HAI CÁI TẾT TRONG TRẠI CẢI TẠO
Tháng 6 năm 1975, các sĩ quan cấp uý của QLVNCH được lệnh đi trình diện học tập cải tạo. Thông báo của ban quân quản cho biết mỗi người phải mang theo tiền bạc, thức ăn khô đủ cho 10 ngày. Ai nấy đều “ hồ hỡi” hăng hái đi trình diện vì trước đó binh sĩ và hạ sĩ quan đã được tập trung tại chỗ để học tập 3 ngày rồi được trả tự do về với gia đình.
Tôi là thành phần giáo chức biệt phái , năm 1967 đang dạy học thì được lệnh gọi nhập ngũ khoá sĩ quan trừ bị. Khi mãn khoá tôi ra đơn vị tác chiến và khi ông Trần Văn Hương lên làm thủ tướng thì tôi được biệt phái về dạy học lại nhưng vẫn là một quân nhân nên theo thời gian được thăng cấp, đến ngày 30/4/1975 cấp bực cuối cùng của tôi là trung uý. Do đó, tôi vẫn bị tập trung cải tạo như các sĩ quan cấp uý thuần tuý khác.
Vợ tôi lúc đó đang mang thai đúa con đầu lòng của chúng tôi. Dù vậy, nàng vẫn chở tôi trên chiếc Honda dame đưa đến trường Pétrus Ký để trình diện.
Sau khi “đăng ký” tên họ, cấp bực với một anh bộ đội ngồi trên một cái bàn đặt gần cổng trường, tôi được một anh bộ đội khác có mang súng dẫn vào một lớp học bỏ trống, trong đó có sẵn một số người đang ở. Mọi người hỏi thăm nhau tên họ, cấp bực, đơn vị… và bàn bạc về chương trình học tập sắp đến. Không ai biết mình sẽ học những gì, tôi nghĩ thầm rằng học gì cũng được ráng qua 10 ngày là xong.
Chiều hôm đó có xe của nhà hàng Đồng Khánh đem cơm với thức ăn đến cho chúng tôi. Ai nấy đều ngạc nhiên về sự đối xử ân cần của “cách mạng” với các sĩ quan bại binh chúng tôi.
Ngày hôm sau cũng thế, chúng tôi chỉ việc ngồi chơi, chuyện trò với nhau và vẫn được “đãi ăn” nhà hàng hai bữa.
Nhưng nửa đêm ngày thứ hai, rạng sáng ngày thứ ba, chúng tôi đang ngủ say thì nhiều toán bộ đội, tay cầm súng AK tiến vào các phòng gọi chúng tôi dậy mang vật dụng đem theo ra cổng. Ngoài đường có rất nhiều xe molotova đậu sát lề. Họ bảo chúng tôi leo lên xe. Mỗi xe chứa vài chục người. Leo sau cùng là hai anh bộ đội, họ ngồi hai bên ở cuối xe, súng kẹp bằng hai đầu gối.
Đoàn xe phủ bạt bịt bùng băng đi trong đêm tối khi dân Sài Gòn còn chìm trong giấc ngủ. Chúng tôi lo lắng không biết họ đem chúng tôi đi đâu, đem đi xử bắn chăng?
Xe chạy độ hơn một giờ thì ngừng lại. Một anh bộ đội leo xuống rồi hô to: anh nào mắc đi giải thì xuống xe đi “khẩn trương” lên. Một số người leo xuống đứng tiểu ngay bên đường, anh bộ đội vẫn cầm súng canh chừng phía sau chúng tôi. Anh thứ hai ở trên xe canh chừng những người ở lại trên xe.
Khi mọi người đã lên xe hết , đoàn xe tiếp tục chạy. Độ một giờ sau đoàn xe chạy chậm lai, một anh liều lĩnh hé bạt nhìn ra ngoài và thốt lên: “Tây Ninh”.
Trời sáng dần và đoàn xe dừng ở phi trường Trãng Lớn. Một số bộ đội đứng chờ sẵn và nhận chúng tôi và chia ra nhiều toán, mỗi toán được dẫn vào một cái nhà dài.
Vào trong, họ bắt nhóm chúng tôi ngồi xuống và chia chúng tôi thành ba nhóm nhỏ gọi lần lượt là A1, A2 và A3 (A là tiểu đội). Cả nhóm tôi thì được đặt là B1 (B là trung đội). Còn nguyên đoàn chúng tôi là K5 (K là đại đội).
Sau khi chúng tôi chia chỗ nghỉ và cất đồ đạc thì một anh bộ đội có mang súng đến căn nhà chúng tôi bảo lấy ba người đi lãnh gạo và nồi về nấu cơm cho cả B ăn. Anh bộ đội dẫn ba anh ấy đi rồi một lát sau trở về với hai bao gạo và một cái nồi to tướng.
Một số anh tình nguyện làm "anh nuôi"(nấu bếp). Họ chạy đi tìm những cục gạch để kê làm bếp và những cành cây hay khúc gỗ quanh đó để làm củi. Họ lấy nước ở một vòi nước gần đó. Khi cơm nấu xong, các anh nuôi phân phát cho mọi người. Ai cũng mang theo đồ ăn cho mười ngày nên có cơm thì mọi người ăn rất ngon lành.
Những ngày sau, chúng tôi nằm chờ giờ cơm và đếm từng ngày mong đến ngày thứ mười. Rồi ngày thứ mười cũng đến nhưng chúng tôi chẳng thấy gì xảy ra. Mọi người trở nên bi quan. Có người đoán phải học chính trị xong mới được về. Có người đoán chắc không có ngày về. Cành cây khô, gỗ vụn... chung quanh trại không còn nữa, chúng tôi phải cưa những cây dầu làm trụ điện để làm cũi. Cán bộ bắt chúng tôi đào hố chôn những máy móc trong phi trường như máy cắt, máy tiện, máy cưa, máy đèn...họ cho là đồ của Mỹ, Ngụy không nên dùng.
Một tháng trôi qua, một đêm nọ, cán bộ bảo chúng tôi thu xếp hành trang để chuyển trại. Có người ngây thơ nói chắc là họ thả mình về. Nhưng đa số tin rằng họ sẽ đem giam chúng tôi ở chỗ khác. Cũng cảnh mấy anh vệ binh áp tải chúng tôi lên xe molotova phủ bạt bít bùng và khởi hành giữa đêm khuya như lần ở trường Pétrus Ký.
Khi đòan xe dừng lại đổ chúng tôi xuống một doanh trại. Vài người kêu lên; Long Khánh. Thì ra họ là những sĩ quan của sư đoàn 18 nên biết địa điểm này. Chúng tôi được đặt tên là K3 (đại đội 3) nằm trong T4 (tiểu đoàn 4) ở chung một doanh trại với các K khác.
Tôi ở B3 (trung đội 3), gồm toàn sĩ quan gốc giáo chức. ở chung trong một nhà dài. B trưởng là Sơn già, một anh giáo viên tiểu học người Bắc lớn tuổi nhứt trong B. A trưởng A1(tiểu đội 1) của tôi là Sơn nhỏ, một giáo sư đệ nhứt cấp người Nha Trang. T5 nằm ở doanh trại bên cạnh.
Ngày hôm sau, khối chúng tôi tập hợp ngoài sân để quản giáo nói chuyện. Anh ta nói rằng chúng tôi được chuyển về đây để học chính trị, học xong chúng tôi sẽ được thả về sum họp với gia đình. Anh ta còn nói thêm, sở dĩ chúng tôi phải học chính trị là để trở thành” người tốt trong xã hội mới”. Chúng tôi có “nợ máu với nhân dân” nhưng đảng khoan hồng không giết chúng tôi mà chỉ muốn cải tạo chúng tôi thành người hữu ích. Tôi nhớ lại câu nói để đời của tỏng thống Nguyễn Văn Thiệu: "Đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy nhìn những gì cộng sản làm" mà nghĩ rằng ngày về với gia đình của mình vẫn còn xa. Trước khi chúng tôi đi trình diện họ bảo mang thức ăn, tiền bạc đủ dùng cho 10 ngày nhưng đến nay hơn một tháng mà ngày về đâu chưa thấy.
Lớp học chính trị trong trại cải tạo
Sau vài ngày lao động lòng vòng trong trại, chúng tôi bắt đầu được phát giấy bút để bắt đầu học tập chính trị. Chúng tôi được tập trung tại hội trường để nghe chính trị viên T4 giảng bài. Tôi còn nhớ có tất cả 10 bài học chính trị có chủ đề: Đế quốc Mỹ xâm lược nước ta là kẻ thù của nhân dân ta, Ngụy quân, ngụy quyền, tay sai của đế quốc Mỹ là kẻ thù của nhân dân ta...và bài cuối cùng là Lao động là vinh quang. Thời gian học các bài chính trị kéo dài khoảng một tháng, sau mỗi bài học chúng tôi chia thành tổ thảo luận rồi bình bầu cá nhân xuất sắc Mỗi người làm một bài thu hoạch nộp cho quản giáo (cai tù).
Học xong các bài chính trị, nhiều người “hồ hởi” (vui mừng) tin rằng mình sắp được thả về, Riêng tôi vẫn nghĩ rằng mình sẽ còn bị giam giữ lâu dài. Cứ vài ngày, chúng tôi phải làm và nộp cho quản giáo một tờ khai “lý lịch trích ngang”. Ban đầu tôi tưởng những giấy tờ này sẽ được cán bộ giữ để nghiên cứu và điều tra “quá trình” hoạt động của chúng tôi trong hệ thống chính quyền và quân đội VNCH. Nhưng một hôm khi đi vệ sinh, tôi bắt gặp những tờ tự khai của đám cải tạo chúng tôi nằm phía dưới hố tiêu. Tôi nghiệm ra rằng đám quản giáo chẳng buồn xem các tờ khai đó làm gì mà chỉ dùng theo bản năng. Có nhiều anh cải tạo cố nặn óc khai cho mình nhiều tội với “cách mạng” như anh lám thầy giáo tự tố cáo mình đã đào tạo học sinh thành ‘lính ngụy ác ôn”, anh bác sĩ quân y tự thú đã chữa lành cho những tên”đồ tể” trong quân lực VNCH. Họ nghĩ rằng nếu họ ‘thành thật khai báo” thì sẽ được “cách mang khoan hống” cho về sớm!
Rồi thời gian trôi qua, chúng tôi tiếp tục cuộc sống của những tên tù khổ sai. Quản giáo phân công chúng tôi làm những công việc khác nhau trong trại.
Về phần ăn uống, họ cho một số người trong khối làm “anh nuôi” nấu mỗi bữa ăn một chão cơm khổng lồ rồi phân phát cho các B, rồi B phân phối cho các A. Mọi người trong A ngồi quanh quần bên rổ cơm. Một anh đến phiên trực chia đều cơm cho mỗi người. Cũng nên thông cảm vì bản năng sinh tồn, có nhiều anh chia cơm đà ém chặt phần cơm của mình cho nhiều hơn người khác. Các anh làm trong nhà bếp được hưởng phần cơm cháy dưới đáy chão như bonus.
Thức ăn thì mỗi người tự lo lấy chứ trại không cung cấp.
Tình hình ăn uống trở nên khá hơn khi trại cho phép tù gởi thơ về gia đình để xin tiếp tế thức ăn khô. Thơ không được dán kín để trại kiểm soát nội dung. Do đó anh tù nào cũng nói dối với gia đình rằng mình đang “lao động tốt, học tập tốt” để chờ ngày “cách mạng khoan hồng tha cho về sum họp với gia đình”. Không biết từ lúc nào người tù cải tạo nhiễm cách ăn nói đao to, búa lớn và sáo rỗng như vậy dù mới “học tập” chưa đầy một năm, Bỡi vậy, chúng ta đừng ngạc nhiên khi về Việt Nam nghe thấy những danh từ “lạ” (giống như tàu “lạ” đâm chìm tàu ngư dân Việt Nam) tràn ngập trong xã hội Việt Nam như: hoành tráng, ấn tượng, ùn tắt, siêu xe, đại gia, biệt phủ..thay cho những từ ngữ dễ hiểu như to đẹp. gây chú ý, kẹt xe, xe đắt tiền, nhà giàu, biệt thự...
Mỗi người được phép nhận 4 kg quà do gia đình gởi vô: đường, bột ngọt, khô hay thịt chà bông...đặc biệt là thuốc tây. Ở trong trại, mỗi khi tù bị bệnh lên trạm xá (trạm y tế} xin thuốc thì dù họ bệnh gì cũng đều được phát cho nhưng viên thuốc “xuyên tâm liên”. Kể từ đó, người tù đỡ lo hơn về mặt dinh dưỡng và sức khỏe, chỉ tội những người tù “con bà phước” (không có thân nhân) thì chỉ biết thèm thuồng nhìn những người bạn tù tốt số hơn mình.Dĩ nhiên vẫn có người hão tâm chia sẻ cho họ nhưng làm thế nào cho đủ.
Một hôm, gần cuối năm âm lịch 1975, tôi và một số bạn tù được lệnh đi xuống cuối trại khiêng những tấm vĩ sắt PSP về khối để lót phía sau nhà bếp. Trước đây, có lẽ những tấm vĩ này được lót để cho trực thăng đáp xuống tiếp tế cho trại vì ở gần đó có nhiều nhà vòm bằng sắt để chứa các quân dụng được tiếp tế. Khi tôi và một người bạn tù ì ach khiêng tấm vĩ sắt nặng nề trở về khối thì bỗng có tiếng nổ lớn bên hông trại rồi hàng loạt tiếng nổ khác tiếp tục vang lên. Chúng tôi bỏ vĩ sắt xuống chạy vào một nhà vòm trú ẩn. Tiếng những mãnh đạn hay bom chạm vảo nhà vòm làm chúng tôi bạt vía. Tôi tự nghỉ khi còn chiến tranh mình không chết nay hòa bình rồi mình lại chết vì bom đạn hay sao?
Chúng tôi đợi khá lâu sau khi dứt tiếng nổ mới chui ra khỏi nhà vòm. Chúng tôi quan sát thấy la liệt mảnh bom đạn đầy trên mặt đất. Quả là chúng tôi còn may mắn nếu không có chõ ẩn nấp thì chúng tôi đã tan xương, nát thịt.
Trở về khối chúng tôi được biết có một số ít tù bệnh nằm ở nhà bị chết. Ngoài ra có một anh trung úy bác sĩ quân y làm ở trạm xá cũng bị chết. Tôi còn nhớ tên anh ta là Nguyễn Đăng Chương Dương. Còn về số thương vong phía bộ đội tôi không rõ nhưng chắc là nhiều lắm vì họ ở nhà. Nơi phát xuất vụ nổ là kho đạn cũ của sư đoàn 18 sát bên hông của trại.
Nguyên nhân vụ nổ là do một anh bộ đội coi kho đốt dây chuyền nổ làm pháo bông chơi.
Tiếng nổ vang vọng tới Sài Gòn khiến thân nhân những người tù cải tạo đổ xô lên Long Khánh do la tin tức người nhà. Vợ tôi nhờ em họ tôi trông dùm thằng con mới được mấy tháng cùng má vợ tôi đáp xe lửa mỗi ngày lên Long Khánh để tìm tôi. Nhưng chính sách của những người cộng sản là giũ bí mật nơi giam giữ tù cải tạo nên vợ tôi chỉ biết khóc bù lu bù loa chớ không sao gặp được chồng,
Tết năm 1976, cái tết đầu tiên trong trại cải tạo làm cho tôi thắm thía thân phận một người thua trận. Dù bị cấm, đêm giao thừa chúng tôi tụ họp ngoài sân đồng ca bản Ly rượu mừng của Phạm Đình Chương. Tiếng hát vang lên trong đêm cuối cùng của năm khiến mọi người nhớ tới những đêm 30 của những năm sống trong chế độ tự do, những thời gian hạnh phúc mà chúng tôi không biết.
Cũng trong trại cải tạo Long Khánh, tôi cảm xúc hoàn cảnh của mình nên có làm một vài bài thơ. Không phải là thi sĩ nên thơ tôi chắc không hay nhưng đó là tất cả nỗi lòng của tôi. Trong số đó có bài thơ về ngày Tết trong trại:
Xuân chia ly
Xuân về trại vắng buồn tênh
Nghĩ thương cho nỗi lênh đênh phận mình
Nước nhà nay đã thanh bình
Sao còn chia cắt thâm tình nữa chi
Làm cho lệ ướt hoen mi
Người cô phụ trẻ mỗi khi đêm về
Ôm con trông ánh trăng thề
Nhớ người xa cách não nề ruột gan
(Trại cải tạo Long Khánh, xuân năm 1976)
Lại một lần nữa trong năm 1976, chúng tôi bị chuyển trại trong một đêm tối mịt mùng cũng vẫn trong những chiếc xe molotova che bạt bít bùng. Bắt chước Mị Châu trong truyền thuyết Trọng Thủy Mị Châu, tôi viết câu: “tù cải tạo bị chuyển đi hướng này” trên những mẫu giấy nhỏ và lén vạch tấm bạt liêng xuống đường mong người dân lượm được biết chúng tôi bị đưa về đâu.
Lần này họ đưa chúng tôi lên Ka Tum, Tây Ninh. Nơi đây, đám tù trước đã xây dựng láng trại khá khang trang. Ba dãy buồng ngủ của chúng tôi xếp thành hình chữ U.quanh một sân rộng dành để tập họp tù để nghe chỉ thị của quản giáo. Đầu chữ U là nhà ăn, phía sau nhà ăn là lò rèn.
Lên đây, đám giáo chức chúng tôi bị phân ra và pha trộn với đám quân nhân thuần túy. Trong B tôi chỉ còn ba thầy giáo là Nghiêm Dũng, Vui và tôi. B trưởng là một anh thiếu úy người Bắc theo đạo Công Giáo rất miệng lưỡi. A trưởng của tôi là một anh thiếu úy người Huế hay Quảng Trị rất thâm hiểm. “Hoạn nạn mới biết chân tình” và “cháy nhà mới lòi mặt chuột:”, những câu nói đó ứng nghiệm đúng trong hoàn cảnh khó khăn cùng cực của những người tù cải tạo. Tôi rất tự hào rằng trong tận cùng của sự thiếu thốn, đói khát và đọa đày thể xác cũng như tâm hồn ở trại cải tạo tôi vẫn giữ được tư cách của một con người. Không thiếu gì người đã không chịu nỗi những thử thách khắc nghiệt đó nên đã đánh mất lương tri của một con người, để làm ăng ten quên đi tình nghĩa huynh đệ chi binh ngày xưa tố cáo người đồng tù, đồng đội với quản giáo những “vi phạm nội quy”của họ như: nói xấu chế độ mới, kể chuyện cũ, nói tiếng nước ngoài, chây lười lao động...
Ở đây là đồng cỏ nối tiếp với rừng cây nên trại chia khối của chúng tôi thành các đội như sau: đội đi rừng, đội mộc, đội xây nhà và đội cải thiện. Mỗi buổi sáng, sau khi ăn một chén cháo loảng, các đội tập hợp ngoài sân để nghe quản giáo phân công tác. Đội đi rừng đi lấy tranh hay chặt cây. Sau khi cán bộ ra chỉ tiêu, đội trưởng phân công tác ngượi đi lấy tranh, người đi chặt cột, ruôi, mè... Nếu cột to thì hai người khiêng một cột, còn ruôi và mè thì mỗi người một bó. Đội mộc, đội xây nhà và đội cải thiện thì làm việc tại trại. Đội mộc đục đẽo, cưa cắt các khúc cây thành cột, kèo. Đội xây nhà thì đánh tranh thành tấm, dựng cột, ráp sườn nhà và lợp mái tranh. Đội cải thiện thì lrồng rau và gánh phân lấy từ các hố xí để tưới rau.
Lò rèn trong trại cải tạo
Một ngày chủ nhựt cuối năm 1976, mọi người được nghỉ lao động. Tôi đang ngồi viết thơ cho gia đình thì có một tiếng nổ long trời vang ra hướng lò rèn. Vui, bạn tôi ở trong tổ lò rèn. Lo lắng không biết Vui có bị gì không nên tôi chạy lên lò rèn. Tới nơi một cảnh tượng khủng khiếp hiện ra trước mắt tôi. Vài người nằm sóng soài trên nền đất trong vũng máu. Có người thân thể không còn nguyên vẹn. Tôi cố nhận diện xem có Vui trong số nạn nhân đó không. Thình lình sau lưng tôi có tiếng của Vui: ”Ân ơi mình may quá, hôm nay nghỉ, mình không lên lò rèn.”
Sau đó tôi được biết, anh tổ trưởng lò rèn là một sĩ quan công binh, nhân ngày nghỉ anh đem những quả đạn đại bác bị lép đem về cùng một số bạn cùng tổ cưa ra để lấy thuốc nổ làm pháo đốt chơi trong dịp Tết sắp đến. Hậu quả: nhiều người thương vong.
Cái Tết thứ hai trong trại cải tạo lặng lẽ trôi qua trong nỗi nhớ thương gia đình quay quắt.
Hai cái Tết, chứng kiến hai vụ nổ gây chết chóc cho những người tù cải tạo làm tôi buồn nghĩ đến thân phận mình. Không biết ngày nào tôi sẽ được thả về với vợ con để đón một cái Tết sum họp tràn đầy hạnh phúc.
Huỳnh Công Ân
26/1/2025 (27 Tết)