ước nó cưới cho mụ một cô gái cùng làng để "Trâu ta ăn cỏ làng ta, trai làng lấy gái làng ta mới bền". Vậy mà thằng con đích tôn của dòng họ nhà chồng mụ lại phải lòng một cô gái Biên Hoà.
Mụ nghĩ thầm. Cái ngữ này chẳng biết làm ăn chi mô na. Chắc chỉ ăn với diện. Nhưng không cưới thì mần răng khi con trai mụ đã chọn. Mụ goá chồng từ năm 27 tuổi ở vậy nuôi con. Mụ chắt chiu lo cho con ăn học để nở mặt nở mày với làng nước. Mụ đặt hết hy vọng vào thằng con này. Bao nhiêu cô gái trong làng mụ ngắm nghé nó đều không chịu. Bây giờ nó đòi vợ khiến mụ mừng rơn. Thời buổi chiến tranh, con mụ đi lính ai biết được chết sống ngày nào. Thôi thì nó thương ai mụ cưới nấy để có cháu nội nối dõi tông đường.
Ngày gặp mặt cô gái, mụ lại hỡi ơi. Nó là con gái một, được cha mẹ cưng chìu. Vóc dáng nhỏ bé ốm nhom làm sao mà sinh con đẻ cái nhiều cho được. Mặc dù là cô giáo, có nhà riêng và cuộc sống ổn định nhưng nó nói năng bộc trực, không hề biết đãi bôi, nói những lời khôn khéo lấy lòng cho mát bụng mụ. Con nhỏ lại bày đặt vô Hướng đạo, tối ngày đi cắm trại với hát hò.
Ôi chao! Cái ngữ này Mụ biết mần răng mà ăn nói cùng làng cùng xóm. Và thế, Mụ gom góp tiền của, đóng cửa nhà, nhờ đứa cháu nhang khói dùm, mụ khăn gói vào Nam. Mụ cưới vợ cho con trai và ở luôn trong ấy.
Năm 1974 mụ thu xếp về Đà Nẵng nơi con trai mụ đóng quân. Con dâu mụ có mang đứa cháu nội đầu tiên. Mụ làm sức ép bắt nó phải thuyên chuyển về đây. Con dâu Mụ tiếp tục đi dạy học và sinh con. Tháng 3 năm 1975 Đà Nẵng mất, nghe lời đứa em trai đã tập kết ra Bắc trở về, mụ cương quyết cùng gia đình dọn nhà về quê. Một làng nhỏ bên bờ sông Ô Lâu thuộc tỉnh Quảng Trị:
- Chừ hoà bình rồi, mền về quê để lo hương khói tổ tiên mồ mả Ông Bà Cố Vãi
Đứa con dâu năn nỉ:
- Khoan đã mệ, Sài Gòn, Biên Hoà chưa biết ra sao, từ từ đã mệ. Nhưng Mụ nói dứt khoát
-Mi không đi theo thì mi cứ ở lại, tau đem con Thu đi.
Mụ bìết con dâu Mụ chỉ nói vậy thôi, chứ nhà mụ đã cho dỡ nóc rồi chỉ còn trơ trọi cái nền xi măng. Một mình nó tứ cố vô thân ở lại đây với ai.
Con dâu Mụ về làng, mang theo tất cả bi ai của một người mất sạch, trắng tay. Sài Gòn chưa mất, nó lo lắng cho cha mẹ anh em còn ở trong Nam. Nó đau thương, khổ sở như con chim cô đơn bị đạn không biết sống chết lúc mô. Nó lạ lẫm với ngôn ngữ và phong tục làng quê. Nhìn đôi mắt nó mụ như thấy lại mình khi 27 tuổi chồng mất sớm để lại cha mẹ chồng già yếu và 3 đứa con thơ. Mụ còn có cha mẹ, chị em và bà con làng xóm. Con dâu mụ theo chồng về đây tứ cố vô thân trơ trọi một mình.
Con trai Mụ cơm đùm gạo bới đi học tập chính trị. Nói 2 tuần sẽ về mà cứ biền biệt không tung tích. Mụ đi hỏi đứa em trai độc nhất, nay là Đại Úy Bộ đội phục viên. Nó trả lời như một bài học thuộc lòng:
- Chị yên chí, hắn mang lon Đại Úy, Đảng phải có thời gian để giáo dục cho hắn trở nên người tốt. Hắn có tội lỗi với nhân dân. Hắn học tập tốt, Đảng sẽ cho về”.
Con dâu mụ bị tịch thu hết giấy tờ dạy học. Và Đảng, cũng chính thằng chủ tịch xã đại diện Đảng ra lệnh cho nó không được dạy học, phải lao động chân tay tốt thì chồng mới sớm được khoan hồng. Như vậy, con dâu mụ đem hết áo dài nhét dưới đáy rương. Khoác bộ áo lính của chồng, xuống ruộng đồng tham gia hợp tác xã.
Hắn là con cưng, đâu có biết làm ruộng ra răng, mụ cũng rứa, mặc dù sinh ra ở cái làng chuyên về ruộng nương, nhưng mụ đã buôn bán từ thuở còn con gái đến chừ. Ngày đầu tiên đi họp đội về, hắn nói với mụ là Đội phân công hắn giữ con trâu Bầu ngày mai. Nó hỏi mụ: ” Con trâu nó có chém mình không hở mệ? ”.
Mụ tức nghiến chặt hai hàm răng lại với nhau. Mụ biết họ đang tìm cách để hành hạ con dâu mụ. Mới ngày đầu tiên chúng đã bắt nó đi chăn trâu. Con dâu mụ là cô giáo, cả đời ăn học, làm sao biết giữ trâu. Mụ tính đi tìm ôn Đội trưởng để hỏi ra lẽ. Nhưng nghĩ tới nghĩ lui lại thôi. Trước sau gì nó cũng phải đối đầu thực tế. đây là lúc thử thách, để nó nhập gia tùy tục, thực sự va chạm với gian lao. Xem thử nó làm dâu nhà Mụ như thế nào. Mụ bảo con dâu: " Mai mi cứ dẫn trâu đi theo mấy đứa chăn trâu các đội. Trâu nó quen bầy, họ làm răng mi làm rứa”.
Con dâu Mụ ít nói nhưng nó cũng nhiều nghị lực. Mụ biết nó sẽ làm được tất cả. Rồi nó sẽ biết làm cách nào để chăn dắt, gần gũi và điều khiển con trâu. Những ngày đầu nó không biết cỏ mô trâu ăn được, cỏ mô trâu chê nên nó luôn bị trừ điểm lao động. Có lần nó hớt hải chạy về Đội, kêu đội trưởng ra sông dẫn trâu nó lên. Chẳng là trưa phải cho trâu mẹp. Hôm đó mấy đội khác cũng cho trâu về tắm chung một chỗ. Làm sao nó tìm được con trâu Bầu trong cả mấy chục cái sừng trâu nhô lên mặt nước.Thấy bộ mặt con dâu lo lắng, gầy gò trong bộ đồ lính rộng thùng thình.mụ Thi muốn rớt nước mắt. Con gái người ta cho ăn học tốt nghiệp đàng hoàng làm cô giáo, lấy con mụ giờ về làm dâu chăn trâu, cắt cỏ. Chi mà thảm như ri.
Năm đó không biết răng trời lạnh chưa từng chộ. Cá ở dưới nước nhảy lên bờ ruộng chết hàng loạt. Con dâu Mụ phải đi cấy đi cắt như mọi người.Tội nghiệp, nó sinh trưởng ở miền Nam nắng ấm chưa từng chịu cái lạnh cắt da như ni. Dân làng ăn trầu, hút thuốc lá, ăn cơm với ruốc kho ớt thật cay để giữ ấm. Còn con dâu Mụ không biết ăn cay lại sợ lạnh. Mụ gói cho nó mấy lát gừng và bảo nó mặc nhiều áo, vậy đó mà nó vẫn run vì lạnh cóng. Mỗi lần đi cấy về mụ lại thấy nó ướt nhẹp. Hỏi thì nó nói trong nghẹn ngào với hai hàm răng đánh vào nhau lập cập: ” Lạnh quá hai chân con không bước được nên té dưới ruộng”.
Đi cấy theo đoàn đội mà cấy chậm thì thế nào cũng bị đỉa bu theo cắn. Nhìn con dâu với 2 bắp chân tươm máu Mụ thấy dường như mình đã làm sai. Mụ ân hận trong lòng. Giá lúc trước mình suy nghĩ kỹ mà ở lại Đà Nẵng thì giờ này có lẽ nó vẫn còn được Cách Mạng cho đi dạy, con trai mình không đến nỗi bị đày đi xa ...Mụ không dám nghĩ tiếp vì mụ nghe loáng thoáng tin là nó đã bị đưa ra tận ngoài Bắc để cải tạo tư tưởng.
Mỗi ngày con dâu mụ đều phải đi làm theo phân công đoàn đội. Cuốc đất, bứt tót, cấy hay gặt lúa đều dàn hàng ngang mà làm. Ai nhác lười là biết ngay. Buổi chiều sau khi xong một ngày lao động thì họp tổ ngay ngoài ruộng để bình điểm. Mỗi người phải tự nhận xét và cho điểm mình. Rồi cả tập thể phê bình đến thống nhất quan điểm mới qua người mới. Lần nào con dâu Mụ cũng chẳng chịu cho điểm mình. Hắn nói :”Tui không biết làm ruộng. Tui vô hợp tác để học làm theo mấy mụ , mấy ôn. Mấy mụ cho bi nhiêu điểm cũng được”. Hắn biết với sự thay đổi chế độ, hắn bị thua sát đất, bị đì đến tận cùng thì hơn thua còn ý nghĩa gì. Hắn không cãi vã, không đòi hỏi quyền lợi, không làm mất lòng ai, và lẽ dĩ nhiên điểm hắn rất ít.
Có hôm về nhà tối mịt, hắn ăn qua loa mấy miệng cơm độn khoai, cho con bú rồi ngủ luôn với cái quần còn xăng lên khỏi đầu gối. Từ ngày bỏ thành phố về đây, con dâu mụ thay đổi hoàn toàn. Hắn ít nói, trầm buồn, lầm lũi, chăm chỉ như một người máy. Mụ chửi thầm: ”Tổ cha mệ nội cái quân chi mô mà ác như rứa. Con dâu mụ dạy học có bằng cấp đàng hoàng, không cho nó đi dạy. Đưa mấy đứa viết chữ như con trùn bò về dạy ở làng."
Cứ sẫm tối là kẻng đội lại vang lên đi họp. Họp hành chi mô mà tới nửa khuya, con dâu mụ lầm lũi về, lập loè với cây đuốc rơm để giữ lửa. Cứ nghe tối có họp đội là mụ đã nấu sẵn cơm buổi chiều, ém vào mo cau cho ngày mai hắn kịp đi lao động sớm.
Nhà neo đơn, không đủ phân Bắc giao nộp, Mụ và con dâu làm phân xanh, phân chuồng giao nộp cho hợp tác để đủ chỉ tiêu. Nhìn nó lăn lóc với đống phân hôi thúi, mụ chạnh lòng nghĩ đến sui gia. Nếu ông bà biết được con gái họ vất vả như thế này chắc đau lòng lắm. Mụ nghĩ đến con trai Mụ. Ở đây quê hương làng xóm mà vợ hắn còn cơ cực thế này, con trai mụ bị đày lao động tận ngoài Bắc rừng thiêng nước độc không biết hắn còn có mạng trở về hay không?
Mỗi ngày, dù ăn cơm độn sắn, độn khoai, con dâu mụ cũng phải bớt một nắm gạo bỏ vào hũ gọi là hũ gạo nuôi quân.Mụ ấm ức nhất là đôi ba hôm, Ủy ban lại ra lệnh cho gia đình mụ lo ăn ở cho cán bộ cấp trên về họp. Mồ tổ nó, mẹ con mụ phải nhịn ăn, cơm nước ngày ba bữa nấu dọn lên cho cho cán bộ. Cứ nhìn mấy ả quần lửng, áo chẻn giống như con chó cụt đuôi ăn trên ngồi trước là mụ sôi gan. Mụ tức lắm nhưng đành phải nhịn vì an toàn cho con trai, con dâu mụ.
Mụ cũng không phải tay vừa. Mụ phải cho cả làng thấy con dâu mụ không thua ai. Mụ không cưới lầm người. Mụ bắt hắn trồng ớt, trồng nén, lôn khoai, lôn đậu. Cứ giữa vụ lúa, hợp tác xã chia đất canh tác thêm cho xã viên theo đầu lao động. Chỗ nào người ta chê, mụ lấy thuốc lá đổi đất rồi bắt con dâu làm. Nhiều người xấu miệng nói mụ ác, mụ ức hiếp con dâu. Nhưng ai có hiểu cho lòng của mụ. Mụ nhìn con dâu gò lưng trên đám đất khô cằn, nhìn hắn đầm đìa mồ hôi trên khuôn mặt đen đúa. Mụ cũng xót xa lắm chứ. Mụ nghĩ trong bụng: "Phải tập cho hắn quen lần với cuộc sống ở đây. Nếu lỡ mụ chết, nếu con trai mụ không về, hắn phải biết làm để mà còn lo cho cháu mụ." Mụ bắt hắn lên độn kiếm củi, trồng sắn trên nương xa, xuôi ghe đi cấy lúa ruộng sâu, đi cả ngày đàng đạp nước ruộng cạn. Hắn phải làm tất cả kể cả làm vui lòng họ hàng, làng nước, gia nương nhà mụ.
Được cái con dâu Mụ biết thân biết phận hắn lầm lì làm việc. Hắn không hề cãi mụ hay chống đối. Hắn cũng không hơn thua tranh chấp với ai trong đội trong đoàn. Ai nói gì, làm gì hắn cũng cười. Mụ nghe được mụ không cười. Chờ dịp Mụ chửi thẳng mặt cái quân ăn đàng sóng, nói đàng gió. Mụ biết, trái tim con dâu Mụ chết rồi. Hắn vì chồng, vì con nên hắn làm bằng tất cả nghị lực. Hắn thường nói với Mụ: ” Chúng con cùng đi cải tạo mà mệ. Ở đây con còn có mệ, chứ ảnh còn tội hơn con, lẻ loi một mình.”
Vậy đó, con dâu Mụ tội nghiệp vậy đó. Ở cái làng này, cái hợp tác xã này có ai hiền hơn hắn, có ai nhịn hơn hắn. có ai thương con trâu Bầu hơn hắn. Mụ nhớ lần bầu cử. Uỷ ban bắt hắn phải cột và chăn con trâu Bầu ở trước Uỷ ban. Hắn đứng bên con Bầu, chăm chút bắt ve, cho trâu ăn cỏ và nói chuyện với nó. Nét mặt hắn bình thản đến đáng sợ. Hắn chào hỏi mọi người như không có việc gì xảy ra. Mụ uất đến nghẹn lời. Mụ tức đến phát bệnh. Hắn nói: ” Mệ giận chi cho bệnh, cực thân Mệ mà cũng cực thân con. Họ muốn con phải tức. Con phớt tỉnh coi họ như trâu. Mà không, thua con trâu Bầu này nữa. Thế là xong.”
Bây giờ hắn được thưởng cái quần lụa. Mụ biết tẩy ruột gan Ủy Ban muốn gì ở con dâu Mụ. Con dâu Mụ có ăn học, có chữ nghĩa, biết tính toán. Lần trước kiểm tra nếu không có nó thì Đội trưởng đã chẳng phải đền mấy tạ phân bón thất thoát hay sao. Họ dụ con dâu Mụ làm thư ký hợp tác xã. Hắn nói hắn không biết ruộng nương, không thuộc tên điền thổ nên hắn từ chối. Hội Phụ Nữ nhảy vô can thiệp. Cuối cùng con dâu mụ ra điều kiện. Hắn xin xuôi Nam một chuyến thăm gia đình rồi khi về sẽ nhận nhiệm vụ. Mụ thức hết mấy đêm suy nghĩ, mụ nuốt nước mắt vào lòng, rỉ tai con dâu mụ thầm thì: ”Cái gì mi đem được thì đem. Mi về ở lại với Ôn Mệ ngoại con Thu. Đừng trở lại đây, đừng lo cho mệ”. Con dâu Mụ sững sờ nhìn mụ rồi ôm mụ khóc nức nở.
Bây giờ con dâu mụ đang ở trong Nam. Dù sao trong Nam mụ nghĩ cũng không khắc nghiệt làm đoàn đội như ở đây. Mụ nhìn xấp vải đen trên mặt bàn rồi thở dài. Mụ thương con dâu mụ hiền lành. Mụ lo cho con trai mụ trôi dạt trên núi trên ngàn. Mụ nhớ quá chừng đứa cháu nội đích tôn mụ đã cắt ruột cho đi theo mẹ.
Mụ không muốn tranh chấp nữa. Mụ đứng lên, cầm lại xấp vải, nói một cách dứt khoát:
“Ri thì không O mô Mụ mô khiếu nại nữa hỉ? Mụ tra tui cầm cái quần ni về cho hén. Chờ mai tê hén trở lượi, hén mặc để đi họp hội Phụ Nữ”.
Mụ Thi bước ra khỏi phòng họp đội. Gió ngoài sông Ô Lâu thổi vào mát rượi. Mấy chiếc ghe câu đang đánh gõ lốc cốc dồn dập. Họ vây cá vào một khoảng sông và tung lưới. Mụ thầm nghĩ:
- Giờ ni trong Sài Gòn hai mẹ con hắn chắc đã ngủ ngon rồi.
Giải phóng đất nước xong, mọi người dân cũng giống như đàn cá trên sông bị lùa vào một chỗ và họ tung lưới tóm gọn hết thảy.
Khổ biết bao nhiêu.
Nguyễn Thị Thêm.